Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG VÀ THỰC HIỆN HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THEO TCVN ISO 9001 2008 TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 45 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN KIỂM ĐỊNH
CHẤT LƯỢNG VÀ THỰC HIỆN HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
THEO TCVN ISO 9001:2008 TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
QUẢN LÝ ĐÀO TẠO
Trong quá trình xây dựng và phát triển nhà trường mọi hoạt động đều hướng
đến mục đích là “Xây dựng Trường Đại học TDTT Đà Nẵng thành trường trọng
điểm trong công tác đào tạo cán bộ TDTT cho khu vực miền Trung – Tây
Nguyên, xây dựng nhà trường thành cơ sở đào tạo, NCKH và tư vấn có tầm cỡ khu
vực, có chất lượng đào tạo cao”.
Để thực hiện được mục tiêu đó, bất cứ một cơ sở giáo dục nào cũng cần chú
ý công tác quản lý chất lượng, cần phải tìm hiểu lựa chọn hệ thống quản lý chất lượng.
Lãnh đạo trường đại học TDTT Đà Nẵng đã sớm nhận thức được điều này, sớm có chủ
trương, quyết định lựa chọn, triển khai xây dựng và thực hiện hệ thống quản lý chất
lượng ISO 9001:2008, thiết lập hệ thống tổ chức chỉ đạo áp dụng ISO 9001:2008.
Ngoài ra, xét toàn xã hội, vấn đề chất lượng nói chung, chất lượng đào tạo nói
riêng đang là vấn đề quan tâm của tất cả mọi người. Một trong những nhiệm vụ chủ
yếu của ngành giáo dục - đào tạo được đặt ra trong năm nay là kiểm định chất lượng
và khảo thí. Một trong những điểm mới của Luật giáo dục vừa ban hành là đưa thêm
nhiệm vụ kiểm định chất lượng và công tác kiểm định. Như vậy, chủ trương của lãnh
đạo Nhà trường là phù hợp xu thế chung, như là một tất yếu khách quan.
Hệ thống quản lý chất lượng Nhà trường bao gồm các yếu tố khác nhau: ISO,
hệ thống kiểm định chất lượng (chương trình, nhà trường) v.v. Các yếu tố này bổ sung
hỗ trợ nhau trong việc quản lý, kiểm soát chất lượng đồng bộ.
1. Ý nghĩa xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO
9001:2008, thực hiện kiểm định chất lượng
Xây dựng và thực hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001: 2008 giúp không
ngừng hoàn thiện quá trình quản lý, quá trình đào tạo trên cơ sở các chuẩn mực đã
được xây dựng, trên cơ sở định kỳ làm rõ những điểm không phù hợp và có kế hoạch
khắc phục có hiệu quả các điểm không phù hợp đó.
Kiểm định nhà trường hỗ trợ việc kiểm tra thực hiện các chuẩn mực (Tiêu
chuẩn và tiêu chí) quản lý quá trình đào tạo đã được Bộ Giáo dục - Đào tạo quy định


(Hiện là 10 tiêu chuẩn và 53 tiêu chí). Nhận thức rõ điều đó nhà trường đã đăng ký là
một trong các trường thực hiện kiểm định chất lượng (đánh giá ngoài) vào năm 2012
theo các tiêu chuẩn và tiêu chí của Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban hành.
Để xây dựng, hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng và ISO 9001:2008 Nhà
trường đã thành lập Ban chỉ đạo ISO 9001:2008 và các tổ công tác chất lượng ISO
9001 – 2008, lựa chọn, mời cơ quan tư vấn để xây dựng hệ thống ISO 9001:2008, tiến
hành tự đánh giá thực trạng của trường so với các tiêu chuẩn của hệ thống quản lý chất
lượng và ISO 9001: 2008, thiết kế và lập hệ thống văn bản quản lý chất lượng theo hệ
thống quản lý chất lượng và ISO 9001: 2008, và mời tổ chức BSI (Anh) đánh giá
ngoài và được cấp chứng chỉ.
Qua đánh giá trong và đánh giá ngoài đã chỉ rõ những điểm chưa phù hợp, đã
có kế hoạch phòng ngừa, khắc phục các điểm chưa phù hợp, đã và tiếp tục thực hiện
các giải pháp khắc phục các điểm chưa phù hợp đó. Việc xây dựng, áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng ISO 9001:2008 đã giúp thay đổi tư duy và thói quen quản lý cũ,
hình thành tư duy và thói quen mới về quản lý chất lượng đào tạo, hướng quản lý chất
lượng vào thoả mãn nhu cầu khách hàng, thực hiện đồng bộ các biện pháp tác động
đến toàn bộ quá trình hình thành chất lượng đào tạo, xác định rõ vai trò trách nhiệm
mỗi cá nhân, các bộ phận trong toàn trường đối với đảm bảo và nâng cao chất lượng
đào tạo, thực hiện quản lý theo hệ thống văn bản quản lý chất lượng, nâng cao hiệu lực
quản lý.
Nhà trường cũng đã thành lập Ban chỉ đạo kiểm định chất lượng và các tổ
chuyên trách. Các thành viên của tổ chuyên trách đã tham gia lớp tập huấn về tự đánh
giá. Với sự hỗ trợ của tổ tư vấn, cho đến nay trường đã có báo cáo đánh giá trong (tự
đánh giá) nộp Bộ Giáo dục đào tạo theo kế hoạch.
Mục đích của hệ thống quản lý chất lượng ở Nhà trường là không ngừng
nâng cao chất lượng đào tạo. Việc nhận chứng chỉ ISO 9001:2008 và từng bước
hoàn thành Báo cáo Tự đánh giá chất lượng của nhà trường mới là sự khởi đầu của quá
trình đó. Quá trình này còn tiếp tục song hành với sự tồn tại và phát triển của nhà
trường.
2. Kiểm định chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2008

Khi vấn đề đặt ra là chất lượng, mọi người luôn có sự liên tưởng đến tiêu chuẩn
ISO 9001: 2008 - Hệ thống quản lý chất lượng. Ai cũng biết rằng tiêu chuẩn này là
một tiêu chuẩn khá phổ biến tại Việt Nam và được áp dụng cho nhiều ngành nghề khác
nhau, từ bệnh viện đến xưởng cơ khí, từ trường học đến các doanh nghiệp… Vậy đâu
là sự khác biệt giữa kiểm định chất lượng và tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001: 2008?
Kiểm định chất lượng: Là việc kiểm tra để xác nhận giá trị của một trường đại
học và cao đẳng. Việc kiểm định chất lượng này có ý nghĩa như phê duyệt giá trị sử
dụng cho các bằng cấp được ban hành bởi các trường. Các trường được công nhận chỉ
được cấp giấy công nhận trong một khoảng thời gian xác định và các chương trình học
xác định. Trong khoảng thời gian này, sẽ có các chuyên gia kiểm định đi kiểm tra giám
sát định kỳ.
ISO 9001: 2008 - Hệ thống quản lý chất lượng: ISO là viết tắt của
International Standard Organization và có nhiều bộ tiêu chuẩn khác nhau, trong đó tiêu
chuẩn ISO 9001: 2008 được xem là phổ biến. ISO 9001: 2008 chuẩn hoá hệ thống
quản lý chất lượng, trong đó thể hiện việc cải tiến liên tục và định hướng vào khách
hàng.
ISO 9001: 2008 không hạn chế trong bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào, và
được áp dụng cho tất cả các ngành nghề. Chính vì vậy đạt được tiêu chuẩn ISO trong
ngành giáo dục không có nghĩa là “chất lượng cao” mà chỉ có nghĩa là các trường đang
“cố gắng hoàn thiện về chất lượng” của mình thông qua việc cải tiến liên tục. Tiến sỹ
W. Edward Deming nhận xét: “Chất lượng tốt không nhất thiết là chất lượng cao mà là
sự đồng đều và đáng tin cậy ở một mức giá thấp nhất để thị trường có thể chấp nhận
được”.
* Điểm khác nhau giữa kiểm định chất lượng và tiêu chuẩn ISO 9001: 2008
Điểm khác nhau đầu tiên là bản chất của kiểm định chất lượng thể hiện vai trò
của trường đại học trong việc đào tạo ra các sinh viên có chất lượng trong khi đó ISO
9001: 2008 chỉ thể hiện vấn đề cải tiến liên tục trong việc quản lý chất lượng giảng
dạy. Nói cách khác, thông qua việc kiểm định chất lượng sẽ phân loại được trường và
đẳng cấp của các trường được thể hiện rất rõ còn đối với ISO 9001: 2008 thì mọi
trường đều có thể đạt được.

Điểm thứ hai là ISO là một công cụ để quản lý một cách hiệu quả hơn hệ thống
của tổ chức chứ không phải là một mức độ, một đẳng cấp. Người ta có thể sử dụng
ISO 9001: 2008 ở bất cứ một loại hình doanh nghiệp. Nếu nhìn dưới một góc độ khác,
chúng ta có thể nhận ra rằng ISO chỉ là định hướng cho sự phát triển của trường đại
học còn kiểm định chất lượng giống như một mục tiêu cụ thể. Đối với ISO điều quan
trọng để đạt được là cách tiếp cận theo quá trình. Các giáo trình, bài giảng được kiểm
soát một cách chặt chẽ hơn thông qua các thủ tục, các bản hướng dẫn công việc cụ thể.
Nhưng nội dung của các bài giảng này và việc áp dụng vào thực tế các kiến thức đã
được học không thể được thể hiện. Về phần kiểm định chất lượng, yêu cầu đặt ra là
làm bất cứ cách nào để nâng cao chất lượng đào tạo của trường đại học đến một mức
độ nào đó.
Điểm thứ ba là cách đánh giá của ISO 9001: 2008 và kiểm định chất lượng là
hoàn toàn khác nhau. Việc đánh giá ISO dựa trên nguyên tắc PDCA (plan – do – check
– act) có nghĩa là một hoạt động trong trường chỉ cần tuân theo 4 bước: lập kế hoạch -
thực hiện - kiểm tra - điều chỉnh là đủ theo yêu cầu. Khi đánh giá ISO, đánh giá viên
không thể đưa ra thang điểm mà chỉ có thể đưa ra các điểm không phù hợp. Ngược lại,
việc đánh giá kiểm định chất lượng cần phải đưa ra được một thang điểm rõ ràng cụ
thể.
Điểm thứ tư là đối với ISO 9001: 2008 không thể được xuất hiện trên bằng cấp
của sinh viên vì ISO là hệ thống chứ không phải là sản phẩm và tổ chức ISO cũng như
các tổ chức chứng nhận hay công nhận cũng sẽ không chịu trách nhiệm đối với chất
lượng của các bằng cử nhân, thạc sỹ hay tiến sỹ do trường cung cấp. Còn đối với kiểm
định chất lượng, tổ chức kiểm định sẽ phải chịu trách nhiệm đối với các bằng cấp của
trường do mình kiểm định.
* Điểm giống nhau giữa kiểm định chất lượng và tiêu chuẩn ISO 9001: 2008
Các điểm khác nhau ở trên không có nghĩa là kiểm định chất lượng và ISO khác
nhau hoàn toàn. Việc kiểm định chất lượng cũng tương tự như việc chứng nhận sản
phẩm hợp chuẩn trong các doanh nghiệp. Để có một sản phẩm tốt, cần đến một hệ
thống quản lý chất lượng ổn định. Đối với trường đại học, chất lượng là sự công nhận
về từng thành tựu đạt được hay còn gọi là đầu ra. Tóm lại ta sử dụng công thức dưới

đây để thể hiện vấn đề kiểm định chất lượng:
Chất lượng = Hệ thống quản lý + Sản phẩm
Do đó
Kiểm định chất lượng = đánh giá hệ thống quản lý + kiểm định chất lượng
sinh viên tốt nghiệp.
Nếu một trường có một hệ thống quản lý tốt và chất lượng của sinh viên tốt
nghiệp giỏi có nghĩa là trường đó đạt được mức kiểm định chất lượng đúng theo yêu
cầu. Như thế việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001: 2008 để kiểm soát hệ thống quản lý là
hoàn toàn phù hợp.
Trên đây chúng ta đã nhìn thấy được khái niệm, các điểm khác nhau và giống
nhau giữa kiểm định chất lượng và ISO 9001: 2000, vậy câu hỏi được đặt ra là làm thế
nào kết hợp được ISO 9001: 2000 và kiểm định chất lượng? Để trả lời cho câu hỏi
trên, chúng ta quay lại phần giống nhau giữa kiểm định chất lượng và tiêu chuẩn ISO
9001: 2008.
Chất lượng = hệ thống quản lý + sản phẩm
Kiểm định chất lượng = đánh giá hệ thống quản lý + kiểm định chất lượng sinh
viên tốt nghiệp.
Để kiểm định chất lượng theo nguyên tắc trên, chúng ta cần phải xây dựng hai
hệ thống và theo từng bước như sau:
Bước 1: Xây dựng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2008. Đây là
bước nhà trường đã triển khai, thực hiện, là một bước chuẩn bị cho việc kiểm định
chất lượng. Giai đoạn này phải kéo dài trong vòng 2 - 3 năm cho đến lần tái đánh giá
hệ thống quản lý chất lượng nhằm mục đích cho nhà trường quen dần với việc đánh
giá và khắc phục những vấn đề còn tồn tại và đảm bảo các yêu cầu tối thiểu cho một
hệ thống quản lý chất lượng.
Bước 2: Kiểm định chất lượng sinh viên tốt nghiệp theo các tiêu chí và các
thang điểm cụ thể theo nội dung quy định. Các tiêu chí phải đi sâu hơn về mặt nội
dung. Để đánh giá chất lượng sinh viên tốt nghiệp phải dựa trên nền tảng ISO 9001:
2008. Giai đoạn này nhằm bổ sung các yếu tố cần thiết cho việc kiểm định chất lượng.
Thời gian để nâng cấp cho chất lượng sinh viên tốt nghiệp thường kéo dài trong 3

năm.
Bước 3: Đánh giá toàn bộ trường theo các yêu cầu của việc kiểm định chất
lượng để chứng minh được toàn bộ hệ thống hoạt động có hiệu quả. Giai đoạn này là
giai đoạn quyết định cho nhà trường có thể đạt được kiểm định về chất lượng giáo dục
hay không. Sau giai đoạn này định kỳ hoặc ngẫu nhiên, các chuyên gia kiểm định sẽ
thực hiện việc kiểm định và ít nhất 1 năm 1 lần tuỳ theo quy định.
3. Thực trạng việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008,
thực hiện kiểm định chất lượng
3.1. Những kết quả đạt được:
- Quá trình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008
đã góp phần nâng cao năng lực, kỹ năng và sự sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công chức
nhằm đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Thể hiện thái độ đúng
mực trong giao tiếp trao đổi công tác; đặc biệt là thái độ sẵn sàng tiếp nhận, giải quyết
các hồ sơ, sự việc thuộc thẩm quyền; đáp ứng tốt hơn nhu cầu quản lý hành chính và
hài lòng đối với khách hàng.
- Các quy trình giải quyết công việc được cụ thể hoá một cách đơn giản, rõ
ràng, thống nhất, công khai và đúng luật pháp, tạo điều kiện cho mọi khách hàng dễ
dàng tiếp cận với các thủ tục cần thiết; đồng thời giúp cho Ban lãnh đạo theo dõi và
kiểm soát hệ thống công việc cấp dưới một cách nhanh chóng và chính xác.
- Công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu từng bước đi vào nề nếp, tạo điều kiện trong
việc tìm kiếm nhanh chóng và chính xác.
- Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 góp
phần xây dựng lề lối làm việc theo phong cách chuyên nghiệp trong đội ngũ CB, CNV
cơ quan. Quy trình giải quyết các công việc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, do đó
đòi hỏi mỗi CB, CNV phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm và phối hợp đồng bộ để
tránh bị động chung.
-
Thự
c
hiện

tiêu
chuẩn

kiểm

định

chấ
t l
ượng

đạ
i
họ
c c

a B


Giáo

dụ
c


Đào
t
ạo

tuy


không

dễ

dàng

nhưng
Nhà
Trường
đã c


gắng

phấn

đấu để

hoàn

thành



mộ
t
mứ
c



thể,

m

nền
t
ảng

cho

Trường

xây

dựng



phát
tri
ển

đạ
t tiêu
chuẩn

ISO

mộ

t
cách
bền

vững

nhằm

hộ
i
đủ
các
đ
i
ều

kiện

hộ
i
nhập
các
nền

giáo

dụ
c



đào
t
ạo

trong
khu

vự
c


trên

thế

giớ
i.
3.2. Những tồn tại
- Còn lúng túng chưa hình dung hết các công việc, nhiều tài liệu ban hành còn
mang tính hình thức, chưa sát với thực tế công việc nên phải chỉnh sửa, bổ sung, thậm
chí bãi bỏ, phải ban hành mới nhiều lần.
- Một bộ phận cán bộ chủ chốt và CB, CNV của một số đơn vị tham gia các
khóa đào tạo nhận thức về hệ thống quản lý chất lượng, về đánh giá nội bộ theo tiêu
chuẩn TCVN ISO 9001:2008 chưa đầy đủ do đó ảnh hưởng rất lớn trong việc áp dụng
và duy trì cải tiến hệ thống quản lý chất lượng tại đơn vị đó.
- Một số cán bộ công chức chưa quen với hệ thống quản lý chất lượng, nhận
thức chưa cao, cảm thấy “gò bó” khi thực hiện công việc theo các quy trình, thủ tục,
quy định. Đây là quá trình thay đổi tạo “văn hóa” trong công tác quản lý, hình thành
phương pháp làm việc mới trong cán bộ nhân viên của cơ quan quản lý nhà nước do
vậy cần có thời gian thích nghi và phải thường xuyên đào tạo.

- Hệ thống pháp luật thay đổi liên tục, các thủ tục, hướng dẫn, biểu mẫu cũng
phải thay đổi gây không ít khó khăn trong quá trình thực hiện.
4. Định hướng hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng Nhà trường:
- Xây dựng hệ thống quản lý, đảm bảo chất lượng đồng bộ, hoàn thiện ở nhà
trường; Thường xuyên hoàn thiện mục tiêu, chính sách chất lượng và nội dung hoạt
động kiểm soát chất lượng;
- Thường xuyên quán triệt mục tiêu, chính sách chất lượng và nội dung hoạt
động kiểm soát chất lượng đến các thế hệ giáo viên, cán bộ, sinh viên của trường;
- Xây dựng chương trình kiểm soát, kiểm định chất lượng bao gồm kiểm định
các chương trình đào tạo, kiểm định các đơn vị bộ phận trong trưòng và kiểm định
Nhà trường, gắn việc thực hiện ISO 9001: 2008 với hoàn thiện các công tác quản lý
khác, đưa hoạt động kiểm định chất lượng thành nề nếp, thành hoạt động thường
xuyên, định kỳ, phù hợp với quá trình đánh giá các hoạt động trong Nhà trường, gắn
với tổng kết học kỳ, tổng kết năm;
- Dần dần triển khai kiểm định các chương trình đào tạo, kiểm định các đơn vị
bộ phận trong trường và đưa các hoạt động này thành nề nếp;
- Củng cố, tăng cường lực lượng cho Phòng Thanh tra khảo thí, chuẩn bị cho
việc thành lập Trung tâm khảo thí và kiểm định chất lượng, sắp xếp lại lao động và tập
huấn cán bộ về kiểm định chất lượng, hình thành hệ thống, mạng lưới kiểm định chất
lưọng từ trường xuống các đơn vị;
- Xây dựng hệ thống tài liệu về kiểm định chất lượng các bài tập huấn, tài liệu,
video giới thiệu về hệ thống quản lý chất lượng của trường và quá trình phát triển của
nó (bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh) v.v;
- Cán bộ công chức trong quá trình thực hiện cần có nhận thức sâu sắc về việc
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008, kiểm
định chất lượng từ đó khả năng tổ chức duy trì, cải tiến và nâng cao hiệu quả áp dụng.
Tăng cường công tác học tập đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng và kinh nghiệm
thực tiễn cho cán bộ công chức để phát huy tính sáng tạo và chủ động trong công việc,
không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng công việc của mình.
5. Kết luận

Kiểm định chất lượng là một vấn đề không phải là mới so với nhận thức chung
toàn đơn vị và khá phức tạp trong quá trình triển khai, thực hiện. Trong giới hạn của
bài viết này không đủ để trình bày tất cả các vấn đề liên quan đến kiểm định chất
lượng và ISO 9001: 2008. Do đó, bài viết này chỉ mang tính chất tham khảo. Việc
kiểm định chất lượng không chỉ dừng lại ở đây, các câu hỏi khác được đặt ra và cần
phải giải quyết như: Chuẩn bị cho công tác kiểm định chất lượng như thế nào? Tiêu
chí để kiểm định chất lượng là gì? Nhà trường đã đáp ứng được các tiêu chí kiểm định
chưa? Và ai sẽ là chuyên gia kiểm định chất lượng? Nâng cao chất lượng công tác
quản lý đào tạo phải thoả mãm các câu hỏi đã đặt ra./.
TÀI LI Ệ U THAM K H

ẢO
Trong bài viết này sử dụng tài liệu tham khảo chính của Dr. Martin về việc
kiểm định chất lượng giáo dục Mỹ, bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và các bản triển khai
ISO 9001: 2008 của Dr. Nguyễn Võ Minh Hùng; ThS Nguyễn Tử Minh, Trường Cao
đẳng Sư phạm Đà Lạt. Các thông tin tham khảo trên mạng từ các trường đại học cả
nước.
ỨNG DỤNG TIN HỌC TRONG QUẢN LÝ GIỜ DẠY
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO ĐÀ NẴNG
Ths. Nguyễn Mạnh Cường
Bộ môn Cầu lông – Quần vợt
1. Đặt vấn đề:
Việc thực hiện bằng phương pháp thủ công công việc quản lý giờ dạy của các
cán bộ giảng viên (CBGV) các bộ môn thuộc trường Đại học TDTT Đà Nẵng thường
chiếm khối lượng lớn thời gian của các trợ lý bộ môn nhưng vẫn không đảm bảo tính
chính xác của các số liệu, dữ liệu về khối lượng giờ giảng dạy, lịch phân công giảng
dạy của các CBGV trong bộ môn. Điều đó dẫn đến hiệu quả công việc của các trợ lý
bộ môn vẫn chưa cao.
Năm 2008, Bộ trưởng Bộ GD & ĐT đã ban hành Chỉ thị 55/2008/CT-
BGD&ĐT về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong giáo dục

giai đoạn 2008-2012. Xuất phát từ thực tế đó, là trợ lý bộ môn Cầu lông – Quần vợt,
tôi đã mạnh dạn đầu tư thời gian nghiên cứu ứng dụng tin học vào việc quản lý giờ dạy
của CBGV trong bộ môn từ năm học 2009-2010. Sau gần 02 năm thực hiện công việc
quản lý giờ dạy của bộ môn, với sự ứng dụng của tin học, hiệu quả công việc được
nâng cao rõ rệt, thời gian thực hiện công việc giảm đi đáng kể, số liệu, dữ liệu tính
toán và lưu trữ đảm bảo độ chính xác cao. Tuy nhiên, việc ứng dụng tin học vào công
việc của trợ lý bộ môn tại trường Đại học TDTT Đà Nẵng vẫn chưa được thực hiện
rộng rãi do vẫn còn tồn tại một số khó khăn mà sẽ được đề cập bên dưới đây.
2. Công tác quản lý giờ dạy theo phương pháp thủ công và những hạn chế
tồn tại:
Bằng phương pháp thủ công, để thực hiện công tác quản lý giờ dạy của các
CBGV trong bộ môn, người trợ lý bộ môn phải thực hiện các công việc sau theo từng
bước riêng rẽ, rời rạc, không liên kết:
 Tính toán khối lượng giờ giảng dạy dự báo cho năm học mới theo từng học kỳ
căn cứ vào giấy báo giảng từ phòng Đào tạo.
 Cân đối và phân lịch giảng dạy cho các CBGV trong bộ môn theo lịch giảng
dạy từ phòng Đào tạo căn cứ theo hệ số lớp học như nhà trường quy định.
 Điền lịch giảng dạy của cá nhân CBGV vào mẫu theo quy định.
 Tính khối lượng giờ giảng dạy lý thuyết, thực hành, giờ ngoài trời, giờ coi thi,
chấm thi, v.v của từng CBGV của từng môn học trong bộ môn theo lịch giảng dạy đã
phân hàng tuần.
 Điền số liệu thống kê tổng hợp khối lượng giờ giảng dạy của CBGV vào mẫu
theo quy định của nhà trường (ĐT.QT.05*B.12 ngày 25/1/11).
 Tổng hợp khối lượng hoàn thành giảng dạy của từng CBGV theo từng học kỳ.
 Căn cứ vào bảng tổng hợp giờ giảng dạy để khắc phục sai sót trong việc phân
giờ dạy không cân đối trong học kỳ sau.
 Tổng hợp khối lượng giờ giảng dạy thực tế trong năm của các CBGV để tính
khối lượng vượt giờ trong học kỳ/ năm học, khối lượng giờ thừa trong định mức và
ngoài định mức.
Việc thực hiện khối lượng công việc trên bằng phương pháp thủ công đã bộc lộ

những nhược điểm của phương pháp này như sau:
 Tiêu tốn nhiều thời gian khi sắp xếp lịch từng cá nhân do phải điều chỉnh cân
đối lượng giờ giảng dạy của các CBGV trong bộ môn;
 Tiêu tốn thời gian để viết và sao chép bằng tay các bảng phân lịch giảng dạy;
 Lưu trữ nhiều giấy tờ (các bảng phân lịch của từng cá nhân CBGV, trong từng
tuần, tháng, học kỳ);
 Thường mắc phải sai sót, nhầm lẫn trong tính toán khối lượng giờ giảng dạy;
 Khối lượng giờ giảng dạy của các CBGV trong bộ môn thường bị chênh lệch
lớn do không thường xuyên tổng hợp số lượng giờ giảng dạy trong các tuần hoặc trong
học kỳ;
 Không kịp điều chỉnh số lượng giờ chênh lệch giữa các CBGV trong từng môn
học dẫn đến sự chênh lệch lớn trong khối lượng giảng dạy của các CBGV từng môn
học trong bộ môn;
3. Ứng dụng tin học vào công tác quản lý giờ dạy:
Những hạn chế nêu trên được khắc phục đáng kể, mang lại hiệu quả cao trong
công tác quản lý giờ dạy của người trợ lý bộ môn với sự ứng dụng của tin học, cụ thể
hơn là sự vận dụng phần mềm Microsoft Excel vào việc phân lịch và tính toán khối
lượng giờ.
Có thể nói rằng phần mềm Microsoft Excel mở ra triển vọng to lớn trong việc
tính toán các số liệu có tính liên kết một cách nhanh chóng, chính xác và việc quản lý
dữ liệu theo hệ thống rõ ràng.
Nếu như việc quản lý giờ dạy bằng phương pháp thủ công được thực hiện một
cách riêng rẽ, rời rạc và đòi hỏi việc tính toán lặp đi lặp lại để đảm bảo tính chính xác
thì bằng việc ứng dụng phần mềm Microsoft Excel, các công việc đó được thực hiện
trong cùng một thao tác nhập số liệu “đầu vào”. Tuy nhiên, làm sao để điều đó có thể
thực hiện được, đó chính là mấu chốt quan trọng của công việc này. Để làm được điều
này, tất cả mọi phép tính đều đã được cài đặt sẵn công thức sau khi tham chiếu các quy
định của nhà trường về công tác tính toán và quản lý giờ dạy của bộ môn.
Minh họa cụ thể về ứng dụng của Microsoft Excel trong công tác quản lý giờ
dạy tại bộ môn Cầu lông – Quần vợt:

• Dự báo khối lượng giảng dạy của từng học kỳ được thực hiện bằng các thao
tác tính toán đơn giản trên Microsoft Excel.
Tuy nhiên, kết quả của phần “Vượt giờ” được tính toán dựa vào số liệu liên kết
giữa phần dự báo của các học kỳ với phần tổng hợp khối lượng giờ giảng dạy thực tế
trong từng học kỳ. Phần tổng hợp khối lượng giờ sẽ được minh họa ở phần tính toán
khối lượng giờ.
• Việc phân lịch giảng dạy và tổng hợp khối lượng giờ giảng dạy hàng tuần của
các cá nhân CBGV trong bộ môn được thực hiện đồng thời với thao tác “chọn” các lớp
học trong danh sách. Danh sách các lớp học sẽ tham chiếu đến hệ số lớp học theo quy
định của nhà trường, do đó, khi một lớp học trong danh sách đổ xuống được chọn thì
khối lượng giờ dạy sẽ được tính toán tự động theo từng tiết học, từng ngày và từng
tuần; lịch giảng dạy của từng cá nhân CBGV sẽ được sắp xếp tự động; đồng thời, bảng
thống kê tổng hợp khối lượng giảng dạy của CBGV từng học kỳ, cả năm sẽ được tự
động cập nhật.
Số liệu từ bảng tổng khối lượng hoàn thành giảng dạy của CBGV sẽ được tự
động liên kết với số liệu của phần dự báo khối lượng giảng dạy để tự động tính toán
phần "Vượt giờ" cho mỗi học kỳ và cho cả năm học với số giờ thừa trong định mức và
thừa ngoài định mức.
Bảng khối lượng giờ coi thi/ ra đề/ chấm thi cũng được tự động tính toán với
các số liệu liên kết từ các bảng tính khác.
Những thuận lợi và khó khăn của phương pháp mới:
Việc áp dụng phần mềm Microsoft Excel vào công tác quản lý giờ dạy của các
trợ lý bộ môn đem lại những thuận lợi sau:
• Tiết kiệm đáng kể lượng thời gian thực hiện công việc;
• Công việc được thực hiện một cách chuyên nghiệp hóa;
• Ít mắc phải sai sót, nhầm lẫn trong tính toán khối lượng giờ giảng dạy,đảm
bảo độ chính xác cao của số liệu, dữ liệu;

• Giảm thiểu sự chênh lệch trong việc phân giờ giảng dạy cho các CBGV;
• Kịp thời điều chỉnh số lượng giờ chênh lệch giữa các CBGV trong từng môn
học (nếu có).
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, việc ứng dụng phần mềm Microsoft Excel
vào công tác quản lý giờ dạy vẫn còn tồn tại một số khó khăn sau:
• Dự báo khối lượng giảng dạy đầu năm học và tổng khối lượng giảng dạy thực
tế của mỗi cá nhân CBGV trong năm còn có sự chênh lệch lớn với tỷ lệ sai số có thể
lớn hơn tỷ lệ sai số cho phép, xuất phát từ nguyên nhân do kế hoạch công tác, học tập
của CBGV nằm ngoài dự đoán của bộ môn, cũng như việc thay đổi, bổ sung tăng đột
suất số lượng lớp học và số lượng sinh viên của các lớp sau khi hoàn thành kết quả dự
báo;
• Kiến thức, kỹ năng tin học của một số CBGV trợ lý bộ môn vẫn còn hạn chế,
chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo trong việc nghiên cứu đổi mới phương
pháp quản lý công việc của mình.
4. Bài học kinh nghiệm và đề xuất:
Qua 02 năm ứng dụng phần mềm Microsoft Excel vào công tác quản lý giờ dạy
của CBGV bộ môn Cầu lông – Quần vợt, tôi có một số kinh nghiệm và đề xuất sau:
• CBGV trợ lý bộ môn cần đầu tư thời gian vào việc nghiên cứu các phương
pháp quản lý giờ dạy mới nhằm thay thế phương pháp thủ công tồn tại nhiều hạn chế;
• Các CBGV cần thường xuyên học tập và tự trang bị thêm kiến thức về tin học
để phục vụ cho công tác chuyên môn giảng dạy và quản lý của mình;
• Nhà trường cần thường xuyên quan tâm và tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng
tin học cần thiết cho các CBGV;
• Phòng Đào tạo nên tổ chức các buổi giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các
trợ lý bộ môn để học hỏi, cập nhật kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác quản lý bộ
môn để phục vụ công việc tốt hơn.
5. Kết luận:
Trong thời điểm hiện nay, với tốc độ phát triển nhanh chóng của ngành công
nghệ thông tin nói chung, của ngành tin học nói riêng thì việc ứng dụng tin học vào
công tác giảng dạy và quản lý giáo dục đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học là

một tất yếu khách quan. Ứng dụng tin học vào công tác quản lý giờ dạy tại các bộ môn
thuộc trường Đại học TDTT Đà Nẵng nói riêng là một việc làm rất quan trọng và có ý
nghĩa, do đó chúng ta cần phải thực hiện và đẩy mạnh sự ứng dụng đó một cách đồng
bộ trong toàn trường trong giai đoạn hiện nay. Chỉ có như vậy các CBGV trợ lý bộ
môn mới có thể vừa hoàn thành tốt công tác giảng dạy chuyên môn, vừa thực hiện tốt
công tác quản lý giờ dạy của bộ môn nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong công tác
giáo dục đào tạo tại trường.
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ
ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
Ths. Nguyễn Thị Hải Vy
Phòng QLKH & HTQT
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như tại các cơ quan
trường học, chúng ta đã nghe nhiều về cụm từ “Ứng dụng công nghệ thông tin
(CNTT)….”. Vậy CNTT là gì? Đối với lĩnh vực giáo dục thì ta có thể hiểu CNTT là
đối tượng học tập, là công cụ học tập, là một người hướng dẫn, là một phương tiện mở,
là phương tiện truyền thông. Vậy việc Ứng dụng CNTT trong dạy và học như thế nào?
Ứng dụng CNTT trong quản lý như thế nào? Đây là câu hỏi không chỉ một cá nhân
nào có thể trả lời mà là sự kết hợp của một tập thể. Đưa CNTT vào trong giáo dục
không phải là một hình thức đổi mới riêng rẽ mà chính là một phần quan trọng trong
việc phát triển xã hội hiện nay. Do vậy, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục luôn nên
được chú trọng và cần có sự sáng tạo và quyết tâm cao.
I. Thực trạng việc ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay:
1. Ứng dụng CNTT trong công tác đào tạo
Là một trường chuyên ngành về TDTT, đa số các sinh viên đều chú trọng đến
vấn đề tập luyện các môn học thể thao. Chính vì thế mà điều kiện được tiếp xúc với
CNTT của các em sinh viên là rất hạn chế.
Đội ngũ giảng viên: Một số giảng viên có trình độ tin học, kỹ năng sử dụng
máy tính và các phương tiện hỗ trợ còn hạn chế. Thực tế cho thấy nhiều người có
chứng chỉ hoặc bằng cấp cao về Tin học nhưng nếu ít sử dụng thì kỹ năng sẽ hạn chế,
ngược lại chỉ với chứng chỉ A –Tin học văn phòng nhưng nếu chịu khó học hỏi, thực

hành thì việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy sẽ chẳng mấy khó khăn.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc biệt là phục vụ cho việc
dạy tin học và ứng dụng CNTT của nhà trường tuy những năm gần đây đã được chú
trọng đầu tư nhưng vẫn còn thiếu các phòng học chức năng, số máy tính phục vụ cho
học tin học và nghiên cứu thông tin của sinh viên còn ít (chỉ có 02 phòng học vi tính
với tổng là 86 máy tính/3200SV, không có phòng máy truy cập thông tin internet tham
khảo tài liệu). Ngoài ra còn thiếu các phần mềm hỗ trợ dạy học và quản lý, thiếu kênh
cung cấp thông tin tham gia học tập trực tuyến…
2. Ứng dụng CNTT trong công tác quản lý
Việc ứng dụng CNTT trong quản lý, điều hành của trường đã được triển khai
nhiều năm trở lại đây với nhiều phần mềm đặc thù hữu ích tại các phòng như: Phần
mềm Quản lý nhân sự - P.TCCB, phần mềm kế toán – Phòng Tài vụ, phần mềm quản
lý công văn – phòng Văn thư, phần mềm Quản lý điểm – phòng Đào tạo… Tuy nhiên,
những ứng dụng này chưa đồng bộ và còn mang tính tự phát, chưa có hệ thống cơ sở
dữ liệu chung cho toàn trường. Nhân lực phụ trách và trực tiếp thực hiện ứng dụng
CNTT trong cơ quan còn thiếu.
Việc lưu trữ hồ sơ, văn bằng, chứng chỉ, công văn, giấy tờ, các loại hóa đơn,
chứng từ, danh mục sách báo, nhân sự, lương bổng, phân công công việc, lên kế hoạch
giảng dạy, lịch trình, đào tạo trực tuyến… đa số đều làm việc và lưu trữ bằng giấy tờ
hoặc bằng máy nhưng dưới hình thức tập hợp thông tin mà không có phần mềm hỗ trợ.
Việc trao đổi thông tin qua Email, qua Cổng thông tin nội bộ tuy đã có nhưng
vẫn còn ít, chỉ có một số cán bộ giảng viên thường xuyên sử dụng các hình thức làm
việc này.
II. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng CNTT trong quản lý và dạy học:
1. Ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học:
- Tiếp tục xây dựng nội dung thông tin số, khuyến khích giảng viên soạn bài
trình chiếu, bài giảng điện tử và giáo án trên máy tính phục vụ giảng dạy thay cho nội
dung thông tin bằng văn bảng giấy tờ.
- Phát huy tính tích cực tự học, tự tìm tòi thông tin qua mạng internet, tạo điều
kiện để sinh viên có thể học ở mọi nơi, mọi lúc, tìm được nội dung học phù hợp. Điều

này phụ thuộc vào cơ sở vật chất, phần mềm hỗ trợ và nhân lực phục vụ. Sẽ tính đến
phương án thư viện điện tử với các phòng máy truy cập, các bài giảng trực tuyến phục
vụ bạn đọc và nghiên cứu.
- Khuyến khích giảng viên trao đổi kinh nghiệm giảng dạy và thường xuyên cập
nhật các thông tin về giáo dục qua các website của Bộ GD và ÐT và qua Diễn đàn giáo
dục trên website bộ như:
+ Website của Bộ Giáo dục đào tạo: www.moet.gov.vn, www.edu.net.vn
+ Thư viện giáo trình điện tử: />+ Kho tài nguyên giáo dục: />+ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngành giáo dục:

- Tổ chức xây dựng lại trang học tập trực tuyến điện tử (e-Learning) và tổ chức
cho giảng viên soạn bài giảng điện tử e-Learning trực tuyến.
- Tích cực khai thác và đưa phần mềm mã nguồn mở vào chương trình giảng
dạy CNTT, dần thay thế cho các phần mềm có bản quyền (như phần mềm văn phòng
OpenOffice thay thế phần mềm Microsoft Office, phần mềm gõ tiếng Việt Unikey
thay cho Vietkey…).
- Định hướng cho giảng viên luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn ứng
dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc photo phát cho giảng
viên. Hoặc tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm Tin
học với giảng viên CNTT và những giảng viên có kỹ năng tốt về Tin học của trường,
theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập trung chủ yếu vào những kỹ năng mà
giảng viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng hàng ngày như lấy thông tin, các
bước soạn một bài trình chiếu, hướng dẫn thiết kế bài giảng điện tử e- Learning, các
phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số
phương tiện như máy chiếu, máy quay phim, chụp ảnh, cách thiết kế bài kiểm tra,
- Tổ chức cuộc thi có ứng dụng CNTT trong toàn trường. Bởi vì khi tham gia
bất cứ cuộc thi nào yêu cầu sản phẩm cũng đòi hỏi người tham gia cuộc thi phải có sự
đầu tư nhiều hơn về thời gian, công sức, chất xám và cả việc phải học hỏi ở những
người giỏi hơn. Như vậy, vô hình chung cả việc rèn kỹ năng, tự học và học hỏi đồng
nghiệp đều được đẩy mạnh.
- Nhà trường cần tìm phương án khắc phục tình trạng nghiện internet không

lành mạnh của một bộ phận học sinh, bởi đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến lười học, bỏ học.
- Khuyến khích cán bộ giáo viên trong nhà trường kết nối Internet theo chương
trình khuyến mại dành riêng cho ngành giáo dục;
2. Ứng dụng CNTT trong điều hành quản lý giáo dục:
- Tin học hóa công tác quản lý ở các phòng, bộ môn. Tất cả các cán bộ và giảng
viên thực hiện việc chuyển phát công văn, tài liệu qua mạng.
- Xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng, chuẩn kiến thức và kỹ năng về
CNTT phù hợp từng nhóm đối tượng được bồi dưỡng là cán bộ, công chức, cán bộ
quản lý giáo dục, là đội ngũ giảng viên và viên chức chuyên trách ứng dụng CNTT.
- Cần có sự quyết tâm của lãnh đạo trường trong việc XD nguồn nhân lực
CNTT, đầu tư trang thiết bị và phần mềm quản lý trong nhà trường, đồng thời thiết lập
chính sách duy trì, bảo dưỡng tài sản CNTT cũng như không ngừng nâng cấp và cập
nhật các phần mềm quản lý.
- Để phát huy được hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong trường, xóa bỏ
được sức ỳ và tâm lý ngại thay đổi, rất cần sự thay đổi nhận thức trước hết là từ lãnh
đạo trường, đồng thời có sự đầu tư một cách có hệ thống và đồng bộ.
III. Giới thiệu về Website của trường
- Website của trường tuy chưa phải là một website lớn với nhiều chức năng
nhưng cơ bản đó là một trang web bao gồm các chức năng căn bản gồm 2 mảng chính
là Quản lý đào tạo và thông tin tuyên truyền.
+ Về chức năng Quản lý đào tạo: trang web thường xuyên cập nhật các tin tức
quản lý của nhà trường và của ngành. Tuy vậy, việc cập nhật đôi lúc có sự chậm trể,
một phần cũng do lỗi của người biên tập website, một phần cũng là thiếu sự hỗ trợ
phối hợp giữa các phòng khoa. Để cải tiến cho việc cập nhật thông tin này có thể hiệu
quả, nhanh chóng, chính xác, kính đề nghị các đơn vị phối hợp cùng Ban biên tập
trang tin là: sau khi các văn bản đã được BGH phê duyệt và phát hành, người chịu
trách nhiệm biên soạn văn bản điền đầy đủ thông tin: số hiệu văn bản và ngày ban
hành, gởi file văn bản này về Ban biên tập qua Cổng thông tin trên website Trường
hoặc qua địa chỉ email: Để Ban biên tập trang tin có cơ sở

pháp lý cũng như nội dung khai thác thông tin, giới thiệu các văn bản mới này đến với
người đọc, mà đối tượng phục vụ chính ở đây là các CBCC toàn trường, nhằm đưa
những thông tin mới nhất của trường, giúp cho trang tin trở thành kênh thông tin liên
lạc hiệu quả và nhanh nhất, khỏi mất thời gian chờ đợi và tìm các văn bản giấy.
+ Về chức năng thông tin tuyên truyền: ngoài chức năng quản lý, trang web còn
thể hiện chức năng thông tin tuyên truyền các hoạt động chung của nhà trường, là nơi
khai thác các nguồn tin tức hoạt động, giới thiệu về cơ cấu tổ chức, công khai chất
lượng giảng dạy, lịch trình, thời khóa biểu, bảng điểm… của sinh viên …
Tuy chưa phải là trang web hoàn thiện nhưng trang web cũng phần nào được
xây dựng nhằm mục đích cập nhật, quản lý hệ thống dữ liệu trong mạng nội bộ và thu
thập, xử lý, khai thác thông tin phục vụ công tác của CBVC, SV và các đối tượng liên
quan. Trang web sẽ dần ngày càng được bổ sung theo nhu cầu thực tế của nhà trường
và ý kiến phản hồi đóng góp của các CBVC.
THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT ĐÀ NẴNG
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
CN. Dương Huỳnh Thu Thắm
Phòng QLKH & HTQT
1. Thực trạng:
Thư viện là một bộ phận không thể thiếu trong toàn bộ hệ thống đào tạo của
một trường đại học. Có thể nói nhìn vào hiệu quả công việc của giảng viên, sinh viên ở
thư viện người ta có thể hiểu được phần nào chất lượng hoạt động của một đại học.
Hiện nay vấn đề được đặt ra là làm sao để thư viện có thể phục vụ có hiệu quả nhất
cho công việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Những năm qua, Lãnh đạo nhà trường đã rất chú trọng tạo mọi điều kiện phát
triển thư viện trường. Với một cơ ngơi khang trang, được đầu tư một số trang thiết bị
cần thiết, đẩy mạnh khâu bổ sung, chú trọng bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
cho cán bộ thư viện… Thế nhưng thư viện vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu tài
liệu của bạn đọc trong trường.
Khái quát sơ bộ vốn tài liệu thư viện trường:
Hiện có 1380 đầu sách/ 72895 bản. Trong đó:

127 đầu giáo trình
638 đầu tài liệu tham khảo
542 đầu tài liệu chuyên ngành
Báo-tạp chí: 12 loại
Hơn 500 cuốn luận văn tốt nghiệp của sinh viên các khóa
29 luận văn tốt nghiệp cao học, nghiên cứu sinh của cán bộ, giảng viên trong
trường
Gần 150 báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học, các bộ đề thi, ngân hàng câu hỏi
và đáp án các môn học do các bộ môn, các giảng viên nhà trường biên soạn.
Tài liệu là luận văn tương đối phong phú, nhưng sách chuyên ngành chưa đầy
đủ. Một số môn học chưa có giáo trình như: đá cầu, tiếng Việt, cơ sở văn hoá Việt
Nam…
Thư viện không có phòng máy tính cho bạn đọc truy cập. Tài liệu của thư viện
chủ yếu bằng giấy, chưa có tài liệu bằng đĩa mềm. Hầu như không có tài liệu chuyên
ngành bằng tiếng nước ngoài.
Thư viện chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu tài liệu của giàng viên, sinh viên
toàn trường.
Số lượng sinh viên nhà trường ngày càng tăng. song lượt bạn đọc đến thư viện
không tăng. Những năm trước, vào giai đoạn làm luận văn tốt nghiệp hay mùa thi,
phòng đọc luôn chật kín chỗ ngồi nhưng năm vừa qua lượng bạn đọc tại phòng đọc
giảm nhiều. Mặc dù Thư viện đã bố trí phục vụ thêm các buổi tối. Thư viện có phòng
tự học nhưng rất ít sinh viên đến học, mỗi tháng chỉ vài em đến học.
Có nhiều nguyên nhân khiến sinh viên ít đến thư viện: sự nghe giảng nhiều hơn
tự học, sinh viên ít có thời gian đến thư viện, sinh viên không được yêu cầu hay bắt
buộc phải tham khảo tài liệu bằng tiếng nước ngoài, việc học và thảo luận theo nhóm
không phổ biến, trình độ ngoại ngữ hạn chế. Có thể do đặc thù ngành đào tạo, sinh
viên học các môn thực hành mệt mỏi, thư viện lại ở xa khu giảng đường, về mùa nóng
rất oi bức nên các em ngại (?)
Các nguyên nhân trên làm hạn chế việc khai thác thư viện. Có ý kiến cho rằng
chính vì còn nghèo nàn, thiếu thốn sách báo nên không thể cải tiến cách dạy và học

được cho nên muốn thay đổi thì phải bắt đầu trước tiên ở thư viện. Thư viện phải được
cải tiến và trang bị đấy đủ trước sau đó mới có thể áp dụng cách dạy và học mới.
Chúng ta thấy rằng trong chiều hướng phát triển, giữa thư viện và độc giả có
một mối quan hệ chặt chẽ. Thư viện được thành lập là để phục vụ độc giả. Yêu cầu của
độc giả ngày càng cao thì để phục vụ tốt thư viện phải được đầu tư ngày càng nhiều.
Và chỉ có một cách dạy tạo sự chuyển động, sự tích cực của người học trong việc tìm
kiếm, khai thác thông tin, sự thảo luận, sự làm việc theo nhóm…mới có thể giúp thư
viện hoàn thành vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển giáo dục.
2. Giải pháp:
Ở môi trường giáo dục đại học - cao đẳng, thư viện trở thành nơi cung cấp tri
thức hiệu quả nhất cho sinh viên. Thư viện phải đóng vai trò quan trọng trong công
tác hỗ trợ này. Thư viện phải tìm cách thu hút người đọc bằng tiện ích mà công nghệ
thông tin mang lại, tạo ra không gian cho việc đọc sách, tự học, truy cập internet, tạo
điều kiện cho sinh viên có thể đến thư viện học một mình, theo nhóm hoặc trao đổi
những thông tin thu nhận được từ kho tài liệu của thư viện. Bên cạnh đó, vai trò cán bộ
thư viện sẽ năng động hơn, không đơn thuần là thủ thư trông coi kho sách mà phải là
người hướng dẫn bạn đọc tìm kiếm, khai thác thông tin, tư vấn cho bạn đọc các tài liệu
cần cho môn học.
Để thư viện nhà trường hoạt động có hiệu quả hơn, theo chúng tôi cần phải:
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác bổ sung tài liệu. Chú trọng các tài liệu chuyên
ngành. Cung cấp thêm một số đầu báo-tạp chí có nội dung lành mạnh, hấp dẫn sinh
viên.
- Đầu tư và phát triển phòng truy cập internet.
- Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các giảng viên, với những người thực hiện
các đề tài nghiên cứu khoa học, các giảng viên viết giáo trình, sách chuyên khảo, tài
liệu tham khảo, bài báo khoa học để họ tư vấn về nguồn tài liệu cần bổ sung, đặc biệt
là để bổ sung cho thư viện các tài liệu ít gặp trên thị trường xuất bản, những tài liệu mà
giảng viên có được do các chuyến đi công tác, học tập hoặc dự hội nghị, hội thảo.
- Cung cấp thêm tư liệu về băng, đĩa giúp sinh viên có cái nhìn thiết thực, dễ
tiếp thu kiến thức.

- Các giáo viên khi giảng dạy giúp thư viện giới thiệu các tài liệu cần thiết, bổ
ích hiện có ở thư viện, khuyến khích các em sử dụng thư viện. Chính họ sẽ là những
cộng tác viên đắc lực giúp thư viện hoạt động có hiệu quả hơn.
3. Kết luận:
Hình ảnh thư viện đầy ắp các bạn sinh viên đến nghiên cứu, học tập luôn là
hình ảnh đẹp nhất tại các trường đại học - cao đẳng. Tuy nhiên để có được hình ảnh
đó, thư viện sẽ phải tăng cường hơn nữa về số lượng cũng như sự đa dạng, cập nhật
các tài liệu tại thư viện, đặc biệt là các tài liệu chuyên ngành, tài liệu phục vụ công tác
học tập, nghiên cứu của sinh viên, giảng viên. Nhân viên thư viện phải đổi mới phong
cách phục vụ, lấy người đọc làm trung tâm, không chỉ đơn thuần làm công tác quản lý
tài liệu mà đồng thời là người hướng dẫn, tư vấn cho sinh viên tìm kiếm tài liệu./.
THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG GIÁO DỤC NÓI CHUNG
CŨNG NHƯ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT ĐÀ NẴNG NÓI RIÊNG
CN. Nguyễn Văn Tùng
Phòng QLKH&HTQT
I. Mở đầu
Năm học 2011 -2012 đã khai giảng, những chỉ thị ứng dụng công nghệ thông
tin (CNTT) vào giáo dục vẫn còn đó… Thế nhưng cá nhân là người làm trong ngành
giáo dục vẫn chưa thấy những chuyển biến rõ rệt nào, đặc biệt trong ngành giáo dục
thể chất nói chung và Trường Đại học TDTT Đà Nẵng nói riêng.
Tất cả các trường học điều có Internet nhưng để tận dụng triệt để lợi thế này
vẫn còn là vấn đề. Rõ ràng chúng ta vẫn thấy thiếu một chút “quyết liệt” từ các nhà
quản lý, các cấp lãnh đạo giáo dục.
II. Mục đích của việc ứng dụng CNTT trong giáo dục
Nếu như 10 năm trước đây, CNTT còn là một khái niệm xa lạ với ngành
giáo đào tạo trong nước thì nay nó đã là nhu cầu và là xu hướng phát triển tất
yếu. Từ bậc tiểu học tới đại học. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy đang được
xem là cách làm mới để nâng cao hiệu quả đào tạo và chất lượng của đội ngũ học
sinh, sinh viên. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều bất cập.

Khi ý tưởng ứng dụng CNTT trong đào tạo giáo dục được đưa ra cách đây
nhiều năm, đã có nhiều ý kiến cho rằng điều đó là chưa cần thiết. Thậm chí nhiều
người còn cho rằng không có CNTT thì ngành giáo dục thế giới vẫn phát triển tốt
trong nhiều năm qua; và rằng không có CNTT thì vẫn có rất nhiều nhân tài được đào
tạo ra từ các “nôi” của giáo dục. Thế nhưng, cả thế giới đang vận động theo hướng
ứng dụng CNTT để nâng cao hiệu quả hoạt động, và ngành giáo dục cũng không nằm
ngoài xu hướng đó.
Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao CNTT lại cần thiết đối với công tác đào tạo,
giảng dạy? Thực tế cho thấy CNTT có thể giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả đào
tạo, cũng như đổi mới phương pháp giảng dạy. CNTT còn giúp giáo viên tiếp cận và
chia sẻ nhiều nội dung trong quá trình dạy học, soạn giáo trình trực quan hơn, và có
thể tiếp cận nhiều phương pháp, mô hình, biểu bảng, tính toán hơn.
Về phía người học, CNTT sẽ giúp tăng sự chủ động cho học sinh – sinh viên,
giúp họ chủ động hơn trong học tập và nghiên cứu. Thông qua CNTT, các chương
trình đào tạo cũng sẽ hướng tới người học nhiều hơn. Người học sẽ trở thành trung

×