Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

quản lý chuỗi cung ứng toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.72 KB, 20 trang )

LOGISTIC

I.

GIỚI THIỆU

Quản lý chuỗi cung ứng đã thu hút sự chú ý và quan tâm của nhiều giám đốc điều
hành cấp cao. Logistics chưa được hiểu đúng và thường bị bỏ qua sự hào hứng xung
quanh quản lý chuỗi cung ứng và tất cả công nghệ liên quan đã được phát triển để hỗ trợ
chuỗi cung ứng. “Glitter and glitz” kết hợp với chuỗi cung ứng điện tử, bán lẻ điện tử, và
thương mại điện tử, dường như đã làm lu mờ tầm quan trọng của logistics trong công ty
và sự cần thiết phải hỗ trợ logistics hiệu quả trong chuỗi cung ứng. Logistics có thể được
xem như bình thường bởi một vài cá nhân và khi so với chuỗi cung ứng như là áp lực và
trì hỗn.
Những chun gia logistics và những nhà quản lý hiểu biết khác cũng nhận ra được
điều đó, mặc dù tất cả sự cường điệu về Internet, những công ty thành công cũng phải
quản lý thực hiện đơn hàng cho khách hàng của họ một cách hiệu quả để xây dựng và
duy trì lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận. Nhiều câu chuyện về sự thất bại của kênh bán lẻ
điện tử trong mùa Giáng Sinh năm 1999 đã cung cấp bằng chứng về sự cần thiết của hệ
thống logistics cơ bản cho dịch vụ tốt. Sự tinh vi và quyến rũ của hệ thống front-end
khơng thể đứng một mình trong thị trường cạnh tranh tồn cầu của ngày nay, cơng việc
hậu cần lại là rất quan trọng đem đến sự hài lòng của khách hàng. Thực tế, tốc độ đặt
hàng thông qua Internet và các công nghệ khác làm tăng thêm sự cần thiết đối với một hệ
thống logistics hiệu quả và điều đó có thể có thể triển khai phù hợp với mức độ hàng tồn
kho, tốc độ hoàn thành đơn đặt hàng tới khách hàng, và quản lý bất kỳ hàng hố trả lại.
Câu khẩu hiệu thường được trích dẫn "Logistics tốt là sức mạnh kinh doanh " là rất đúng
đắn vì nó giúp xây dựng lợi thế cạnh tranh. Vì vào cuối ngày,nếu bạn không giao được
sản phẩm cho khách hàng của bạn, bạn sẽ không thể tồn tại lâu được. Điều này khơng
phải là để nói rằng bạn khơng cần sản phẩm có chất lượng và marketing hiệu quả. Cả hai
rõ ràng là rất quan trọng, nhưng chúng phải được kết hợp hệ thống logistics một cách
hiệu quả cho thành cơng lâu dài và khả năng tài chính của mình.


Thách thức lớn được đặt ra ở đây làm thế nào để quản lý được toàn bộ hệ thống
logistic theo cách đáp ứng đầy đủ các yêu cầu và có lẽ vượt xa sự mong đợi của khách
hàng. Đồng thời, thị trường cạnh tranh địi hỏi tính hiệu quả của việc kiểm sốt vận
chuyển và các chi phí khác liên quan đến logistics. Như đã được thảo luận, chi phí và
dịch vụ thương mại có thể được xem xét khi đánh giá mức độ dịch vụ khách hàng và tổng


chi phí liên quan đến logistics, nhưng cả hai mục tiêu: Hiệu quả và sự cần thiết của
logistics là rất quan trọng trong môi trường cạnh tranh ngày nay.
Điều quan trọng là ngay từ đầu để phân biệt giữa quản lý logistics và quản lý
chuỗi cung ứng, hoặc thích hợp hơn, kết hợp hai khái niệm này với nhau. Trong
chương tiếp theo, quản lý chuỗi cung ứng được định nghĩa bằng cách sử dụng một chuỗi
tương tự với sự bắt đầu của chuỗi đại diện cho các nhà cung cấp ban đầu và kết thúc của
chuỗi là đại diện cho khách hàng cuối cùng (xem Hình 2-1). Nói cách khác, nó là một
chuỗi mở rộng của các doanh nghiệp từ nhà cung cấp đến khách hàng cuối cùng.
Một quan điểm khác về quản lý chuỗi cung ứng là nó là một mạng lưới của hệ
thống logistics và các hoạt động liên quan của tất cả các công ty tổ chức cá nhân mà là
một phần của một chuỗi cung ứng cụ thể. Hệ thống logistics đơn lẻ rõ ràng đóng một vai
trị trong sự thành cơng của cả chuỗi cung ứng.Tổng thể sự phối hợp hay tích
hợp của hệ thống logistics trong một chuỗi cung ứng là một thách thức.Để đánh giá đầy
đủ động lực của thách thức này, cần thiết để kiểm tra và khảo sát một hệ thống logistics
riêng lẻ. Trong trường hợp công ty thực phẩm Jordano, Sue purdum cần phải hiểu các
mối quan hệ logistics trước khi cơ có thể đồng bộ hóa với tồn bộ chuỗi cung ứng SAB.
Trọng tâm của chương này là phương diện của hệ thống logistics riêng lẻ nhưng phải
nhìn nhận rằng khơng có tổ chức logistics nào hoạt động xa rời các tổ chức khác. Ví dụ,
phần đầu vào của hệ thống logistics của nhà sản xuất là đầu ra của hệ thống logistics của
nhà phân phối. Đầu ra của hệ thống logistics của nhà sản xuất là đầu vào của hệ thống
logistics của khách hàng.

Nguồn: Trung tâm nghiên cứu chuỗi cung ứng, Đại học Penn State.



II.
NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM LOGISTICS

Logistics là gì?
Thuật ngữ logistics đã được sử dụng chính thức trong Luật thương mại 2005, và được
phiên âm theo tiếng Việt là “lơ-gi-stíc”. Điều 233 Luật thương mại nói rằng:
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một
hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải
quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao
hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng
để hưởng thù lao.”
Theo Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng (Council of Supply
Chain Management Professionals - CSCMP), thì thuật ngữ này được định nghĩa khá đầy
đủ như sau:
“Quản trị logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định,
thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như
những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng. Hoạt động của quản trị logistics cơ bản bao gồm quản trị vận tải hàng hóa
xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế
mạng lưới logistics, quản trị tồn kho, hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch
vụ thứ ba. Ở một số mức độ khác nhau, các chức năng của logistics cũng bao gồm việc
tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng. Quản trị logistics
là chức năng tổng hợp kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như phối
hợp hoạt động logistics với các chức năng khác như marketing, kinh doanh, sản xuất, tài
chính, cơng nghệ thơng tin.”
Trong thế kỷ 21, logistics được xem như là một phần của quản lý và được phân ra
thành:



Logistics kinh doanh: là một phần của quá trình chuỗi cung ứng, nhằm hoạch định
thực thi và kiểm soát một cách hiệu quả và hiệu lực các dòng vận động và dữ trữ sản
phẩm, dịch vụ và thơng tin có liên quan từ các điểm khởi đầu đến điểm tiêu dùng nhằm
thoả mãn những yêu cầu của khách hàng.
Logistic quân đội: là việc thiết kế và phối hợp các phương diện hỗ trợ và các thiết
bị cho các chiến dịch và trận đánh của lực lượng quân đội. Đảm bảo sự sẵn sàng, chính
xác và hiệu quả cho các hoạt động này.
Logisc sự kiện: là tập hợp các hoạt động, các phương tiện vật chất kỹ thuật và con
người cần thiết để tổ chức, sắp xếp lịch trình, nhằm triển khai các nguồn lực cho một sự
kiện được diễn ra hiệu quả và kết thúc tốt đẹp.
Dịch vụ logistics: bao gồm các hoạt động thu nhận, lập chương trình, và quản trị
các điều kiện cơ sở vật chất/tài sản, con người, và vật liệu nhằm hỗ trợ và duy trì cho các
quá trình dịch vụ hoặc các hoạt động kinh doanh.
Tất cả bốn loại đều có một số đặc điểm chung và các yêu cầu như lập kế hoạch,
dự báo, và vận tải, nhưng chúng cũng có một số khác biệt về mục đích chính. Tất cả bốn
loại được xem trong một bối cảnh chuỗi cung ứng là đầu vào và đầu ra của các tổ chức
khác đóng một vai trị quan trọng trong thành cơng chung và khả năng tồn tại lâu dài.
Một định nghĩa chung của logistics được sử dụng gồm cả bốn loại hoạt động
logistics là:
Logistics là quá trình dự báo nhu cầu và huy động các nguồn lực như vốn, vật tư,
thiết bị, nhân lực, công nghệ và thông tin để thoả mãn nhanh nhất những yêu cầu về sản
phẩm, dịch vụ của khách hàng trên cơ sở khai thác tốt nhất hệ thống sản xuất và các
mạng phân phối, cung cấp hiện có của doanh nghiệp, với chi phí hợp lý.
2. PHÂN LOẠI LOGISTICS
Căn cứ vào phân cơng lao động và tính chun nghiệp của các doanh nghiệp có các mơ
hình nhà cung cấp dịch vụ logistics như sau:
-


Logistics bên thứ nhất (1PL- Fist Party Logistics)

Người sở hữu hang hóa tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp ứng
nhu cầu của bản than. Theo đó, chủ hang phải đầu tư vào các phương tiện vận tải, kho
chứa hang, hệ thống thông tin, nhân công để quản lý và vận hành hoạt động logistics. Fist
Party Logistics làm phình to quy mơ của doanh nghiệp và thường làm giảm hiệu quả kinh
doanh, vì doanh nghiệp khơng có đủ quy mơ cần thiết, kinh nghiệm và kỹ năng chuyên
môn để quản lý và vận hành hoạt động logistics.
-

Logistics bên thứ hai (2PL- Second Party Logistics)


Người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai là người cung cấp dịch vụ cho một hoạt
động đơn lẻ trong chuỗi các hoạt động logistics (vận tải, kho bãi, thủ tục hải quan, thanh
toán,..) để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, chưa tích hợp hoạt động logistics. Loại hình
này bao gồm: các hang vận tải đường biển, đường bộ, đường hàng không, các công ty
kinh doanh kho bãi, khai thuế hải quan, trung gian thanh toán,…
-

Logistics bên thứ ba (3PL- Third Party Logistics)

Người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics như: thay mặt
cho người gửi hàng thực hiện thủ tục xuất khẩu và vận chuyển nội địa hoặc thay mặt cho
người nhập khẩu làm thủ tục thông quan và vận chuyển hàng hóa tới địa điểm đến quy
định. Do đó, 3Pl bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc ln chuyển,
tồn trữ hàng hóa, xử lý thơng tin,… và có tính tích hợp vào chuỗi cung ứng của khách
hàng.
-


Logistics bên thứ tư (4PL- Fourth Party Logistics)

Người tích hợp- người hợp nhất, gần kết các nguồn lực tiềm năng và cơ sở vật chất khoa
học kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và vận hành các giải
pháp chuỗi logistics. 4Pl chịu trách nhiệm quản lý dòng lưu chuyển logistics, cung cấp
giải pháp chuỗi cung ứng, hoạch định tư vấn, tư vấn logistics, quản lý vận tải,… 4PL ảnh
hưởng đến quản trị cả quá trình logistics, nhận hàng từ nới sản xuất, làm thủ tục sản xuất,
nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng.
-

Logistics bên thứ năm (5Pl- Fifth Party Logistics)

Hình thức này phát triển nhằm phục vụ cho thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ
5PL là các 3PL và 4PL đứng ra quản lý toàn chuỗi phân phối trên nền tảng thương mại
điện tử.
Phân loại theo quá trình
-

logistics đầu vào

Là các hoạt động đảm bảo cung ứng tài nguyên đầu vào (nguyên liệu, thông tin, vốn,..)
một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian và chi phí cho q trình sản xuất.
-

Logistics đầu ra

Là các hoạt động đảm bảo cung cấp thành phẩm đến tay người tiêu dùng một cách tối ưu
cả về vị trí, thời gian và chi phí nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.



-

Logistics ngược

Là quá trình thu hồi các phụ phẩm, phế liệu, phế phẩm, các yếu tố ảnh hưởng đến môi
trường phát sinh từ quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng trở về để tài chế hoặc xử
lý.
Theo Hiệp định thương mại chung về lĩnh vực dịch vụ của Tổ chức thương mại thế giới
WTO thì dịch vụ logistics được chia thành 3 nhóm:
3.

Các dịch vụ logistics lõi
Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải
Các dịch vụ thứ yếu hoặc mang tính bổ trợ
LOGISTIC TRONG NỀN KINH TẾ
3.1.
Logistics trong nền kinh tế vĩ mơ

Có thể nói, chi phí tuyệt đối của logistics trên cơ sở vĩ mô sẽ tăng với sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Nói cách khác, nếu chúng ta sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch
vụ nhiều hơn, thì tổng chi phí sẽ tăng liên quan đến tất cả hoạt động logistics của mỗi và
mọi tổ chức. Để xác định hiệu quả của hệ thống logistics, chúng ta cần phải đo lường
tổng chi phí logistics về tổng sản phẩm quốc nội, chỉ số được chấp nhận rộng rãi và được
sử dụng để đánh giá tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế.
Như đã chỉ ra trong hình 2-2, chi phí logistics như là tỷ lệ phần trăm trong tổng sản
phẩm quốc nội (GDP). Nó đã giảm kể từ năm 1980 từ 16% xuống dưới 10%. Trong thực
tế, chi phí logistics chiếm gần 20% GDP vào đầu tới giữa những năm 1970. Robert
Delaney, phó chủ tịch của Cass logistics ở St Louis, đã phát triển và công bố số liệu cấp
độ vĩ mô logistics trong hơn mười năm. Báo cáo hàng năm của ông là một thước đo được
công nhận rộng rãi cho các chi phí logistics.



Nguồn: Robert Delaney, Hệ thống thơng tin Cass.
Như có thể dễ dàng nhìn thấy từ hình 2-2, chi phí logistics trên cơ sở tương đối
(tương đối so với GDP) đã giảm trong q trình hơn hai mươi năm qua. Đó là, đã có một
cải tiến đáng kể trong hiệu quả của tồn hệ thống logistics của các cơng ty
khác nhau hoạt động trong nền kinh tế. Sự giảm về chi phí tương đối này giảm cho phép
các cơng ty cạnh tranh hơn vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí sản xuất hàng hố
(COGS). Nó có thể được lập luận rằng thay đổi hoàn toàn đã xảy ra trong khả năng tồn
tại kinh tế toàn cầu của Hoa Kỳ, là một phần do sự cải thiện trong chi phí logistics.
Những năm 1990 là hoàn toàn trái ngược với những năm 1970 và đầu những năm
1980, khi sự cạnh tranh trong kinh tế quốc gia của chúng ta được đặt câu hỏi nghiêm
túc trong mối quan hệ với các nước ở Tây Âu và trên bờ Thái Bình Dương.
Xu hướng giảm chi phí logistics liên quan đến tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) chỉ ra trong hình 2-3 là rất quan trọng cần lưu ý. Sự suy giảm bắt đầu vào đầu
những năm 1980 và liên quan chặt chẽ đến bãi bỏ quy định vận chuyển, cho phép sự
linh hoạt nhiều hơn nữa cho các phương tiện để điều chỉnh tỷ giá và dịch vụ nhằm đáp


ứng cạnh tranh.Tóm lại tỷ lệ giá vận chuyển suy giảm để đáp ứng trong thời kỳ mới
mơi trường có ít quy định hơn.
Một yếu tố thứ hai góp phần vào xu hướng này là việc quản lý hàng tồn kho đã
được cải thiện. Đây là kết quả của việc tập trung đầu tư vào hàng tồn kho và các cơng
cụ quản lý tốt hơn về kỹ thuật để có quyết định hiệu quả hơn (Chương 7
và Chương 8 thảo luận về những công cụ này chi tiết hơn).
Trên cơ sở vĩ mô, Cục Dự trữ Liên bang công bố dữ liệu về tỷ lệ hàng tồn kho
phục vụ bán hàng (xem Hình 2-4). Nói cách khác, có bao nhiêu hàng tồn kho công
ty thực hiện để hỗ trợ doanh số bán hàng? Điển hình, người ta có thể mong đợi lượng
hàng tồn kho tăng cùng với doanh số bán hàng tăng. Hình 2-4 cho thấy một xu hướng
rất thú vị của hàng tồn kho giảm tương đối để bán hàng. Đây là một biện

pháp hiệu quả và rõ ràng chỉ ra rằng các công ty đang cải thiện việc quản lý hàng tồn
kho của họ. Nhìn chung, các cơng ty hỗ trợ để tăng trưởng doanh số bán hàng với một
mức độ hàng tồn kho thấp hơn nhiều trên cơ sở tương đối.

Nguồn: Federal Reserve Bank of St.Louis.

Ngoài ra để tập trung quản lý hàng tồn kho và vận chuyển hiệu quả hơn, toàn bộ
hệ thống logistics cần nhận được nhiều sự quan tâm hơn nữa.


Phân phối là một trong những lĩnh vực bị lãng quên thật đáng buồn nhất nhưng là
lĩnh vực hứa hẹn nhất của doanh nghiệp Mỹ....Hiện nay chúng ta biết rất ít về phân
phối như hiểu biết của những người cùng thời Napoleon về Châu Phi. Chúng ta biết mấu
chốt vấn đề nằm ở đó, và chúng ta biết đó là vấn đề lớn, và đó là tất cả.... Hầu hết các
khái niệm hiện nay của chúng ta tập trung vào sản xuất hoặc trên các dịng tiền và tín
dụng, chứ khơng phải là dịng chảy của hàng hóa vật chất và đặc điểm kinh tế của
nó....Để có được kiểm sốt phân phối địi hỏi phải nhìn nhận và quản lý nó như là một
chiều hướng khác biệt của doanh nghiệp và là một tài sản của sản phẩm và quá trình chứ
khơng phải là tập hợp các cơng việc kỹ thuật.
3.2.

Logistics trong nền kinh tế vi mơ

Một góc nhìn khác của Logistic theo quan điểm vi mô là nghiên cứu mối quan hệ
giữa Logistic và các bộ phận chức năng khác trong cơng ty như marketing, sản xuất, tài
chính, kế tốn và các phịng ban khác. Bản chất của Logistic là những hoạt động xuyên
suốt các bộ phận chức năng truyền thống trong doanh nghiệp, đặc biệt là trong chuỗi
cung ứng hiện nay. Do đó, Logistic là một hoạt động không thể thiếu với tất cả các bộ
phận chức năng.
4. MỐI QUAN HỆ GIỮA LOGISTIC VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT


- Thời gian vận hành sản xuất
Mối quan hệ cơ bản giữa logistic và quản lý sản xuất là thời gian vận hành sản
xuất. Chúng ta thông thường kết hợp các phương thức sản xuất với thời gian vận hành dài
sử dụng các dây chuyền sản xuất không thường xuyên hoặc chuyển đổi lẫn nhau. Tuy
nhiên, điều này sẽ dẫn đến thành phẩm tồn kho quá mức và sự hạn chế các nguồn cung
cấp. Vì vậy, quyết định sản xuất cuối cùng đòi hỏi nhà quản lý phải cân nhắc một cách
cẩn thận giữa những ưu điểm và nhược điểm của chu kỳ sản xuất dài so với chu kì sản
xuất ngắn. Nhiều ngành cơng nghiệp ngày nay có xu hướng chạy theo phương thức sản
xuất với chu kỳ ngắn, từ đó tiến tới việc làm bất cứ điều gì để tiết kiệm thời gian và chi
phí, phương thức thơng thường là chuyển đổi dây chuyền sản xuất từ sản phẩm này sang
sản phẩm khác. Điều này đặc biệt đúng đối với các công ty sử dụng lao động theo công
việc với phương pháp tiếp cận kiểm kê và lập kế hoạch. Xu hướng này là hướng tới hệ
thống "kéo” trong hoạt động sản xuất/logistic, nghĩa là sản xuất để đáp ứng nhu cầu,
ngược lại với hệ thống “đẩy” là tối ưu hóa nhu cầu. Mức tồn kho thấp hơn làm giảm chi
phí logistic.
- Nhu cầu theo mùa


Quản lý sản xuất được chú trọng bằng việc giảm thiểu các tác động của nhu cầu
theo mùa đối với các sản phẩm. Tuy nhiên, việc dự báo nhu cầu một cách đầy đủ không
phải khi nào cũng thực hiện được; do vậy, để có được lượng sản phẩm sẵn có mong
muốn vào thời điểm và địa điểm cần thiết khơng phải khi nào cũng thực hiện được. Ví
dụ, thời tiết lạnh và tuyết tích tụ ở các vùng miền khác nhau của nước Anh làm ảnh
hưởng đến doanh số bán hàng của ván trượt tuyết cũng như xe trượt tuyết. Để tiết kiệm
chi phí, tránh trường hợp làm thêm giờ, gấp gáp, và chuẩn bị tốt cho kế hoạch bán hàng,
quản lý sản xuất thường có kế hoạch sản xuất trước mùa và sản xuất một số lượng tối đa.
Khoản chi phí trả trước cho sản xuất này có thể khơng kinh tế vì chi phí lưu trữ hàng tồn
kho lớn. Tuy nhiên, quản lý sản xuất phải xem xét tính tốn để tiết kiệm chi phí sản
xuất. Vì vậy, bộ phận Logistic kết hợp với sản xuất, phải có sự chuẩn bị hàng hố sẵn

sàng để phục vụ cho theo mùa, có thể bắt đầu tích luỹ 3-6 tháng trước khi bán hàng. Ví
dụ, Hallmark Cards bắt đầu tích lũy các mặt hàng cho giáng sinh tại kho của nó ở thành
phố Kansas trong những tháng mùa hè, do đó hàng hóa sẽ được chuẩn bị sẵn sàng để vận
chuyển đến các cửa hàng bán lẻ và khách hàng khác trong mùa thu.
- Mối quan hệ với nguồn cung cấp
Từ khi quản lý Logistic chịu trách nhiệm cho việc nhập hàng và lưu trữ nguyên vật
liệu thô cung cấp cho dây chuyền sản xuất thì logistic và sản xuất đều liên quan mật thiết
đến nguồn cung cấp. Tình trạng thiếu hụt kho nguyên vật liệu có thể dẫn đến việc ngừng
sản xuất hoặc tăng chi phí sản xuất. Hoạt động quản lý Logistic phải đảm bảo nguyên vật
liệu và các yếu tố đầu vào khác luôn sẵn sàng nhằm đáp ứng kịp thời tiến độ sản xuất
đồng thời tiết kiệm chi phí lưu kho. Bởi vì sự cần thiết của việc điều phối vấn đề này,
ngày nay nhiều công ty đã chuyển trách nhiệm của công việc lập kế hoạch sản xuất từ hệ
thống quản lý sản xuất sang hệ thống quản lý logistic. Kết quả cuối cùng là mở rộng trách
nhiệm của một hệ thống logistic tổng thể.
- Vấn đề về bao bì/đóng gói
Một mối quan hệ khác của logistic và sản xuất là vấn đề bao bì. Nhiều doanh
nghiệp xem như là hoạt động của logistic. Trong phạm vi của hoạt động sản xuất hoặc
quản lý Logistic, mục đích chủ yếu của bao bì là bảo vệ sản phẩm khỏi bị hư hại. Điều
này tạo ra sự khác biệt của sản phẩm so với các gói sản phẩm khác nhằm mục đích cho
việc tiếp thị, quảng cáo.
- Nhà cung cấp thay thế
Mối quan hệ giữa logistic và hoạt động sản xuất ngày càng trở nên quan trọng tập
trung vào việc mua sắm nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào mua ngoài khác. Ngoài ra,


nhiều công ty ngày nay tiến hành hợp tác với bên thứ ba, hoặc hợp tác đóng gói, sản xuất,
lắp ráp một số hoặc tồn bộ thành phẩm của cơng ty. Sự hợp tác này đặc biệt phổ biến
trong ngành công nghiệp thực phẩm, nơi mà nhiều công ty sản xuất mặt hàng thực phẩm
chỉ được bán dưới nhãn hiệu của người khác.
Mối quan hệ giữa logistic và quá trình sản xuất với hãng thực phẩm Jordano là

một ví dụ điển hình. Việc cung cấp theo mùa của một số nguyên liệu như cà chua và nhu
cầu nhập khẩu một số mặt hàng địi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên của hệ
thống logistic.
- Mối quan hệ giữa Logistic và hoạt động Marketing
Logistics đôi khi được gọi là một nửa của marketing. Lý do cho định nghĩa này là
q trình phân phối sản phẩm, hàng hố tới người tiêu dùng. Hệ thống Logistics chịu
trách nhiệm cho việc lưu trữ và phân phối sản phẩm tới khách hàng và do đó đóng một
vai trị quan trọng trong việc bán một sản phẩm. Trong một số trường hợp, việc phân phối
và thực hiện đơn hàng là các yếu tố quan trọng trong việc bán một sản phẩm, có nghĩa là,
khả năng của bạn cung cấp sản phẩm vào lúc nào và với số lượng bao nhiêu là phù hợp
nhằm đạt hiệu quả trong bán hàng.
- Marketing hỗn hợp
Phần này đề cập tới mối quan hệ giữa logistic và Marketing chủ yếu là hoạt động
của marketing hỗn hợp. Hoạt động này được tổ chức theo Bốn chữ P của marketing
Price-giá cả, product - sản phẩm, promotion -khuyến mãi, và place – phân phối. Cụ thể
như sau:
1. Giá

+ Giá vận chuyển
Theo quan điểm của logistic, việc lựa chọn phương thức và đơn giá vận chuyển
dựa vào kích thước và trọng lượng của hàng hóa là rất quan trọng. Ví dụ, đối với vận tải
đường sắt yêu cầu trọng tải tối thiểu cho một toa thông thường là 30.000 pound. Vận tải
đường bộ thơng thường có trọng tải bằng 4 hoặc 5 lần, áp dụng đối với cùng một mặt
hàng được vận chuyển giữa 2 điểm tùy thuộc vào kích thước (trọng lượng) của lơ
hàng. Kích thước lớn hơn hay nhỏ hơn thì tỉ lệ đơn vị sẽ được chuyển đổi cho phù hợp.
Nói cách khác, chương trình giảm giá được áp dụng cho những hàng hóa cần vận chuyển
có khối lượng lớn nhất định bởi vì các cơng ty vận tải ưu đãi kinh tế khi khách hàng gửi
lượng hàng với khối lượng lớn hơn hoặc bằng khối lượng hàng hóa được ấn định mức ưu
đãi.



+ Phương thức vận chuyển phù hợp.
Các công ty thương mại cũng thường có chương trình giảm giá cho việc mua hàng
với số lượng lớn. Nếu chương trình giảm giá liên quan đến tỉ lệ chiết khấu đối với khối
lượng thì cơng ty có thể tiết kiệm cho bản thân hoặc cho khách hàng một số tiền nhất
định, tùy thuộc vào các điều kiện bán hàng. Ví dụ, một cơng ty thương mại bán hàng tại
kho của người mua (chịu chi phí vận chuyển) và nếu chính sách giá phù hợp với điều
kiện về tải trọng của phương tiện vận tải, cơng ty có thể nhận được mức giá thấp hơn với
lượng hàng lớn và do đó tiết kiệm tiền. Vì vậy, cơng ty sẽ tính tốn xem nhu cầu khách
hàng là bao nhiêu và trọng lượng được ưu đãi là bao nhiêu, nếu gần đạt mức hưởng giá
ưu đãi thì họ sẽ cố lấy thêm hàng đủ đạt điều kiện giá ưu đãi với đơn giá vận chuyển rẻ
hơn. Thậm chí nếu cơng ty bán hàng theo giá FOB chi phí vận chuyển do người mua chi
trả. Khi đó đơn giá vận chuyển người mua phải trả sẽ rẻ hơn từ đó nâng cao chất lượng
chăm sóc khách hàng giảm thiểu chi phí và do đó tiết kiệm tiền.
Mặc dù khơng phải lúc nào cũng có thể lấy được số lượng hàng hoá đủ điều kiện
được hưởng giá ưu đãi. Cơng ty có thể sử dụng xen kẽ các loại hình vận chuyển khác
nhau như vận chuyển bằng đường bộ hoặc đường sắt hoặc các loại hình vận chuyển khác
phù hợp với đặc điểm và số lượng hàng hoá cần giao nhận để làm sao cho tiết kiệm được
chi phí vận chuyển một cách tối ưu. Đó cũng là một cơ sở để đưa ra chương trình khuyến
mãi giảm giá bán.
+ Mối quan hệ của khối lượng hàng hóa:
Ngồi ra, quản lý logistics cũng phải liệt kê khối lượng hàng hoá với những đơn
giá khác nhau (bao nhiêu hàng với đơn giá tương ứng là bao nhiêu), vì điều này sẽ ảnh
hưởng đến yêu cầu hàng tồn kho, thời gian nhập hàng và các khía cạnh khác của dịch vụ
chăm sóc khách hàng. Mặc dù để phân tích vấn đề này gặp khá nhiều khó khăn nhưng
quản lý logistic có thể xem xét khả năng cung cấp đủ khối lượng hàng hoá với đơn giá
giá hấp dẫn, đúng lúc, đúng chủng loại, theo nhu cầu. Nếu làm được như vậy cơng ty có
thể bán hàng với số lượng lớn tạo ra doanh số bán hàng tăng lên vào các thời điểm cụ thể
trong năm. Quản lý logistic phải được thơng báo về thơng tin các sản phẩm, hàng hố để
có thể điều chỉnh các nhu cầu hàng tồn kho đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.

2. Sản phẩm
Việc quyết định sản xuất hay cung cấp loại hàng hoá nào đặc điểm ra sao để phù
hợp với nhu cầu và đặc tính của từng khu vực là một trong những mối quan tâm hàng đầu
của marketing sản phẩm. Vấn đề về kích thước, hình dạng của sản phẩm, trọng lượng,
đóng gói có ảnh hưởng khác nhau đến khả năng vận chuyển và lưu trữ sản phẩm của hệ


thống phân phối. Quản lý logistic có thể cung cấp thơng tin thích hợp về sản phẩm mới
để phục vụ cho việc lựa chọn phương thức vận chuyển thích hợp. Ngồi sản phẩm mới,
các cơng ty cịn tiến hành tân trang, cải tiến sản phẩm cũ bằng cách này hay cách khác
nhằm cải thiện và duy trì doanh số bán hàng. Việc cải tiến có thể thực hiện bằng cách
thay đổi mẫu mã, kích thước, bao bì sản phẩm khác nhau. Các kích thước, đặc điểm của
sản phẩm ảnh hưởng đến việc lưu giữ sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Chúng ảnh
hưởng đến sự lựa chọn các hãng vận tải, thiết bị cần thiết cho vận chuyển, tỷ lệ hư hỏng,
khả năng lưu trữ, sử dụng các chất liệu bảo quản như băng tải và bạt phủ, bao bì bên
ngồi...
Nhà quản lý logistics sẽ gặp khó khăn khi có sự thay đổi trong bao gói sản phẩm
làm cho việc sử dụng các phương tiện vận chuyển, lưu trữ không hiệu quả gây lãng phí,
hoặc có thể gây tổn hại tới sản phẩm. Ví dụ, khi Gillete lần đầu tiên giới thiệu dao cạo
Daisy, nhóm logistic đã khơng tìm hiểu cho đến khi kết thúc chương trình và họ đã phải
đối mặt với những giá bày hàng nhẹ và cồng kềnh, gây ra bởi mật độ trọng lượng thấp.
Không chỉ những giá bày hàng không phù hợp với băng tải của kho mà họ còn vận
chuyển với tốc độ cao hơn 150% so với tốc độ cho sản phẩm hiện tại. Gillette cuối cùng
đã giải quyết được vấn đề nhưng nó là một bài học đắt giá. Những điều này thường có vẻ
nhàm chán và hơi tầm thường đối với những người quan tâm đến việc bán hàng cho
khách hàng nhưng nó ảnh hưởng lớn đến thành cơng chung của tổ chức và lợi nhuận
trong thời gian dài.
Khơng có một nguyên tắc hay công thức cụ thể nào chỉ ra cho các cơng ty nên
làm gì trong những trường hợp này, nhưng quản lý logistic có thể đưa ra những điểm
mạnh điểm yếu, những căn cứ cho việc ra quyết định đạt hiệu quả. Logistic không phải là

người trực tiếp bán hàng nhưng chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về lưu trữ trong hệ thống
logistic cũng sẽ thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, nâng cao doanh số bán hàng.
-

Bao bì/đóng gói sản phẩm

Hoạt động marketing khác ảnh hưởng đến logistic là đóng gói sản phẩm. Quản lý
marketing thường xem bao bì sản phẩm như một nhân viên bán hàng thầm lặng. Ở cấp độ
bán lẻ, bao bì sản phẩm có thể là một nhân tố quyết định ảnh hưởng đến doanh số bán
hàng. Quản lý marketing đặc biệt quan tâm tới mẫu mã sản phẩm khi tung sản phẩm ra
thị trường, thông tin đi kèm và những đặc tính khác của sản phẩm; cũng như sự so sánh
của khách hàng với một số sản phẩm cùng loại trên thị trường, bao bì sản phẩm có thể
làm tăng doanh số bán. Bao bì sản phẩm đóng vai trị quan trọng trong hệ thống quản lý
logistic vì một số lý do. Bao bì sản phẩm thường phải phù hợp với tiêu chuẩn bao bì cơng
nghiệp, hay bao bì bên ngồi. Kích thước, hình dạng và những yếu tốt khác của bao bì


sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến khả năng sử dụng của đóng gói cơng nghiệp. Mức độ bảo vệ
hàng hóa của các gói bao bì cũng liên quan đến hệ thống logistic. Các yếu tố vật lý và
mức độ bảo vệ của bao bì ảnh lượng đến logistic trong khía cạnh của việc vận chuyển,
bảo quản và lưu trữ.
3. Xúc tiến bán
Xúc tiến bán là một hoạt động marketing được quan tâm đặc biệt trong doanh
nghiệp. Các công ty thường dành hàng trăm nghìn hoặc thậm chí hàng triệu đơ la vào
chiến dịch quảng cáo trên khắp cả nước và các hoạt động quảng cáo khác để mở rộng
phạm vi bán hàng. Doanh nghiệp thực hiện quảng cáo để kích thích doanh số bán hàng do
vậy quản lý logistic cũng phải có sự dự trù về số lượng hàng tồn kho có đủ và sẵn sàng
cung cấp cho khách hàng. Nhưng ngay cả khi logistic đã có sự chuẩn bị nhưng vấn đề
ngồi mong muốn vẫn có thể xảy ra. Ví dụ, khi Gillette giới thiệu dao cạo lưỡi kép Good
new, kế hoạch ban đầu của công ty là đưa ra ba chương trình khuyến mãi liên tiếp. Dự

tính khi tung sản phẩm ra toàn quốc sẽ đạt được doanh số bán hàng là 20.000.000 chiếc.
Sau những hoạt động xúc tiến thương mại đưa ra sẽ đã đạt doanh số bán hàng là
10.000.000 chiếc và Gillette đã mong chờ chương trình xúc tiến thứ ba sẽ tăng doanh số
thêm 20.000.000 chiếc, đạt tổng doanh số là 50.000.000 chiếc. Khi sản phẩm được tung
ra thị trường, đợt đầu tiên đã bán được 35.000.000-75% so với kế hoạch. Điều này đã đặt
một gánh nặng cho nhóm logistic phải làm sao có đủ lượng hàng để đáp ứng nhu cầu thị
trường khi mà mức tiêu thụ vượt quá so với kế hoạch.
- Hệ thống kéo/ đẩy.
Chúng ta nên nhìn xa hơn các mối quan hệ giữa doanh số bán hàng và phân tích
chiến lược quảng cáo để xem những tác động của hệ thống logistic. Quản lý marketing
thường phân loại các chiến lược quảng cáo của họ thành hai loại cơ bản: đẩy hoặc kéo.
Có nghĩa là họ có thể sử dụng một trong hai phương thức đẩy hoặc kéo thông qua các
kênh phân phối tới người tiêu dùng. Tóm lại, họ là những tổ chức đưa sản phẩm tới người
tiêu dùng cuối cùng sau khi sản phẩm được sản xuất. Họ bao gồm các cửa hàng bán buôn
và bán lẻ.
- Sự cạnh tranh về kênh phân phối sản phẩm
Các nhà sản xuất thường xuyên cạnh tranh để có được những kênh phân phối
phù hợp để đạt được khả năng tiêu thụ sản phẩm cao nhất. Ví dụ, một nhà sản xuất ngũ
cốc muốn nhà bán lẻ trưng bày nhiều sản phẩm trên giá hàng hoặc muốn nhà bán buôn
lấy một số lượng sản phẩm đủ để đáp ứng các nhà bán lẻ và từ đó nhu cầu tiêu dùng cho
sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến các nhà bán lẻ và bán buôn. Bằng việc bán sản phẩm phổ


biến, họ sẽ cải thiện lợi nhuận. Doanh thu càng cao thì lợi nhuận càng cao. Họ thấy vui
vẻ hơn với từng sản phẩm cụ thể và sẽ sẵn sàng để cho nó có khơng gian và vị trí tốt hơn
trong cửa hàng.
- Phương pháp kéo
Các cơng ty có thể cố gắng để cải thiện doanh số bán hàng của họ bằng cách
quảng bá sản phẩm thông qua các kênh phân phối quảng cáo trên tồn quốc. Từ đó kích
thích khách hàng mua những sản phẩm mà họ đã thấy trong một tạp chí, đã nghe trên đài

phát thanh, hoặc đã thấy trên truyền hình. Nhu cầu mua sẽ tác động đến các nhà bán lẻ,
kéo theo việc các nhà bán lẻ sẽ tác động tới nhà bán buôn. Một số công ty cảm thấy rằng
cách tiếp cận tốt nhất để thúc đẩy một sản phẩm là thông qua các kênh phân phối từ nhu
cầu trực tiếp của người tiêu dùng.
- Phương pháp đẩy
Phương pháp tiếp cận cơ bản khác là phương pháp đẩy. Phương pháp tiếp cận
đẩy là dựa vào sự hợp tác của các kênh phân phối để kích thích doanh số bán hàng – Nói
cách khác, nhà sản xuất có thể trả một phần chi phí quảng cáo hoặc đưa ra những gian
hàng trưng bày đặc biệt để kích thích doanh số bán hàng. Ngồi việc hợp tác với nhà bán
bn, nhà sản xuất có thể cung cấp cho các nhà bán lẻ với giá ưu đãi tại một thời gian cụ
thể để kích thích nhu cầu sản phẩm. Điều này tương phản với cách tiếp cận kéo, trong đó
cơng ty kích thích doanh số bán hàng một phần độc lập với nhà bán lẻ bằng cách quảng
cáo sản phẩm trên một quy mô khu vực rộng.
- Sự ảnh hưởng của logistic
Chúng ta có thể sử dụng một trong hai hoặc kết hợp 2 cách tiếp cận này. Trong
thực tế, một số công ty kết hợp cả hai phương thức tiếp cận trong hoạt động của họ. Tuy
nhiên, theo quan điểm của quản lý logistic, đẩy và kéo có những yêu cầu khác xa nhau về
phương thức hoạt động của hệ thống logistic. Phương pháp kéo có nhu cầu về sản phẩm
thất thường rất khó dự đốn và có thể có các nhu cầu khẩn cấp. Quảng cáo trên quy mơ
lớn sẽ có khả năng thành cơng rất cao nhưng dự đoán phản ứng của người tiêu dùng về
các sản phẩm mới thường rất khó. Vì vậy, việc quảng cáo cũng có thể gây áp lực lên hệ
thống logistic, với những đơn hàng vận chuyển khẩn cấp (chuyển phát nhanh) với đơn
giá rất cao. Việc dư thừa hàng tồn kho cũng làm cho chi phí lưu kho tăng cao. Tình trạng
của Gillette là một ví dụ của trường hợp này. Mặt khác, cách tiếp cận “đẩy” là mơ hình
có lượng cầu ổn định hơn. Sự cộng tác với các nhà bán lẻ cho phép các nhà sản xuất dự
báo trước một phần doanh số bán hàng và do vậy sẽ thuận lợi hơn với những trường hợp
khẩn cấp hay bất thường gây ra bởi các chương trình xúc tiến bán của sản phẩm mới.


4. Địa điểm bán hàng

- Nhà bán buôn và nhà bán lẻ:
Việc lựa chọn địa điểm bán hàng sẽ quyết định đến việc lựa chọn các kênh phân
phối bao gồm cả kênh phân phối giao dịch và vật lý. Người nghiên cứu thị trường sẽ
quyết định về kênh giao dịch thị trường cũng như quyết định sẽ bán sản phẩm đến nhà
bán buôn hay bán trực tiếp đến nhà bán lẻ. Trên quan điểm của quản lý logistic, những
quyết định đó có ảnh hưởng lớn đến các điều kiện của hệ thống logistic. Ví dụ, các cơng
ty chỉ giao dịch với nhà bán bn sẽ ít đối mặt với các vấn đề về logistic hơn so với các
công ty muốn giao dịch trực tiếp với các nhà bán lẻ. Bán bn thường có xu hướng mua
với số lượng lớn hơn so với các nhà bán lẻ, đặt hàng và quản lý hàng tồn kho của họ có
thể dự đốn được và nhất qn hơn, do đó làm cho cơng việc của người quản lý logistic
dễ dàng hơn. Bán lẻ, thường đặt hàng với số lượng nhỏ và không phải lúc nào cũng cho
phép đủ thời gian để cung cấp hàng, do đó, các nhà sản xuất cần phải chi phí nhiều hơn
cho dịch vụ vận tải để đáp ứng nhu cầu giao hàng.
5. CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG LOGISTIC

Những định nghĩa logistic trước đây chỉ ra rằng người quản lý logistic phải có
trách nhiệm trong các hoạt động sau:
- Vận chuyển và phương tiện vận chuyển
- Kho bãi và lưu trữ
- Vấn đề về bao bì
- Cơng cụ xử lý
- Kiểm sốt hàng tồn kho
- Trình tự thực hiện
- Dự báo nhu cầu
- Kế hoạch sản xuất
- Dịch vụ chăm sóc khách hàng
- Vị trí nhà máy và kho
- Xử lý hàng hoá trả về
- Các bộ phận và dịch vụ hỗ trợ
- Cứu hộ và xử lý phế liệu

Danh sách này liệt kê gần như toàn bộ các hoạt động của logistic, tuy nhiên đối
với từng công ty cụ thể họ có những mơ hình hoạt động khác nhau và tập trung vào một
số hoạt động cụ thể chứ khơng phải tồn bộ các hoạt động trên. Ví dụ, một công ty sử
dung kênh phân phối vật lý sẽ khơng chú trọng vào sự thu mua hàng hóa.
Phạm vi hoạt động
Sự gia tăng mối quan tâm đến logistic sau chiến tranh thế giới thứ II đã góp phần
vào sự tăng trưởng trong các hoạt động liên quan đến logistic. Trong phạm vi của sự tăng
trường này, chúng ta sẽ thảo luận về những hoạt động với mối quan hệ của các hoạt động
logistic.


Giao thông vận tải. Giao thông vận tải là một phần rất quan trọng của hệ thống
logistic. Trọng tâm chính trong logistics là sự phân phối sản phẩm, hàng hoá. Mạng lưới
này bao gồm của các doanh nghiệp giao thông vận tải cung cấp dịch vụ vận tải cho công
ty. Quản lý logistic chịu trách nhiệm lựa chọn các phương thức vận tải phù hợp được sử
dụng trong việc vận chuyển các nguyên vật liệu và thành phẩm
- Cân bằng vận tải:
Lưu trữ: Bao gồm hai hoạt động riêng biệt nhưng có mối quan hệ mật thiết đó là
quản lý hàng tồn kho và kho bãi. Một mối quan hệ trực tiếp được tồn tại giữa giao thông
vận tải và mức độ hàng tồn kho cũng như số kho cần thiết. Ví dụ, nếu các cơng ty sử
dụng một phương tiện vận chuyển tương đối chậm, họ thường phải giữ tồn kho cao hơn
và có khơng gian lưu kho cho hàng tồn kho này lớn hơn. Họ có thể xem xét tới các hình
thức vận chuyển khác nhanh hơn để giảm bớt số kho và hàng tồn kho lưu trữ.
Một số quyết định quan trọng liên quan đến hoạt động lưu trữ (hàng tồn kho và
nhà kho) là phải có bao nhiêu kho, cần lưu trữ bao nhiêu hàng tồn kho, xác định vị trí các
kho hàng, kích thước kho cần thiết. Bởi vì các quyết định về vận tải sẽ ảnh hưởng đến các
quyết định về lưu trữ, do vậy cần lựa chọn các phương án về vận chuyển – hàng tồn kho
– lưu kho một cách tối ưu nhằm tạo ra một hệ thống logistic hiệu quả.
- Phương thức tác động:
Bao bì. Một hoạt động thứ ba mà logistic quan tâm tới là bao bì bên ngồi trong

q trình vận chuyển. Các loại hình giao thơng vận tải được lựa chọn ảnh hưởng đến yêu
cầu đóng gói cho sản phẩm để đưa tới tay người tiêu dùng. Ví dụ, giao thông vận tải
đường sắt hoặc đường biển thường địi hỏi chi phí đóng gói cao hơn vì khả năng thiệt hại
lớn hơn. Trong phân tích về chi phí cơ hội cho các đề xuất thay đổi về phương tiện vận
tải, logistic phải xem xét làm thế nào sự thay đổi đó sẽ ảnh hưởng đến chi phí đóng gói ít
nhất. Trong nhiều trường hợp, thay đổi một phương tiện vận tải cao cấp, chẳng hạn như
vận tải hàng khơng sẽ làm giảm chi phí đóng gói vì có ít nguy cơ thiệt hại và an tồn
hơn.
- Hiệu quả:
Cơng cụ chuyên chở, đóng gói. Một vấn đề thứ tư là cơng cụ xử lý, đó cũng là
vấn đề mà các bộ phận khác quan tâm đến trong tổ chức sản xuất. Công cụ xử lý là một
phần quan trọng trong hoạt động kho bãi hiệu quả. Quản lý logistic liên quan đến q
trình vận chuyển hàng hóa vào nhà kho, các vị trí của hàng hóa trong kho, và di chuyển
hàng hoá từ nơi lưu trữ đến các khu vực bến tàu để vận chuyển đi giao hàng.
Các công cụ, phương tiện xử lý thường được sử dụng là các phương tiện cơ giới
giúp cho việc rút ngắn khoảng cách vận chuyển, thiết bị bao gồm băng tải, xe nâng hàng,
cần cẩu, và các thùng chứa. Tuy nhiên các loại cơng cụ xử lý này phải có sự tương thích,
phù hợp với hoạt động kho bãi, logistic.Vì vậy, thiết kế lựa chọn công cụ, phương tiện xử
lý phải được phối hợp để đảm bảo phù hợp giữa các loại trang bị được sử dụng.


Quá trình thực hiện. Một lĩnh vực khác mà hoạt động logistic kiểm sốt là q
trình thực hiện, trong đó bao gồm các hoạt động liên quan đến việc hoàn thành đơn đặt
hàng của khách hàng. Một yếu tố quan trọng trong việc phân phối sản phẩm là xác định
khoảng thời gian từ thời điểm đặt hàng cho đến khi thoả mãn nhu cầu của khách hàng là
bao lâu.
Ví dụ, giả định rằng, thời gian của hệ thống tổng cộng tám ngày để chế biến,
chuyển giao, chuẩn bị, và vận chuyển. Trình tự xử lý có thể mất bốn ngày, chuẩn bị có
thể mất thêm hai ngày, có nghĩa là hàng hoá phải được vận chuyển cho khách hàng trong
hai ngày. Thời gian giao hàng nhanh có thể địi hỏi một phương tiện vận tải cao

cấp. Thay vào đó cơng ty có thể xem xét đổi mới phương thức bằng cách sử dụng điện
thoại hoặc Internet để giảm thời gian xử lý đơn hàng đến hai ngày hoặc ít hơn. Điều này
sẽ cho phép các công ty sử dụng phương tiện vận chuyển rẻ hơn nhiều và vẫn giao hàng
cho khách hàng trong vịng tám ngày. Nhìn từ góc độ thời gian hoặc thời gian giao hàng,
chúng ta có thể thấy rằng chức năng của logistic là khá quan trọng trong việc thực hiện
các đơn hàng.
- Độ chính xác của hoạt động kiểm kê:
Dự báo. Một hoạt động quan trọng của logistic là dự báo hàng tồn kho. Dự báo
chính xác các yêu cầu hàng tồn kho, các công cụ và các bộ phận cần thiết để kiểm soát
hàng tồn kho hiệu quả. Điều này đặc biệt đúng trong các cơng ty sử dụng mơ hình JIT
hoặc phương pháp tiếp cận MRP để kiểm soát hàng tồn kho. Nhân viên logistic nên đưa
ra những dự báo trong các tình huống khác nhau để đảm bảo độ chính xác và kiểm soát
hiệu quả hàng tồn kho.
Lập kế hoạch sản xuất Một lĩnh vực khác đòi hỏi sự quan tâm của các nhà quản
lý logistic là lập kế hoạch sản xuất, liên quan chặt chẽ với việc dự báo về kiểm soát hàng
tồn kho hiệu quả. Một khi dự báo được đưa ra, hàng hoá đã được nhập kho và tỷ lệ sử
dụng được xác định, quản lý sản xuất có thể xác định số lượng hàng hoá cần thiết để đảm
bảo cung cấp đầy đủ cho thị trường. Do vậy, từ q trình sản xuất và các mối quan hệ
dịng sản phẩm u cầu cần có sự kiểm sốt chặt chẽ quá trình thực hiện kế hoạch sản
xuất của Logistics.
Việc lập kế hoạch sản xuất của logistic ngày càng trở nên phổ biến trong các tập đoàn
lớn.
- Quan điểm về thời gian
Mua hàng, là một hoạt động mà chúng ta có thể thấy trong tất cả các hệ thống
logistic. Lý do cơ bản là Logistic xác định các chi phí liên quan của việc mua hàng và
vận chuyển đó là các chi phí liên quan trực tiếp đến khoảng cách địa lý của nguyên vật
liệu, các chi tiết được mua cho nhu cầu sản xuất của công ty. Tùy điều kiện của chi phí
vận chuyển và hàng tồn kho, số lượng hàng mua cũng sẽ ảnh hưởng đến chi phí lưu kho.
III.
KẾT LUẬN



- Logistics có nhiều định nghĩa và phân loại khác nhau bởi sự quan tâm rộng rãi đến
các ứng dụng và sự cơng nhận tầm quan trọng của nó.
- Logistics đã phát triển như là một lĩnh vực quan trọng hoặc là một chức năng kinh
doanh kể từ thế chiến thứ II. Nó đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển để đạt được thành
tựu như hiện nay.
- Logistics là một phần quan trọng của quản lý chuỗi cung ứng. Sự phối hợp và tích
hợp của hệ thống logistics của tất cả các tổ chức trong chuỗi cung ứng là yêu cầu cần
thiết cho quản lý thành công chuỗi cung ứng.
- Logistics là một lĩnh vực quản lý có bốn ngành chính là kinh doanh, quân sự, dịch
vụ và sự kiện.
- Trên một cơ sở vĩ mơ, chi phí logistics liên quan giảm tương đối đã giúp nền kinh tế
Mỹ lấy lại vị thế cạnh tranh trên toàn cầu.
- Logistics bổ sung giá trị thời gian và vị trí cho sản phẩm và cải tiến hình thức và giá
trị sở hữu bổ sung thêm cho quá trình sản xuất và tiếp thị.
- Logistics có một mối quan hệ quan với sản xuất, tiếp thị, tài chính và các lĩnh vực
khác của công ty.
- Quản lý logistics phụ trách một số hoạt động quan trọng bao gồm cả vận chuyển,
hàng tồn kho, lưu kho, xử lý vật liệu, cơng nghiệp đóng gói, dịch vụ khách hàng, dự báo
và các hoạt động khác.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Peter F. Drucker. “Nền kinh tế của Châu Âu”, Fortune (1962):103
- Stephen H. Russell, “ Phát triển của logistics trên thế giới”, Air Forrce tạp chí
logistics số 24 (2000): 13-15
- E. Jerome McCarthy và WilliamE. Perrault Jr, Marketing căn bản, Một cách tiếp
cận quản lý. (Homewood, III: Richard D. Irwin. 1987) 46 – 52.
- Philip Kotler: Quản trị marketing: Phân tích, lập kế hoạch và kiểm soát.
- Roy Dale Voorhees and Merrill Kim Sharp, “Principles of Logistics
Revisited”, Transportation Journal (Fall 1978): 69–84.

- J. L. Heskett, Robert M. Ivie, and Nicholas A. Glaskowsky Jr., Business
Logis- tics: Management of Physical Supply and Distribution (New York: Ronald
Press, 1973), 26.
- Op.cit., 454-69



×