Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sự đóng góp của phật giáo đối với công bằng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.45 KB, 17 trang )

SỰ ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI
VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Bài thi giữa học kỳ 5 năm thứ 3
MÔN TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XH PHẬT GIÁO
Sinh viên Nguyễn Quý Hoàng
Mã số sinh viên DTTX 1087
GV hướng dẫn SC. TS. TN. Hằng Liên
TN Hương Nhũ
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HCM
2011
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
Dàn bài
Chương 1 Dẫn nhập
1. Ý nghĩa & lý do chọn đề tài
2. Giới hạn đề tài và phương pháp nghiên cứu
3. Tư liệu nghiên cứu
Chương 2 Công bằng XH
1. Khái niệm công bằng và bình đẳng theo quan điểm xã hội
2. Tính tương đối của công bằng XH
3. Quan điểm của đạo Phật đối với bình đẳng và công bằng XH
Chương 3 Sự đóng góp của PG đối với công bằng XH
1. Tinh thần nhập thế của đạo Phật
2. Vai trò đạo đức PG đối với quan hệ XH
3. Chủ trương bình đẳng không phân biệt giai cấp
4. Đánh giá đúng mức về công lao đóng góp của cá nhân
5. Chủ trương chánh nghiệp.
6. Bố thí- một quan điểm độc đáo của Phật giáo trong việc thực hiện
công bằng và bình đẳng XH
Chương 4 Nhận xét & Đánh giá và Kết luận
Tài liệu tham khảo


Chương 1 Dẫn nhập

1. Ý nghĩa và lý do chọn đề tài
Từ khi có mặt trên thế giới này, sự công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do là những
ước vọng chính đáng của con người. Và mọi cuộc cách mạng xã hội suy cho cùng
cũng nhằm mục đích đòi quyền tự do, dân chủ và công bằng xã hội. Những ý niệm
này đã được nhiều hệ tư tưởng đề cập, nhưng Phật giáo sẽ có những nhìn nhận hoặc
đóng góp riêng biệt về các yếu tố đó.
Mục tiêu của đạo Phật là kiến tạo cho đời sống nhân sinh những giá trị mang chất
liệu của hạnh phúc, yêu thương, bình an và lợi lạc, có thể nói rằng Phật giáo là một
tôn giáo nhập thế, đạo Phật không hề có thái độ thờ ơ trước những vấn đề của xã hội
mà tham gia xây dựng và chuyển hóa xã hội rất tích cực. Đề tài sự đóng góp của Ngũ
giới Phật giáo đối với công bằng xã hội được chọn nhằm góp phần làm sáng tỏ vấn
đề này.
2. Giới hạn đề tài và phương pháp nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận ngắn nên người viết chỉ sử dụng phương
pháp chính là phân tích, tổng hợp, so sánh dựa trên một số tài liệu gốc và thứ cấp, và
sẽ không đi quá sâu vào từng đề mục, việc phân tích kĩ hơn sẽ được nghiên cứu trong
các bài luận văn mang tính chuyên sâu.
3. Tư liệu nghiên cứu
Tài liệu gốc được sử dụng là kinh tạng Pali ( kinh Trường bộ, kinh Trung bộ, Tăng
chi bộ kinh) và các kinh A Hàm. Trong một số bài kinh này, đức Phật đã nhắc nhiều
đến vấn đề bình đẳng và xã hội, giữ gìn ngũ giới, ngài đã nói nhiều về vấn đề đạo
đức cá nhân, đạo đức của các nhà lãnh đạo, vua chúa và nó được xem như tiền đề để
con người ý thức được vấn đề công bằng, và có được một xã hội tốt đẹp mà trên cơ
sở đó, lý công bằng được sinh sôi nẩy nở.
Tuy nhiên khái niệm công bằng được gắn liền với sự phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội, nên cũng có nhiều bài viết của các học giả liên quan đến vấn đề này,
và có nhiều quan điểm khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể, nó được coi như
là những tài liệu thứ cấp mà người viết dùng để tham khảo.

Chương II Công bằng và bình đẳng xã hội
1. Công bằng và bình đẳng theo quan điểm XH
a. Công bằng
Có nhiều lý thuyết khác nhau về công bằng xã hội, một cách đơn giản có thể hiểu
công bằng dưới góc độ kinh tế, cụ thể hơn là phân phối sản phẩm làm ra dưới hình
thức vật chất hay giá trị là ai có công nhiều thì được thụ hưởng nhiều, ai có công ít
thì thụ hưởng ít.
Trong các nước đang hoặc kém phát triển thì nội dung quan trọng nhất là công bằng
về kinh tế, có quan điểm đưa ra 5 tiêu chuẩn của công bằng:
a. Công bằng về cơ hội (được hiểu là sự bình đẳng trong việc tiếp cận với các
cơ hội).
b. Được hưởng như nhau cho những đóng góp bằng nhau.
c. Công bằng về độ thỏa dụng.
d. Các quyền bình đẳng.
e. Xác định ưu tiên đối với việc cải thiện điều kiện ít thuận lợi nhất.
b. Bình đẳng
“Bắt nguồn từ thuật ngữ gốc Pháp là “Egalitaire”, (Egal có nghĩa là ngang bằng
hoặc bằng nhau) “Egalitarianism” là chủ nghĩa bình đẳng đã trở thành nghĩa “học
thuyết bình đẳng giữa loài người” và nội dung chủ yếu liên hệ đến xã hội”
1
Sự thực thì hai khái niệm công bằng xã hội và bình đẳng xã hội tuy gần nhau nhưng
dẫu sao, chúng vẫn là hai khái niệm khác nhau. Khi nói tới bình đẳng xã hội, người
ta muốn nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xã hội
nào đấy, chẳng hạn về kinh tế chính trị, văn hóa Còn khi nói tới sự ngang bằng
nhau giữa người với người về mọi phương diện, tức là ta đã nói tới một sự bình đẳng
xã hội hoàn toàn. Trong khi đó, công bằng xã hội cũng là một dạng (và chỉ là một
dạng mà thôi) của bình đẳng xã hội, nhưng đó là sự bình đẳng, tức là sự ngang bằng
nhau, giữa người với người không phải về mọi phương diện, cũng không phải về một
phương diện bất kỳ, mà chỉ về một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện
quan hệ giữa công hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiên ngang nhau thì

hưởng thụ ngang nhau. “Khái niệm "công bằng xã hội" với nội hàm kinh tế như vậy
có khuynh hướng coi công bằng tương đương (đồng nghĩa) với sự bình đẳng “cào
bằng".
2
Như vậy, muốn có công bằng thì trước hết phải có sự bình đẳng trong xã hội, hai
khái niệm này đôi lúc giống nhau và khó có thể phân biệt được, như trong lĩnh vực
chính trị, người ta không sử dụng từ công bằng pháp lí hay chính trị mà thay vào đó
là từ bình đẳng, như vậy dưới khía cạnh pháp lí thì công bằng cũng là bình đẳng.
1
Giáo sư tiến sĩ L. P. N. Perer Quan niệm Đạo Phật về chủ nghĩa bình đẳng Thích nữ Hằng Liên dịch
2
GS TS Lê Hữu Tầng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
Pháp vương Asoka đã xiển dương trong chỉ dụ bằng đá thứ tư là “ khát vọng lớn nhất
của con người là phải có quyền bình đẳng tuyệt đối cho mọi người theo qui định
pháp lý và sự thưởng phạt”
3
có nghĩa là một cá nhân bất luận địa vị xã hội, đảng
phái hay giới tính khi vi phạm luật pháp thì đều bị trừng trị như nhau tùy theo loại
hình và mức độ theo quy định của luật pháp.
Tuy bình đẳng và công bằng có một quan hệ mật thiết nhưng không phải bất cứ hệ tư
tưởng nào cũng công nhận sự bình đẳng để dẫn đến lẽ công bằng giữa người và
người.
+ Khổng Nho xây dựng hệ tư tưởng của mình trên mối quan hệ bất bình đẳng trong
xã hội và Hán Nho lại càng xác định quan điểm đó. Thuyết Tam cương (vua tôi, cha
con, chồng vợ) của Đổng Trọng Thư chỉ xác định mối quan hệ một chiều, đòi hỏi
trách nhiệm tuyệt đối của kẻ dưới đối với người trên và uy quyền tuyệt đối của người
trên đối với kẻ dưới (mặc dù kẻ dưới là ông lão, bà lão, người trên là đứa trẻ) v.v…
+ Ngoài ra, còn nhiều hệ tư tưởng triết học và tôn giáo khác, trong số này có Bà La
Môn giáo (Brahmanism) không công nhận sự bình đẳng giữa người và người.


2. Tính tương đối của công bằng xã hội
Trong xã hội, số người có tài năng và cơ hội thì luôn là thiểu số. Chính vì có ưu thế,
tài năng, cơ hội nên họ nhận được nhiều quyền lợi của xã hội và giàu lên nhanh
chóng cách biệt rất nhiều với những người thuộc tầng lớp nghèo khổ phía dưới.
Làm giàu chính đáng là một trong những quyền cơ bản của con người nhưng nếu tài
sản chỉ tập trung vào thiểu số con người trong xã hội thì sẽ thấy nảy sinh nhiều vấn
đề liên quan đến sự phân chia của xã hội.
Không ai thích sự bất công, bất bình đẳng của xã hội nhưng sẽ thật là sai lầm nếu
muốn tạo ra một xã hội bình quân, ai cũng giống nhau, cùng sở hữu một số tài sản
như nhau dù tài năng, sự cống hiến khác nhau. Và công bằng không có nghĩa là chia
đều tài sản cho mọi người không căn cứ vào kết quả đóng góp.
Hơn nữa, cần thấy rằng, công bằng xã hội không phải là một khái niệm bất di bất
dịch. Nó mang tính tương đối và phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tách khỏi
hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì cái công bằng ấy có thể sẽ là không hợp lý.
Chẳng hạn, nếu trước đây, Việt Nam coi phân phối theo lao động là tiêu chí duy nhất
của sự công bằng (nhưng trên thực tế, trong thời kỳ trước đổi mới, lại thực hiện phân
phối bình quân) thì ngày nay, trong quá trình đổi mới, với việc chuyển sang phát
3
Giáo sư tiến sĩ L. P. N. Perer Quan niệm Đạo Phật về chủ nghĩa bình đẳng Thích nữ Hằng Liên dịch
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khi vẫn coi việc thực
hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế chủ yếu, đồng thời thực
hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh
doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Vậy, việc phân phối tài sản cũng tùy vào điều kiện kinh tế trong những giai đoạn lịch
sử cụ thể nhất định, do vậy nó mang tính tương đối.
Trong kinh tế học, người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về công bằng xã hội,
đó là:
- Công bằng xã hội theo chiều ngang nghĩa là đối xử như nhau đối với những người
có đóng góp như nhau.
- Công bằng xã hội theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau với những người có

những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện sống khác nhau.
Nếu nội hàm của khái niệm công bằng xã hội theo chiều ngang ở đây là rõ thì nội
hàm của khái niệm công bằng xã hội theo chiều dọc lại không được rõ như vậy, vì
đối xử khác nhau với những người có các điều kiện sống khác nhau thì mức khác
nhau như thế nào sẽ được coi là công bằng? Thêm nữa, cùng một cách giải quyết cụ
thể trong một trường hợp cụ thể nếu xét theo chiều ngang là công bằng, nhưng xét
theo chiều dọc lại là không công bằng, và ngược lại. Nhận định lại cho thấy rõ tính
tương đối của vấn đề công bằng xã hội.
3. Quan điểm của đạo Phật đối với bình đẳng và công bằng
Phật giáo xuất phát từ sự bình đẳng để xây dựng lẽ công bằng và khác với nhiều tư
tưởng tôn giáo và triết học, Phật giáo xây dựng hệ thống giáo lý của mình trên cái
nền bình đẳng giữa người và người và giữa người với Phật, ai cũng có Phật tính và ai
cũng có thể thành Phật, như vậy, trong tăng đoàn của đức Phật, đều tồn tại 2 yếu tố:
- Bình đẳng & Công bằng về mặt vật chất
+ Mọi người không phân biệt giai cấp đều được gia nhập tăng đoàn
+ Lẽ công bằng của Phật giáo là từng cá nhân làm đến đâu, trách nhiệm đến đâu thì
hưởng đến đó, sau đấy mới là việc phân phối lại thành quả của mình theo tinh thần
tùy hỷ công đức, tăng đoàn thuở ban đầu được tổ chức theo lý tưởng công bằng xã
hội với phép Lục hòa (trong đó có lợi hòa đồng quân).
+ Được theo đuổi và học pháp môn tu giải thoát như nhau
- Bình đẳng & Công bằng về mặt tâm thức
+ Bình đẳng trước nghiệp lực dựa trên hành động do ý tạo tác, điều này mang đậm
tính công bằng.
+ Bình đẳng trước quả vị giải thoát

Ngoài ra, trong hệ thống đạo đức Phật giáo, lẽ công bằng và bình đẳng bao giờ cũng
có quan hệ hai chiều sòng phẳng giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội, thậm
chí một người cũng phải chịu sự chi phối sòng phẳng của luật Nhân quả.
- Dân chủ như là cơ sở để thực thi bình đẳng theo quan điểm Phật giáo
Đức Phật đã thực hiện tinh thần dân chủ trong tăng đoàn của mình. Nó được thể hiện

qua các vấn đề hội họp, bố tát hay tự tứ, trong đó mỗi thành viên đều có quyền có ý
kiến và quyết định về các vấn đề được nêu. Khi có một vấn đề phát sinh, nó được đưa
ra để thảo luận trong một phương cách tương tự như trong hệ thống quốc hội ngày
nay. “Tiến trình tự quản trị nầy có lẽ sẽ làm nhiều người ngạc nhiên vì nó đã được áp
dụng trong các cộng đồng tăng sĩ Phật Giáo tại Ấn Độ trong 2.500 năm trước đây, và
phương cách điều hành có rất nhiều điểm tương đồng với các thủ tục thảo luận trong
quốc hội”.
4
Và như vậy Phật giáo cho rằng dân chủ là tiền đề để thực thi công bằng và bình đẳng
trong xã hội.
Chương 3 Sự đóng góp của Phật giáo đối với công bằng XH
1. Tinh thần nhập thế của đạo Phật
Phát huy lời Phật dạy “Vì lợi ích cho quần sanh, vì hạnh phúc và an lạc cho chư
thiên và loài người” nên quan điểm của đạo Phật là nhập thế và không hề có thái độ
thờ ơ trước những vấn đề của xã hội, tu sĩ Phật giáo và Phật tử đều hăng hái tham gia
xây dựng và chuyển hóa xã hội một cách tích cực, trên cả hai mặt đóng góp lý
thuyết, quan điểm và thực hành, đây có thể xem như tiền đề của việc đóng góp của
Phật giáo với các mặt sinh hoạt của đời sống xã hội trong đó có vấn đề công bằng .
Quán triệt tư tưởng nhân văn, và tinh thần nhập thế của Đức Phật, Phật giáo Việt
Nam trong tiến trình phát triển không tách rời mà luôn đồng hành cùng với dân tộc.
Ở Việt Nam, có vị vua xuất gia (Trần Nhân Tông), có vị vua xuất thân từ nhà chùa
(Lý Công Uẩn), có những vị thiền sư ra cứu đời giúp nước như Vạn Hạnh, Khuông
Việt, Pháp Thuận v.v
Và ngày nay, cũng theo tinh thần nhập thế đó, có rất nhiều vị xuất gia tu hành nhưng
vẫn tham gia vào công tác xã hội bằng những việc làm thiết thực và cụ thể như tham
gia các công tác từ thiện, cứu trợ nạn nhân, đồng bào bị thiên tai lũ lụt……góp phần
4
Thích nữ Hương Nhũ- giáo trình Triết học Chính trị Xã hôi Phật giáo
mang lại đời sống an bình cho con người, cũng như qua đó xiển dương giáo pháp của
Như Lai, đưa giáo lý đạo Phật thâm nhập vào đời sống của cá nhân và xã hội nhằm

hướng mọi người đến một đời sống đức hạnh. “ Thế giới giác ngộ cũng như hành
động của Phật giáo không nằm bên ngoài cuộc đời, và con người không cần đi tìm
bất cứ một thế giới nào khác. Điều này giải thích cho ta tại sao Khuông Việt đã ung
dung tích cực tham gia vào việc nước, việc dân và có những đóng góp to lớn cho sự
nghiệp bảo vệ độc lập của tổ quốc, để lại một tấm gương sáng ngời cho nhiều thế hệ
về sau noi theo”
5
2. Vai trò đạo đức Phật Gíao đối với quan hệ XH
Muốn có xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, tương tự muốn có
một xã hội công bằng thì cần phải có những con người có đạo đức và ý thức về công
bằng.
Xã hội là tổng hòa những mối tương quan giữa những con người với nhau, giữa tầng
lớp lãnh đạo và nhân dân, nếu các mối quan hệ này được duy trì bằng những hành vi
đạo đức thì việc thực thi công bằng xã hội cũng chẳng có gì là khó khăn.
a. Hoàn thiện đạo đức cá nhân bằng việc thực hành ngũ giới
Mọi người phải nỗ lực thực hiện đạo đức cá nhân, hoàn thiện nhân cách và làm tròn
bổn phận của mình. Đây được xem như điều kiện tiên quyết mà nó sẽ đóng 1 vai trò
nền tảng đối với sự đóng góp của Phật giáo cho công bằng xã hội.
Đối với quan hệ giữa người với người, đức Phật dạy: “Cha mẹ đối với con cái cần
thực hiện 5 điều (ngũ giới). Con cái đối với cha mẹ cũng thực hiện 5 điều. Chồng đối
với vợ thực hiện 5 điều và vợ cũng phải thực hiện 5 điều. Thầy đối với trò thực hiện
5 điều. Ngược lại, học trò đối với thầy cũng như thế. Bạn bè đối xử với nhau cũng
thực hiện 5 điều. Người lãnh đạo thực hiện 5 điều. Người giúp việc, tôi tớ, nhân viên
cũng phải thực hiện 5 điều để đáp lại. Tu sĩ thực hiện 5 điều đối với tín đồ và ngược
lại tín đồ cũng phải thực hiện 5 điều đáp lại.” (Trường Bộ. 16, Trung Bộ. 135, M.
31).
Lẽ công bằng của Phật giáo được đặt nền tảng trên trách nhiệm, nghĩa vụ của con
người trong quan hệ ứng xử với người khác, với xã hội. Tư tưởng này nằm trong
kinh "Thi ca la việt” (S - Sìgalavada sutra), "Thập Vương pháp" (P - Dasa
Rãjadhamana). Mà trong quan hệ ứng xử với tha nhân, đạo Phật đề nghị con người

giữ gìn ngũ giới
- Không sát sanh
- Không trộm cắp hay nói rõ hơn là không lấy của không cho
- Không tà dâm
5
Lê văn siêu, Văn Học Sử Việt Nam, NXB Văn Hóa
- Không vọng ngữ
- Không uống rượu và các chất gây nghiện
Cũng từ bình đẳng rộng lớn, nên ngay trong tư tưởng “không sát sinh” của Phật giáo
còn mang một ý nghĩa nữa. Phật giáo cho rằng, không được đày đọa sát hại người ta,
nhất là những người vô tội về cả mặt tinh thần lẫn tình cảm. Như vậy, rõ ràng một
điều rằng, thực ra thì con người sống là cái đáng quý, nhưng cái quý hơn là quyền
được sống. Nếu con người mất quyền sống thì sống cũng như chết. Từ đó, những tư
tưởng, hành vi như trù dập, áp bức người khác cũng phạm vào giới sát của Phật giáo.
Không sát sanh trong ngũ giới, không chỉ bao bàm ý nghĩa không giết người mà còn
phải biết yêu quý động vật, yêu thương tất cả mọi người, phản đối tinh thần phân
chia và bức hại chủng tộc giữa các dân tộc với nhau, vi phạm lý bình đẳng.
Không trộm cắp không chỉ có ý nghĩa không trộm cắp đồ vật của người khác mà còn
phải không nên dùng những thủ đoạn xảo trá, dối gạt người để lấy dùng tài sản vật
dụng của người khác vi phạm lý công bằng. Ai cũng thích bảo vệ tài sản của cải, vật
chất của mình thì vì lẽ gì mình lại đi cưỡng đoạt, chiếm lấy của người.
Không tà dâm cũng có nghĩa là ngăn chăn sự tham lam trong lĩnh vực tình cảm, tôn
trọng đời sống một vợ một chồng, không dòm ngó bạn tình của người khác.
Không vọng ngữ, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, là không dùng lời nói xảo trá để gạt và dụ dỗ
người khác đem lại lợi lộc cho bản thân mình, đó là bất công đối với người khác.
Không dùng beer rượu và các chất gây nghiện nhằm giữ gìn đầu óc tỉnh táo, đầu óc
tỉnh táo thì sẽ không làm bậy, gây tổn hại đến người khác vi phạm lí công bằng và
bình đẳng.
b. Tầng lớp lãnh đạo cũng cần phải giữ giới
Đối với tầng lớp lãnh đạo, đức Phật cũng nêu lên 10 điều để giữ gìn một quốc gia

vững mạnh:
1. Thanh liêm và khoan dung.
2. Khéo nghe lời can gián của bầy tôi.
3. Hay thi ân cho dân chúng cùng vui.
4. Việc thu thuế phải y theo pháp định.
5. Việc phòng the phải chỉnh túc.
6. Không để rượu làm rối loạn tinh thần.
7. Siêng năng, không cười đùa cợt nhã, phải giữ gìn uy nghiêm.
8. Phải xét xử theo luật pháp, không thiên vị quanh co.
9. Phải hòa hợp với quần thần không cạnh tranh với họ.
10. Luôn luôn phải để ý đến sức khỏe của thân thể (Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển
42, cáp bản tr. 449)
6
Tóm lại, có thể thấy rằng thực hiện đạo đức Phật giáo là cơ sở để có được một xã hội
công bằng và hạnh phúc.
3. Phật giáo chủ trương không phân biệt đẳng cấp trong xã hội
Để thực hiện được công bằng xã hội thì Phật giáo chủ trương xóa việc phân biệt
đẳng cấp. Xã hội hiện đại cần phải thiết lập trên nền tảng cơ bản nhân quyền bình
đẳng. Xã hội Ấn độ cổ được phân chia thành 4 giai cấp, quan điểm này không được
chấp nhận bởi Phật giáo. Trong kinh A-hàm đức Phật chủ trương bình đẳng giai cấp.
đức Phật cùng với Phạm Chí bàn luận về bình đẳng 4 giai cấp (kinh A-hàm, quyển
39, phẩm Phạm Chí)

Đức Phật đã thể hiện tư tưởng bình đẳng của mình trong 2 bản kinh Ambattha &
Sonadanda, qua đó Ngài hoàn toàn không đồng ý với việc phân chia giai cấp, câu
chuyện ngài Upali xuất thân từ nghề thợ cạo tóc là một ví dụ hòan hảo thể hiện lý
tưởng bình đẳng xã hội. “ Một lần 6 hoàng tử trong dòng họ Sakya của đức Phật đến
xin đi tu và ngài Upali đi theo họ. Nhưng đức Phật truyền giới cho ngài Upali trước
các thái tử của dòng họ Sakya do đó họ phải kính trọng ngài Upali như một người
thâm niên hơn không liên quan đến giai cấp hay địa vị xã hội”.

7
Quan điểm bình đẳng của Phật giáo còn mang một ý nghĩa nữa. Đó là, bình đẳng và
tôn trọng tất cả các con người trong xã hội không phân biệt giai cấp hay địa vị. Do
vậy, trong kinh sách Phật giáo không thấy có sự phân biệt chủng loại, sang hèn, …
Tinh thần đó được Đức Phật tuyên bố dứt khoát trong phẩm "A tu la Pàhàràda":
“Ví như này, Pàhàràda, phàm các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông
Yamurà, sông Aciravati, sông Mahì, các con sông ấy chảy đến biển, liền bỏ tên họ
trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này Pàhàràda, có bốn giai cấp: Sát đế lỵ, Bà la
môn, Phệ xá, Thủ đà, sau khi từ bỏ gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như
Lai tuyên bố này, họ từ bỏ tên và họ của họ trước, họ trở thành những Sa môn Thích
tử”
8
Trong kinh Trường Bộ II (kinh Khởi thế nhân bổn), sau khi Đức Phật trình bày về
quá trình hình thành và tiến hóa của thế giới, Ngài đã giải thích về sự xuất hiện
những đẳng cấp khác nhau trong xã hội. Trước tiên là sự khác nhau về giới tính giữa
nam và nữ, khi xã hội lao động để sản xuất ra những của cải nuôi sống bản thân và
gia đình mình thì có những kẻ lười biếng không chịu lao động mà muốn trộm cướp
6
Thích nữ Hương Nhũ- giáo trình Triết học Chính trị Xã hôi Phật giáo
7
Tiến sỹ Jinabbodhi Bhikkhu, Thích Minh Lý dịch, Quan điểm của Phật giáo về công bằng xã hội
8
Tăng chi bộ kinh III Thích Minh Châu dịch
tài sản của người khác, lúc này xã hội đề cử những người coi sóc để hạn chế trộm
cướp trong xã hội.
Qua sự giải thích đó cho thấy, Đức Phật lý giải sự khác biệt các giai cấp trong xã hội
từ những sự khác biệt của phân công xã hội, về nghề nghiệp, đạo đức và sự phân
công đó được xã hội giao phó, được quyết định bởi xã hội, tức đời sống của con
người do con người quyết định xuất phát từ nhu thực tế khách quan. Không có sự
phân biệt đẳng cấp mang tính tiên thiên, cũng không có giai cấp nào được sinh ra từ

một vị thần thiêng liêng, bắt các giai cấp khác quy phục mình.
Con người theo quan điểm Phật giáo là chủ nhân và là thừa tự của nghiệp, chính
nghiệp tạo ra những sự khác biệt cho con người kể cả tài năng, và giàu có. Và cũng
có thể nói chính nghiệp đã góp phần vào việc phân hóa giai cấp giàu nghèo trong xã
hội.
Tuy có sự khác biệt như vậy, nhưng Phật giáo không chủ trương phân chia đẳng cấp
và giai cấp, tất cả đều bình đẳng trong tu tập và trong mọi mặt sinh hoạt của đời sống
xã hội, xa hơn nữa người giàu và có điều kiện tốt lại giúp đỡ người nghèo hơn theo
tinh thần từ bi, đây chính là điểm đặc sắc của đạo Phật.
“Có thể xem đức Phật là nhà cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Ngài đã chống lại sự phân biệt đẳng cấp để mang bình đẳng cho mọi người. Tư
tưởng về xã hội và hành động thực tiễn của Đức Phật mang tinh thần nhập thế, đem
lại nhiều lợi ích thiết thực cho mọi người.”
9
4. Chủ trương đánh giá đúng mức về công lao cống hiến của cá nhâni
Xã hội sẽ không thể có công bằng khi chưa có 1 hệ thống hoàn chỉnh về việc đánh
giá công lao, tài năng, sự cống hiến của con người, hệ thống này phải hoạt động một
cách chính xác khách quan không thiên vị phe phái.
Để giải quyết sự công bằng cho xã hội theo phương diện này, trước hết, cần đòi hỏi
những người lãnh đạo của xã hội phải giỏi và công tâm. Chính những người này là
những người tạo ra sự công bằng cho xã hội.
Cách đây hơn 2500 năm thì Phật giáo đã có những cơ chế bầu chọn lãnh đạo tăng
đoàn dựa vào yếu tố trí tuệ và đạo đức. Tất cả phận việc của Tăng đều phải thông
qua biểu quyết của số đông, biểu quyết này được thực hiện bằng hình thức Đại Tăng
yết-ma. Cộng đồng Tỳ-kheo y cứ vào giới luật đức Phật đã quy định mà bầu và chọn
người đại diện cho Tăng-đoàn trông lo những Phật sự liên đới trong từng khu vực.
9
Thái độ của đức Phật với việc phân biệt đẳng cấp xã hội />Phật giáo đã đề cập đến việc phân chia tài sản tăng đoàn trong “ Lục hòa”- Lợi hòa
đồng quân , một khi quyền lợi được phân chia hòa hợp thì tình thân được phát triển
dễ dàng. Tuy đây là yếu tố tuy không đứng hàng đầu trong tăng đoàn, nhưng đối với

người tại gia sống trong xã hội thì thật là quan trọng.
Đứng về phương diện phúc lợi xã hội mở rộng trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y
tế, lương bổng, bảo hiểm, tiền thưởng, khen thưởng… thì mọi người đều sẽ được
hưởng đồng đều bằng tình thương và bình đẳng. Trong đó, người có năng lực chia sẻ
cho người yếu kém hơn để họ tự vươn lên bằng con đường của chính họ.
5. Phật giáo chủ trương Chánh nghiệp
Khi có một nghề nghiệp chính đáng, con người sẽ dễ dàng nuôi thân và nuôi gia
đình, việc tham lam hoặc có tư tưởng chiếm đoạt cướp bóc của người khác sẽ bị hạn
chế.
Đức Phật dạy: “Chân chính về sinh hoạt và nghề nghiệp là nguyên nhân chủ yếu
chấm dứt khổ đau đời này và những đời sau”. Đây là công năng của con đường Bát
Chánh trong việc xây dựng xã hội công bằng, chân chánh, bình đẳng, dân chủ, tự do.
Như vậy, với nền tảng không mong cầu tư lợi, không chiếm đoạt của người, không
lừa dối nhau, giáo lý Phật Đà đã định hướng rất rõ một con đường xây dựng xã hội,
con đường đó chính là năm nguyên lý đạo đức và con đường Bát Chánh. Với con
đường này, đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy một xã hội lý tưởng điển hình ở cõi
Tây Ngưu Hóa Châu: “Chúng sinh cõi ấy đem súc vật đổi lấy cơm gạo, áo tiền,
thuốc men, máy móc, y phục. Lấy thuốc men, vải vóc trao đổi cơm áo, súc vật một
cách cân đối đồng đều, công bằng, hoan hỷ mậu dịch với nhau không có sự tranh
chấp kiện thưa.”
10

6. Bố thí là quan điểm độc đáo của Phật giáo cho khái niệm bình đẳng xã
hội
Trong kinh A-hàm Phật luôn khuyến khích đệ tử thực hành hạnh bố thí. Đây là quan
điểm phúc lợi xã hội của Phật giáo. Vì nghiệp lực của cá nhân không giống nhau, cho
nên trí tuệ, tư duy khả năng làm ăn và kinh doanh cũng khác biệt, đặc biệt cơ hội của
mọi người khác nhau. Tất yếu nó sẽ hình thành nên sự giàu nghèo, chênh lệch giữa
con người với con người trong xã hội. nếu đem tất cả tài sản quốc gia chia đều cho dân
chúng, thì không hợp lý và không công bình. Ngoài một hệ thống kinh tế hợp lý,

phương pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề giàu nghèo là khuyến khích mọi người phát
tâm làm bố thí. Đây được coi như một quan điểm độc đáo của Phật giáo trong việc
thực hiện bình đẳng dựa vao sự bố thí tự nguyện của cá nhân trong xã hội.
10
Thích Minh Châu dịch -Trường bộ kinh 30
Chương 4 Nhận xét & Đánh giá và Kết luận
1. Nhận xét & Đánh giá
Sự đóng góp của Phật giáo đối với công bằng xã hội mang một ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với hạnh phúc của con người.
Như đã phân tích ở các phần trên, công bằng xã hội là một khái niệm tương đối, con
người do kết quả của nghiệp lực nên có những khả năng khác biệt nhau dẫn đến nghề
nghiệp, địa vị và tài sản cũng khác nhau, nếu công bằng theo chiều dọc theo quan
điểm xã hội là đối xử đặc biệt với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có
các điều kiện sống khác nhau thì Phật giáo cũng có chủ trương từ bi tương ứng khi
phải đối diện với những trường hợp này, công bằng theo Phật giáo không quá so đo
tính toán thiệt hơn. Và có thể thấy rằng bố thí là một quan điểm độc đáo của Phật
giáo về phúc lợi Xã hội và công bình về mặt kinh tế.
Nhưng độc đáo hơn vẫn là sự phát triển về mặt tâm linh, hạnh phúc của con người
chỉ có thể đạt được một cách hoàn toàn khi tâm thức được tự do, không bị ràng buộc
bởi vô minh và ái dục, trên quan điểm này sự đóng góp của Phật giáo là tuyệt vời,
mang tính độc đáo so với các tôn giáo hữu thần khác, con người cũng có khả năng
được giải thoát hoàn toàn và đạt được Phật quả nếu tu tập đúng cách. Bình đẳng về
mặt tâm thức là một khái niệm nổi bật của sự đóng góp cho con người của Phật giáo.
Hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài
Vì đề tài mang tính chất chung và khá rộng, nên hướng nghiên cứu tiếp theo là đi sâu
vào từng khía cạnh đóng góp của Phật giáo đối với công bằng xã hội như Ngũ giới
Phật giáo với công bằng xã hội, Giá trị và ý nghĩa của bình đẳng về mặt Tâm thức
trong Phật giáo…
2. Kết luận
Mục đích của đạo Phật là giải thoát thực trạng khổ đau con người để xây dựng cuộc

sống an vui hạnh phúc. Và Phật giáo tác động vào sự ấm no hạnh phúc của con
người bằng 2 con đường:
Thứ nhất để có được hạnh phúc, mỗi người phải tu tập theo các nguyên lý đạo đức
mang tính chuẩn mực trong giáo lý đạo Phật, con người trong Phật giáo là con người
đạo đức sống vị tha.
Thứ hai, Phật giáo có quan điểm nhập thế, đạo không tách rời với đời, là Phật tử dù
là tại gia hay xuất gia đều tích cực tham gia các công tác thế tục, đóng góp trên nhiều
mặt sinh hoạt của đời sống xã hội trong đó nổi bật và quan trọng là đóng góp vào
việc thực thi công bằng xã hội vì xét cho cùng thì phát triển con người bền vững
luôn đi liền với công bằng xã hội và bình đẳng về cơ hội phát triển.
Qua phân tích, có thể thấy rằng sự đóng góp của Phật giáo đối với công bằng xã hội
nói chung và hạnh phúc của con người nói riêng là vô cùng quan trọng và có ý nghĩa
thiết thực.
Tài liệu tham khảo
1. TT Chơn Quang – Sự đóng góp của PG về công bằng XH
( />2. Thích Tâm Đức- Quan điểm PG về kinh tế và công bằng XH
( />3. Đại đức Sugata Priya, PG đóng góp về công bằng XH và dân chủ
4. Lê Cung, Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, NXB Tp.HCM, 1995
5. Giáo sư tiến sĩ L. P. N. Perer, TN Hằng Liên dịch- Quan điểm của đạo Phật về
chủ nghĩa bình đẳng
6. GS TS Lê Hữu Tầng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực
hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay ( />bang-xa-hoi-o-viet-nam)
7. Tiến sỹ Jinabbodhi Bhikkhu, Thích Minh Lý dịch, Quan điểm của Phật giáo về
công bằng xã hội
8. Hòa thượng Thích Thiện Nhân, Sự đóng góp của PG về công bằng XH
9. Thích Minh Châu dịch Trường bộ kinh
10. Thích Minh Châu- Tăng Chi bộ kinh
11.Lê Văn Siêu- Văn học sử Việt Nam- NXB Văn hóa 2001
12. Chùa Viên Giác Thái độ của Phật giáo với việc phân biệt đẳng cấp xã hội
/>

×