Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực cho nam vận động viên bóng ném hà nội lứa tuổi 13 – 15

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.77 KB, 55 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH
&&&
NGUYỄN TIẾN DŨNG
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ
THỂ LỰC CHO NAM VẬN ĐỘNG VIÊN BÓNG NÉM
HÀ NỘI LỨA TUỔI 13 - 15
LUẬN VĂN CỬ NHÂN THỂ DỤC THỂ THAO
BẮC NINH – 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH
&&&
NGUYỄN TIẾN DŨNG
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ
THỂ LỰC CHO NAM VẬN ĐỘNG VIÊN BÓNG NÉM
HÀ NỘI LỨA TUỔI 13 - 15
Ngành : Giáo dục thể chất
Mã Số : 521.40206
LUẬN VĂN CỬ NHÂN THỂ DỤC THỂ THAO
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
T.S: Nguyễn Xuân Trãi
BẮC NINH – 2011
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
(Nhận xét, ký và ghi rõ họ tên)
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trong đề tài là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Tiến Dũng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
cm : Centimet
m : Met
s : Giây
T.S : Tiến sĩ
TDTT : Thể dục thể thao
VĐV : Vận động viên
NXB : Nhà xuất bản
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Thể loại Số thứ tự và tiêu đề Trang
Bảng
Bảng 3.1. Diễn biến nhịp độ tăng trưởng của các tố chất thể
lực nam vận động viên bóng ném Hà Nội lứa tuổi 13 – 15.
26
Bảng 3.2. Kết quả phỏng vấn lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá
trình độ thể lực cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi
13 – 15. (n = 25)
31
Bảng 3.3. Độ tin cậy của các chỉ tiêu lựa chọn đánh giá
trình độ thể lực cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi

13.(n = 6)
32
Bảng 3.4. Độ tin cậy của các chỉ tiêu lựa chọn đánh giá
trình độ thể lực cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi
14.(n = 6)
33
Bảng 3.5. Độ tin cậy của các chỉ tiêu lựa chọn đánh giá
trình độ thể lực cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi
15.(n = 6)
32
Bảng 3.6. Hệ số tương quan của các chỉ tiêu lựa chọn với
thành tích thi đấu của nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi
13 – 15.
34
Bảng 3.7. Kết quả kiểm tra chỉ tiêu lựa chọn với nam Bóng
ném Hà Nội lứa tuổi 13. (n = 6)
35
Bảng 3.8. Kết quả kiểm tra chỉ tiêu lựa chọn với nam Bóng
ném Hà Nội lứa tuổi 14. (n = 6)
36
Bảng 3.9. Kết quả kiểm tra chỉ tiêu lựa chọn với nam Bóng
ném Hà Nội lứa tuổi 15. (n = 6)
36
Bảng 3.10. Tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp trong đánh giá
trình độ thể lực cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi
13.
37
Bảng 3.11.Tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp trong đánh giá
trình độ thể lực nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi 14.
38

Bảng 3.12. Tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp trong đánh giá
trình độ thể lực cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi
15.
39
Bảng 3.13. Bảng điểm tổng hợp đánh giá trình độ thể lực
cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi 13. (n= 6)
40
Bảng 3.14. Bảng điểm tổng hợp đánh giá trình độ thể lực
cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi 14. (n= 6)
41
Bảng 3.15. Bảng điểm tổng hợp đánh giá trình độ thể lực
cho nam VĐV Bóng ném Hà Nội lứa tuổi 15. (n= 6)
42
Bảng 3.16. Kết quả kiểm tra ngược thông qua các chỉ tiêu
xây dựng được
44
MỤC LỤC
1.1 Các quan điểm huấn luyện thể lực trong thể thao 11
1.2 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 13- 15 14
1.2.1 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 13-15 14
1.2.2 Đặc điểm sinh lý lứa tuổi 13-15 15
1.3 Cơ sở lý luận về các phương pháp đánh giá trình độ tập luyện của VĐV.
16
1.3.1 Trình độ tập luyện của VĐV 16
1.3.2 Xu hướng phát triển bóng ném hiện đại 22
1.3.3 Các phương pháp đánh giá trình độ tập luyện của VĐV. 25
2.1 Phương pháp nghiên cứu 27
2.1.1 Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu 27
2.1.2 Phương pháp phỏng vấn 27
2.1.3 Phương pháp quan sát sư phạm 27

2.1.4 Phương pháp kiểm tra sư phạm 28
2.1.5 Phương pháp toán học thống kê: 29
2.2 Tổ chức nghiên cứu 30
2.2.1 Thời gian nghiên cứu 30
3.1 Nghiên cứu lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá trình độ thể lực cho nam vận
động viên bóng ném Hà Nội lứa tuổi 13 – 15 32
3.1.1 Thực trạng việc đánh giá trình độ thể lực cho nam vận động viên Bóng
Ném 32
3.1.2 Lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá trình độ thể lực cho nam vận động viên
bóng ném Hà Nội lứa tuổi 13 – 15 34
3.1.3 Các kết quả lựa chọn chỉ tiêu 35
3.2 Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực cho nam vận động viên
Bóng ném Hà Nội lứa tuổi 13 – 15 40
3.2.1 Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu 41
3.2.2 Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá của hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu ứng
dụng 43
3.2.3 Cách thức tiến hành xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện
thể lực cho nam vận động viên Bóng ném Hà Nội lứa tuổi 13 – 15 48
Kết luận 50
Kiến nghị 50
MỞ ĐẦU
Trong thực tiễn, hoạt động thể dục thể thao (TDTT) không đơn thuần chỉ là
hoạt động cơ bắp chỉ nhằm nâng cao sức khoẻ, giảm mệt mỏi, phòng ngừa căng
thẳng từ hoạt động sản xuất. Mà ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
nền kinh tế- văn hoá- chính trị- xã hội… Thì thể thao đã trở thành một bộ phận
của nền văn hoá xã hội, góp phần làm phong phú sinh hoạt văn hoá tinh thần,
giúp con người phát triển toàn diện, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa các
quốc gia.
Thể thao Việt Nam đã, đang được đảng và nhà nước quan tâm và đầu tư
thích đáng. Đặc biệt là trong công tác giáo dục thể chất và được coi là quốc sách

hàng đầu với mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,
thể lực, thẩm mỹ. Hoà cùng với sự phát triển chung của toàn nhân loại và đưa
nước ta sánh vai cùng các cường quốc 5 châu, thực hiện mong ước lúc sinh thời
của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại “ Dân cường nước thịnh”.
TDTT nước ta ngày càng trưởng thành và khẳng định được vị thế của mình
trên đấu trường quốc tế như các môn: Điền kinh, bơi lội, thể dục, cầu mây, bắn
súng, võ thuật…Hoà nhịp cùng với sự phát triển của các môn thể thao khác,
Bóng ném cũng đã đạt được một số thành tích cao trong khu vực, minh chứng
cho điều này là hai chiếc huy chương vàng tại Seagame 22 tại Việt Nam của đội
nam và nữ cũng như 2 chiếc huy chương bạc tại Seagame 24 ở Thái Lan.
Mặc dù vậy, Bóng Ném ở nước ta chưa thể sánh kịp với tầm châu lục cũng
như trên thế giới. Bởi Bóng Ném Việt Nam vẫn còn một số hạn chế trong công
tác thể thao thành tích cao và thể thao quần chúng, vì thành tích không chỉ phụ
thuộc vào năng lực huấn luyện của huấn luyện viên, các phương tiện, phương
pháp huấn luyện, điều kiện tập luyện tiên tiến và hiện đại mà còn phụ thuộc vào
vấn đề về thể lực trong giai đoạn huấn luyện ban đầu. Để giải quyết được cần
phải tìm được những người thực sự có năng khiếu, đầy đủ tư chất về giải phẫu,
tâm sinh lý cũng như các tố chất vận động khác và có khả năng đạt thành tích
cao trong tương lai. Vì vậy việc định hướng cơ sở khoa học cho công tác giảng
dạy và huấn luyện, đặc biệt là việc lựa chọn chỉ tiêu và xây dựng tiêu chuẩn
đánh giá trình độ thể lực cho vận động viên là bước đi ban đầu hết sức quan
trọng và cần thiết.
Hà Nội là thành phố có phong trào Bóng ném phát triển trên toàn quốc, tuy
nhiên việc đào tạo vận động viên trẻ vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt hệ thống
tiêu chuẩn còn chưa đầy đủ cơ sở khoa học trong việc đánh giá trình độ thể lực
cho nam vận động viên Bóng ném trẻ. Từ đó dẫn đến hiệu quả của quá trình đào
tạo chưa cao.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu một số tài liệu, chúng tôi thấy đã có một số tác
giả nghiên cứu về các vấn đề khác nhau về thể lực như: Trịnh Văn Tào (2001)
“ Nghiên cứu các test đánh giá trình độ thể lực chuyên môn cho nam VĐV Bóng

Ném lứa tuổi 14-16” ;Phùng Minh Hải (2004), “Nghiên cứu ứng dụng một số
bài tập phát triển thể lực chung cho nam VĐV Bóng Ném trẻ Hà Nội lứa tuổi
14-16 trong giai đoạn huấn luyện ban đầu”; Cù Tiến Đạt (2006), “ Nghiên cứu
lựa chọn một số chỉ tiêu thể lực ứng dụng trong tuyển chọn VĐV Bóng Ném trẻ
lứa tuổi 13-15 CLB Hà Nội” và gần đây nhất là đề tài của Hoàng Thị Huyền
(2009), “Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn thể lực cho nam vận động
viên bóng ném trẻ lứa tuổi 13 – 14 thành phố Hà Nội” … nhưng chưa có đề tài
nào nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực cho nam vận động
viên Bóng Ném.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu chúng
tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực cho nam vận
động viên bóng ném Hà Nội lứa tuổi 13 – 15”.
* Mục đích nghiên cứu.
Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực nhằm áp dụng cho việc tuyển
chọn vận động viên bóng ném trẻ lứa tuổi 13 – 15 trong giai đoạn huấn luyện
ban đầu.
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài sẽ làm tài liệu chuyên tham khảo cho các
chuyên gia trong quá trình tuyển chọn, huấn luyện và đào tạo vận động viên.
*Mục tiêu nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đề tài dự kiến sẽ giải quyết hai mục tiêu sau:
- Mục tiêu 1: Nghiên cứu lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá trình độ htể lực
cho nam vận động viên Bóng Ném Hà Nội tuổi 13 – 15.
+ Thực trạng việc đánh giá trình độ thể lực cho nam vận động viên Bóng
Ném.
+ Lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá.
- Mục tiêu 2: Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực
cho nam vận động viên Bóng Ném Hà Nội tuổi 13 – 15.
+ Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá.
+ Kiểm nghiệm trong thực tiễn các tiêu chuẩn đánh giá.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Các quan điểm huấn luyện thể lực trong thể thao.
Thể thao thành tích cao thể hiện khát vọng vươn lên tới khả năng cao nhất
của con người. Vì vậy, tiềm năng của con người đã và đang được khai thác triệt
để nhằm đạt thành tích thể thao cao nhất trong các cuộc thi đấu.
Trong thi đấu bất kỳ môn thể thao, bên cạnh các yếu tố hiểu biết, đạo đức, ý
chí, kỹ thuật và chiến thuật, thể lực là một trong những nhân tố quan trọng nhất
quyết định hiệu quả hoạt động của con người. Theo tác giả Nguyễn Toán và
Phạm Danh Tốn, tố chất thể lực là những đặc điểm, mặt, phần tương đối riêng
biệt trong thể lực của con người và thường chia thành 5 loại cơ bản: sức mạnh,
sức nhanh, sức bền, khả năng phối hợp vận động và độ dẻo. Theo quan điểm của
Lưu Quang Hiệp và Phạm Thị Uyên tố chất thể lực là hoạt động thể lực có thể
phát triển các mặt khác nhau của năng lực hoạt động thể lực và có bốn tố chất
vận động chủ yếu: sức mạnh, sức nhanh, sức bền và khéo léo.
Huấn luyện thể lực là tiền đề để nâng cao thành tích thể thao, song về bản
chất, mức độ phát triển các tố chất thể lực phụ thuộc vào các trạng thái chức
năng, cấu tạo nhiều cơ quan và nhiều hệ thống cơ thể. Quá trình huấn luyện để
phát triển các tố chất thể lực cũng chính là quá trình hoàn thiện các hệ thống
chức năng giữ vai trò chủ yếu trong mỗi hoạt động cơ bắp. Theo Philin V.P tố
chất thể lực phát triển có tính giai đoạn, không đồng đều, tuỳ thuộc vào từng
thời kỳ của lứa tuổi. Vì vậy, người HLV không chỉ nắm vững quy luật phát triển
tự nhiên, đặc biệt với các thời kỳ nhạy cảm (thời kỳ thuận lợi cho việc phát triển
các tố chất thể lực) của cơ thể, mà còn phải tìm hiểu sâu sắc những đặc điểm
phát triển các tố chất thể lực theo độ tuổi của VĐV.
Huấn luyện thể lực cho vận động viên là một quá trình rất quan trọng trong
huấn luyện chuyên môn, chủ yếu bằng hệ thống bài tập hoàn thiện các năng lực
thể chất, đảm bảo cho VĐV đạt thành tích cao nhất trong huấn luyện và thi đấu.
Quá trình huấn luyện thể lực phải căn cứ vào đặc điểm đối tượng, lứa tuổi
VĐV và đặc thù môn thể thao mà sử dụng các phương pháp, phương tiện phù

hợp. Có như vậy, huấn luyện thể lực mới mong đạt hiệu quả cao.
Ngày nay, trong huấn luyện thể lực hiện đại, theo Ozolin N.G thì dù bất kỳ giai
đoạn nào của quá trình đào tạo VĐV, công tác huấn luyện thể lực chung cùng
thể lực chuyên môn được coi là nền tảng của việc đạt thành tích thể thao cao.
Tuỳ thuộc vào mục đích của từng giai đoạn huấn luyện mà tỷ trọng huấn luyện
thể lực chung và thể lực chuyên môn được xác định cho phù hợp.
Huấn luyện thể lực là một quá trình tác động liên tục, thường xuyên và
theo kế hoạch lên cơ thể VĐV. Quá trình này tác động sâu sắc tới hệ thần kinh,
hệ tim mạch, cơ bắp cũng như đối với các cơ quan nội tạng của con người. Tất
nhiên, muốn có thành tích xuất sắc trong một môn thể thao nào đó, trước tiên
cần phải có tố chất thể lực phát triển phù hợp với yêu cầu chuyên môn, song
không có nghĩa là coi nhẹ các mặt khác như: Kỹ - chiến thuật, tâm lý …
Hiện nay tồn tại rất nhiều quan điểm về huấn luyện thể lực cho các VĐV
trẻ, song có thể nói rằng hệ thống các quan điểm thực hiện Ozolin N.G đề
xướng là có tính khái quát hơn cả. Tác giả cho rằng: “ Quá trình huấn luyện thể
lực cho VĐV là việc hướng đến củng cố các hệ thống cơ quan của cơ thể, nâng
cao khả năng chức phận của chúng, đồng thời là việc phát triển các tố chất vận
động (sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo)”.
Quá trình huấn luyện thể lực cho VĐV bao gồm: huấn luyện thể lực chung
và huấn luyện thể lực chuyên môn.
Huấn luyện thể lực chung: Là quá trình nhằm phát triển một cách toàn diện
các tố chất thể lực cũng như khả năng chức phần khác nhau không đặc trưng
cho một hoạt động riêng biệt nào và nó tạo điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu
quả của quá trình huấn luyện thể lực chuyên môn.
Huấn luyện thể lực chuyên môn: Là quá trình giáo dục nhằm phát triển và
hoàn thiện những năng lực thể chất tương ứng với đặc điểm môn thể thao
chuyên sâu. Nó có nhiệm vụ phát triển tới mức tối đa những năng lực đó của
VĐV. Huấn luyện thể lực chuyên môn hướng đến củng cố và nâng cao khả năng
làm việc của các cơ quan chức phận, các tố chất thể lực phù hợp với đòi hỏi của
môn thể thao lựa chọn.

Huấn luyện thể lực chung là nền tảng cho việc nâng cao thể lực chuyên
môn. Tuy nhiên, theo quan điểm thể thao hiện đại, nó không phải là một quá
trình huấn luyện chung chung mà phải xuất phát từ yêu cầu của huấn luyện thể
lực chuyên môn để lựa chọn ra phương tiện và phương pháp phù hợp.
Huấn luyện thể lực chuyên môn cần thiết phải chia làm hai phần:
Huấn luyện chuyên môn cơ sở: Được hình thành và phát triển trên nền tảng
thể lực chung. Harre.D.(1995) đã chỉ ra rằng: Sức bền chuyên môn của VĐV sẽ
cao hơn trên cơ sở nâng cao sức bền chung cho VĐV. Như vậy, có thể nói rằng:
Huấn luyện thể lực chung là nền tảng, còn việc lựa chọn biện pháp thích hợp lại
mang những đặc trưng riêng của môn thể thao, là tiền đề hình thành nên các tố
chất thể lực chuyên môn sau này.
Theo Ozolin N.G (1986), việc hình thành thể lực chuyên môn cơ sở của các
môn thể thao không chu kỳ là tương đối khó khăn. Theo ông ở đây có hai cách
lựa chọn:
+ Thứ nhất: Bằng cách lặp lại nhiều lần các hoạt động chính đặc trưng của
môn thể thao lựa chọn.
+ Thứ hai: Sự lặp lại nguyên vẹn các bài tập thi đấu của chính môn thể thao
đó.
Nếu lựa chọn không đúng các bài tập hình thành và phát triển các tố chất
thể lực chuyên môn cơ sở sẽ dẫn đến các sai lầm chuyên môn trong các cơ quan
chức phận và điều này ảnh hưởng đến việc phát triển thành tích thể thao của
VĐV. Chính vì vậy các bài tập làm phương tiện giáo dục các tố chất thể lực
chuyên môn cơ sở còn phải thực hiện với cường độ cao. Mặt khác, khối lượng
thực hiện các bài tập đó cũng phải được tăng một cách từ từ, trong điều kiện từ
dễ đến khó. Hay nói cách khác, việc lựa chọn các bài tập để giáo dục tố chất thể
lực chuyên môn cơ sở cần phải tính toán tới việc sử dụng khối lượng và cường
độ bài tập mang những nét đặc trưng của môn thể thao tương ứng, phù hợp.
Huấn luyện thể lực chuyên môn cơ bản: mục đích các quá trình chuẩn bị
thể lực chuyên môn cơ bản đó là việc nâng cao tới mức cần thiết sự phát triển
các tố chất vận động và khả năng chức phận của các cơ quan nội tạng trước

những đòi hỏi của môn thể thao lựa chọn. Sự phát triển các tố chất thể lực
chuyên môn cơ bản tuỳ chọn chủ yếu vào các bài tập đặc thù của môn thể thao.
Các bài tập đó được thực hiện trong điều kiện giảm nhẹ hoặc tăng thêm độ khó.
Nguyên tắc chung trong lựa chọn các bài tập nhằm giáo dục các tố chất thể
lực chuyên môn cơ bản là các bài tập phải được thực hiện với cường độ tương
đương thi đấu. Quá trình huấn luyện thể lực chuyên môn cơ bản tuỳ thuộc vào
trình độ thể lực của VĐV mà kéo dài thông thường từ một đến nhiều tháng,
nghĩa là nó diễn ra trong giai đoạn hai của thời kỳ chuẩn bị và trong suốt thời kỳ
thi đấu của mỗi chu kỳ huấn luyện.
Giáo dục mỗi tố chất thể lực cần phải tuân thủ những quy luật riêng với
những phương pháp và biện pháp giáo dục riêng.
Dưới góc độ tâm lý, Phạm Ngọc Viễn và các cộng sự cho rằng: Nói đến
huấn luyện thể lực chung và chuyên môn trong huấn luyện thể lực là nói đến
những biến đổi thích nghi về mặt sinh học (cấu trúc và chức năng) diễn ra trong
cơ thể VĐV dưới tác động của tập luyện được biểu hiện ở năng lực vận động
cao hay thấp.
Tổng hợp các ý kiến nêu trên chứng tỏ quá trình chuẩn bị thể lực chuyên
môn của VĐV là sự tác động có hướng đích của lượng vận động, mà biểu hiện
là ở sự hoàn thiện các chức năng thể chất (sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm
dẻo và khéo léo), là ở việc nâng cao khả năng hoạt động của các cơ quan chức
phận tương ứng.
1.2 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 13- 15.
1.2.1 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 13-15.
Ở lứa tuổi này các em rất hiếu động nghịch ngợm và quá trình hưng phấn
vẫn chiếm ưu thế hơn so với quá trình ức chế. Do sự thay đổi nhanh chóng về cơ
thể nên tâm lý của các em cũng thay đổi, đặc biệt là trong giai đoạn dậy thì. Vì
vậy huấn luyện cần phải có định hướng uốn nắn kịp thời. Ở lứa tuổi 13-15 các
em đã tự cho mình là người lớn đòi hỏi mọi người xung quanh phải tôn trọng
mình. Tính tự ái, tự cao xuất hiện và các em thích khen hơn là khiển trách phê
bình. Do đó trong quá trình giảng dạy và huấn luyện cần phải đề ra những bài

tập mang tính hưng phấn và khen chê đúng mức.
1.2.2 Đặc điểm sinh lý lứa tuổi 13-15.
Trong huấn luyện kỹ - chiến thuật nói chung và thể lực nói riêng vđv Bóng
ném lứa tuổi 13-15 người huấn luyện viên, giáo viên phải nắm được đặc điểm
tâm sinh lý của lứa tuổi này, nắm chắc được thời kỳ nhạy cảm đối với sự phát
triển các tố chất thể lực để từ đó có kế hoạch lựa chọn các phương tiện, phương
pháp, bài tập sao cho phù hợp.
Ở lứa này 13-15 nổi bật là sự biến đổi phức tạp và sự phát triển cơ thể về
các chức năng như hệ xương, hệ cơ, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ thần kinh.
-Hệ xương: Xương của các em ở lứa tuổi này phát triển rất nhanh, đàn tính
xương giảm. Xương dài ra và cứng hơn, tăng lượng canxi trong xương, xuất
hiện sự cốt hoá sớm các đầu xương ở các khớp.
-Hệ cơ: Các em phát triển chậm hơn sự phát triển của hệ xương, chủ yếu là
phát triển về chiều dài, thiết diện cơ chậm phát triển nhưng đến tuổi 15-16 thì
thiết diện cơ phát triển nhanh đặc biệt là các cơ co. Do sự phát triển không đồng
bộ, thiếu cân đối nên các em không phát huy được sức mạnh và chóng mệt mỏi.
Vì vậy, trong huấn luyện cần chú ý phát triển tăng cường cơ bắp và phát triển
toàn diện.
-Hệ tuần hoàn: Tim phát triển chậm hơn so với sự phát triển của mạch
máu, sức co bóp còn yếu, khả năng điều hoà hoạt động của tim chưa ổn định nên
khi hoạt động quá nhiều, quá căng thẳng sẽ chóng mệt mỏi. Do vậy, cần huấn
luyện thường xuyên sẽ ảnh hưởng tốt đến hoạt động của hệ tuần hoàn, hoạt động
của tim dần được thích ứng và có khả năng chịu đựng với khối lượng lớn sau
này. Nhưng trong quá trình huấn luyện phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức và
nguyên tắc tăng dần yêu cầu trong công tác huấn luyện, tránh hoạt động quá sức
và quá đột ngột.
-Hệ hô hấp: Phổi của các em phát triển chưa hoàn thiện, phế nang còn nhỏ
các cơ hô hấp chưa phát triển, dung lượng phổi còn bé, vì vậy khi hoạt động các
em phải thở nhiều, thở nhanh nên chóng mệt mỏi. Do vậy huấn luyện cho các
em phải toàn diện, phải chú ý phát triển các cơ hô hấp, hướng dẫn các em biết

cách thở sâu, thở đúng, và biết cách thở trong hoạt động. Lưu ý ở lứa tuổi này
các em đang trong giai đoạn phát triển dậy thì (gái sớm hơn trai 1-2 tuổi) do
phát triển đột biến của một số tuyến nội tiết nên một số chức năng của các hệ
thống cơ quan và tâm lý đều có sự khác biệt rõ dần.
-Hệ thần kinh: Não bộ đang thời kỳ hoàn chỉnh, hoạt động của thần kinh
chưa ổn định, hưng phấn chiếm ưu thế, vì vậy khi học tập động tác các em dễ
tập trung tư tưởng, nhưng nếu thời gian kéo dài, nội dung nghèo nàn hình thức
hoạt động đơn điệu, thì thần kinh sẽ chóng mệt mỏi và dễ phân tán sức chú ý.
Do vậy nội dung tập luyện phải phong phú, phương pháp giảng dạy, tổ chức giờ
học phải linh hoạt, không cứng nhắc đơn điệu giảng giải và làm mẫu có trọng
tâm chính xác đúng lúc, đúng chỗ.
Xuất phát từ những cơ sở khoa học của phương pháp giáo dục thể lực và
căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của các em vđv lứa tuổi 13-15 thì bài tập đề ra
thời gian không quá dài, tránh gây căng thẳng cho hệ thần kinh, chú ý tập bài tập
gây được không khí thoải mái, thời gian nghỉ giữa quãng hợp lý, thứ tự các bài
tập lần lượt phải được nghiên cứu, xem xét.
1.3 Cơ sở lý luận về các phương pháp đánh giá trình độ tập luyện của
VĐV.
1.3.1 Trình độ tập luyện của VĐV.
Thành tích thi đấu mà vận động viên đạt được trong bất kỳ môn thể thao
nào cũng được cấu thành bởi hàng loạt những yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với
nhau. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố và tính chất ảnh hưởng của
chúng đối với thành tích không giống nhau. Có những yếu tố ảnh hưởng của
chúng trực tiếp đến thành tích, có những yếu tố giữ vai trò tiền đề.
Trình độ tập luyện của vận động viên bóng ném là một phức hợp gồm
nhiều yếu tố thành phần: Y sinh, tâm lý, kỹ - chiến thuật, thể lực ngày càng được
nâng cao do ảnh hưởng trực tiếp của lượng vận động tập luyện và thi đấu cũng
như các biện pháp khác. Trong quá trình huấn luyện nhiều năm, đánh giá trình
độ tập luyện theo độ tuổi và giới tính là một vấn đề vô cùng quan trọng với bất
kỳ môn thể thao nào. Các chỉ tiêu y sinh, tâm lý, sư phạm là cơ sở khoa học để

dự báo tiểm năng của vận động viên, có ý nghĩa thiết thực trong công tác tuyển
chọn và điều chỉnh lượng vận động, cũng như xây dựng kế hoạch huấn luyện.
Qua phân tích các tài liệu khoa học thu thập được trong nước và nước ngoài
nổi lên một số quan điểm về trình độ tập luyện như sau:
Theo Novicop A.D và Matveep L.P, trình độ tập luyện chủ yếu liên quan
đến những thay đổi về mặt sinh học thông qua sự thích ứng (về chức năng và
hình thái) xảy ra trong cơ thể VĐV dưới tác động của lượng vận động tập luyện.
Những thay đôi đó dẫn đến sự phát triển năng lực hoạt động của VĐV.
Theo Aulic I.V, yếu tố cơ bản của trình độ tập luyện là thành tích thể thao.
Do đó, ông cho rằng: “Trình độ tập luyện là năng lực tiềm tàng của VĐV để đạt
được những thành tích nhất định trong môn thể thao được lựa chọn và năng lực
này biểu hiện cụ thể ở mức độ chuẩn bị về kỹ thuật thể thao, về thể lực, chiến
thuật, đạo đức, ý chí và trí tuệ”. Theo tác giả thì trình độ tập luyện càng cao thì
VĐV càng có khả năng thực hiện được những nhiệm vụ nhất định với hiệu quả
mỹ mãn hơn. Trình độ tập luyện chính là mức độ thích ứng của cơ thể đối với
nhiệm vụ cụ thể, đạt được bằng con đường tập luyện.
Theo quan điểm của Harre D, trình độ tập luyện của VĐV thể hiện ở sự
nâng cao năng lực thể thao nhờ ảnh hưởng của lượng vận động tập luyện, lượng
vận động thi đấu và các biện pháp bổ trợ khác. Thông qua lượng vận động tập
luyện, lượng vận động thi đấu, trình độ từng yếu tố của năng lực thể thao (bao
gồm cả năng lực thể chất, năng lực phối hợp vận động, năng lực trí tuệ, kỹ xảo,
kỹ thuật, năng lực chiến thuật và các phẩm chất tâm lý) một mặt được nâng cao,
mặt khác giữa chúng cũng hình thành mối quan hệ bền vững. Bên cạnh đó, việc
phát huy đầy đủ các tiềm năng thể chất của VĐV thông qua việc nỗ lực ý chí ở
mức cao nhất cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Năng lực thể thao cao nhất
mà VĐV đạt được qua từng chu kỳ tập luyện phù hợp với trình độ tập luyện của
họ được gọi là trạng thái sung sức thể thao. Theo ông các thông tin và trình độ
tập luyện và dự báo tiềm năng của VĐV đó là:
+ Trình độ của thành tích
+ Nhịp độ phát triển của thành tích

+ Trình độ ổn định thành tích và khả năng tăng trưởng
+ Trình độ khả năng chịu đựng của VĐV
Bốn tiêu chuẩn trên thể hiện bốn mặt khác nhau của việc đánh giá tổng hợp
năng lực thể thao.
Như vậy, so với Novicop A.D, Matveep L.P và Aulic I.V thì quan niệm nêu
trên của Harre D. về cấu trúc của trình độ tập luyện toàn diện hơn.
Theo quan điểm sư phạm, việc đánh giá trình độ tập luyện của VĐV chủ
yếu dựa trên sự biến đổi về năng lực thể thao.
Theo quan điểm về sinh lý học thể dục thể thao thì trình độ tập luyện được
hiểu là mức độ thích nghi của cơ thể đối với một hoạt động nào đó đạt được
bằng tập luyện. Trình độ tập luyện bao giờ cũng liên quan đến những sự biến đổi
về cấu tạo và chức năng có thể xảy ra trong cơ thể dưới tác động của lượng vận
động tập luyện. Quan điểm này trên một chừng mực nhất định tương đương với
cách tiếp cận của Novicop A.D và Matveep L.P.
Theo Lưu Quang Hiệp, trình độ tập luyện được xác định thông qua các
phương pháp sư phạm, tâm lý và y- sinh học. Trình độ tập luyện là một khái
niệm tổng hợp, đặc trưng cho khả năng của toàn bộ cơ thể. Nguyên lý cơ bản để
xem xét trình độ tập luyện là nguyên tắc tổng hợp, nghĩa là phải xem xét một
cách toàn diện tất cả các mặt của hoạt động cơ thể: Trạng thái sức khoẻ, tâm lý,
trình độ kỹ chiến thuật, trình độ thể lực … Trình độ tập luyện cũng như biểu
hiện cao nhất của nó là trạng thái sung sức thể thao, có thể được xác định thông
qua các chỉ tiêu sinh lý nhất định.
Theo quan điểm của Lê Văn Lẫm [24]: “Trình độ tập luyện của VĐV là kết
quả hoạt động tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn huấn
luyện thể thao. Trình độ tập luyện thể hiện ở mức độ nâng cao chức phận cơ thể,
năng lực hoạt động chung và chuyên môn của VĐV ở mức hoàn thiện các kỹ
năng, kỹ xảo thể thao phù hợp”.
Tác giả Phạm Danh Tốn [49] cho rằng: Trong lý luận cũng như trong đào
tạo vận động viên người ta thường gặp các khái niệm như trình độ đào tạo hay
trình độ tập luyện. Nói đến trình độ đào tạo là nhằm chỉ tất cả các mặt đào tạo để

làm cho vđv có thể đạt được các thành tích thể thao kế tiếp nhau. Trình độ đào
tạo bao gồm trình độ đào tạo thể lực, kỹ thuật, chiến thuật, tâm lý và cả lý luận
nhất định của VĐV.
Trình độ (năng lực) thể thao thể hiện trong tập luyện và thi đâú của VĐV.
Nó là cấu trúc tổng hợp về thế năng, kỹ năng, chí năng và tâm năng Trình độ
(năng lực) về chiến thuật liên quan chặt chẽ tới cả bốn thành phần trên. Sự hình
thành những năng lực trên chủ yếu qua huấn luyện.
Nhờ huấn luyện, VĐV có được và nâng dần trình độ thích ứng mới, ngày
càng cao hơn (trong giai đoạn phát triển) hoặc duy trì hay hạn chế sự suy giảm
trong giai đoạn VĐV đã có thâm niên thể thao tương đối cao. Người ta còn gọi
đó là trình độ tập luyện của VĐV.
Để xác định trình độ tập luyện của một VĐV trong một môn thể thao nào
đó,cần phải xem xét các yếu tố cấu thành năng lực thể thao của vận động viên để
lựa chọn tổ hợp các chỉ tiêu đặc trưng xác định trình độ thích ứng của các yếu tố
cấu thành năng lực dưới ảnh hưởng của lượng vận động. Thống nhất với quan
điểm của Harre D. rằng năng lực thể thao là một phức hợp gồm nhiều yếu tố như
năng lực phối hợp vận động, năng lực trí tuệ, kỹ xảo, kỹ thuật, năng lực chiến
thuật và các phẩm chất tâm lý.
Như vậy, theo quan điểm của các nhà khoa học, trình độ tập luyện có thể
tóm tắt như sau: Trình độ tập luyện là mức thích ứng của cơ thể đạt được qua tập
luyện ( Novicop A.D và Matveep L.P),hoặc bằng con đường tập luyện (Aulic
I.V), hoặc nhờ lượng vận động tập luyện, nhờ lượng vận động thi đấu và các bài
tập bổ trợ khác ( Dietrich Harre), hoặc là trình độ điều luyện về kỹ chiến thuật,
mức phát triển về tố chât thể lực ( Nguyễn Danh Thái), đồng thời là khả năng
thích ứng của vận động viên nhờ hoàn thiện sự điều khiển và phối hợp hoạt
động giữa các hệ thống chức năng (Baigunop).
Theo quan niệm của các tác giả nêu trên thì trình độ tập luyện được thể hiện
qua một số đặc điểm sau:
-Những biến đổi thích nghi về hình thái và chức năng diễn ra trong cơ thể
VĐV dưới tác động của lượng vận động tập luyện và lượng vận động thi đấu.

- Trình độ tập luyện bao gồm nhiều mặt, nhiều thành phần nhưng dựa trên
cơ sở sinh học, không phải là bất biến mà là một trạng thái luôn luôn biến động
trong quá trình tập luyện. Thành tích thể thao được xem là yếu tố cơ bản của
quá trình tập luyện.
Từ những kết quả phân tích được trình bày trên có thể hiểu: Trình độ tập
luyện của VĐV chính là khả năng thể hiện năng lực thể thao cao trong một môn
thể thao nhất định nào đó mà họ đạt được thông qua lượng vận động tập luyện
và thi đấu.
Theo khái niệm về cấu trúc nhiều thành phần của trình độ tập luyện, có thể
nghiên cứu trình độ tập luyện theo các khía cạnh khác nhau: Sư phạm, tâm lý, y
học, xã hội.
Thuộc về khía cạnh sư phạm của trình độ tập luyện có trình độ kỹ thuật và
chiến thuật của VĐV. Song ý nghĩa kỹ thuật hay chiến thuật trong các môn thể
thao khác nhau lại không đồng nhất. Ví dụ như: Cùng với các yếu tố khác, thì
yếu tố kỹ thuật trong môn quyền anh và trong các môn bóng chiếm vị trí hàng
đấu, trong khi đó ở môn chạy cự ly dài kỹ thuật lại có ý nghĩa ít hơn là khả năng
chức phận của cơ thể.
Về khía cạnh tâm lý của trình độ tập luyện cần kể đến các trạng thái tâm lý,
các phẩm chất ý chí và đạo đức của vđv. Khó đánh giá vai trò của trạng thái tâm
lý trong thể thao. Khả năng tập trung chú ý khi bắt buộc phải tiếp tục cuộc thi
đấu trong điều kiện khó khăn được thể hiện rõ đối với các VĐV của hầu hết các
môn thể thao. Song trong từng môn thể thao, vai trò của trạng thái tâm lý của
VĐV cũng có khác nhau.
Về khía cạnh y học của trình độ tập luyện người ta xem xét tới các chỉ số
hình thái, sinh lý của cơ thể và tình trạng sức khoẻ. Rất rõ là, sức khoẻ tốt và khả
năng chức phận cao của cơ thể là cần thiết để đạt được những thành tích xuất sắc
trong thể thao.
Khía cạnh xã hội của trình độ tập luyện xác định vị trí của thể thao và của
VĐV trong xã hội, nó thể hiện ở điều kiện sống của VĐV, động cơ và về những
tính chất khác nhau của tính cách…

Theo lý luận được nhiều người thừa nhận người ta phân biệt trình độ tập
luyện chung và trình độ tập luyện chuyên môn. Trình độ tập luyện chuyên môn
ở VĐV được xác định bằng mức độ thích ứng của cơ thể đối với những yêu cầu
riêng biệt của môn thể thao lựa chọn, còn trình độ tập luyện chung được xác
định bằng mức độ thích ứng đối với một phức hợp các hình thức hoạt động khác
nhau. Các chỉ số về trình độ tập luyện chung của VĐV có thể biểu thị một cách
độc lập với hình thức hoạt động của họ. Để thực hiện điều này, người ta chủ yếu
phân tích những kết quả thử nghiệm, gọi là các thử nghiệm chức năng, chúng
phản ánh hệ thống tim- hô hấp của VĐV các môn thể thao khác nhau, thì khác
nhau. Ví dụ như, những chỉ số về trình độ tập luyện chung của các VĐV cử tạ
và thể dục có đẳng cấp cao thường bị đánh giá thấp hơn so với những chỉ số ấy
của các vận động viên chạy cự ly dài hay đua xe đạp. Song sự đánh giá như thế
không khách quan, đặc biệt trong những trường hợp họ là những người đạt kỷ
lục hay nhà vô địch.
Khi so sánh những VĐV các môn thể thao khác nhau, như vận động viên
chạy cự ly dài và các VĐV cử tạ, khó có thể tìm được ở họ những điểm chung
về thể hình, về các tố chất thể lực, về mức độ hoạt động chức năng của hệ thực
vật. Do đó, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, để có thể tránh những mâu thuẫn
này người ta thay “trình độ tập luyện chung” bằng “trình độ thể lực” hay “năng
lực hoạt động thể lực”. Trình độ thể lực biểu thị bằng tình trạng chức năng của
cơ thể và đặc biệt nó thể hiện các tố chất thể lực: sức mạnh, sức bền, sức nhanh,
khéo léo và mềm dẻo đồng thời còn thể hiện ở sự phối hợp thần kinh- cơ.
Aulic I.V cho rằng: giữa trình độ thể lực và trình độ tập luyện có liên quan
với nhau.Trình độ tập luyện cao luôn thể hiện năng lực hoạt động cao và trong
một số môn thể thao thì trình độ tập luyện và trình độ thể lực gần như trùng
nhau. Bởi vì, trình độ tập luyện phụ thuộc vào hình thức hoạt động thể lực, tức
là phụ thuộc vào môn thể thao.
Trình độ thể lực là một trong những nhân tố có ý nghĩa dự báo để xác định
năng khiếu trong những môn thể thao có phối hợp động tác phức tạp. Nhiều tác
giả đã chứng minh sự phát triển của tố chất sức mạnh và sức mạnh- tốc độ, độ

mềm dẻo của cột sống và độ linh hoạt của các khớp chậu- đùi, diễn ra theo
những quy luật nhất định của sự phát triển cá thể .
Cũng theo tác giả thì: “trình độ phát triển các tố chất thể lực là chỉ số có ý
nghĩa dự báo quan trọng trong tất cả các giai đoạn của tuyển chọn”.
1.3.2 Xu hướng phát triển bóng ném hiện đại.
Bóng ném là môn thể thao thi đấu đồng đội đối kháng trực tiếp cùng sân,
với mục tiêu cuối cùng là ném bóng vào cầu môn đối phương bằng tay. Là môn
thể thao luôn có sự cản trở chặt chẽ của đối phương, có sự va chạm nhanh, mạnh
và “ dữ dằn” nên vận động viên Bóng ném cần có sức mạnh nhanh, sự tháo vát
và ứng biến sáng tạo. Tuy là môn thể thao trẻ có lịch sử không dài như nhiều
môn thể thao đồng đội khác như: Bóng rổ, Bóng đá, Bóng nước, Bóng bầu dục
Bóng ném đã được quần chúng nhân dân ham thích và tham gia tập luyện, nhất
là giới trẻ. Hiện nay, Bóng ném là môn thể thao thi đấu có số cầu thủ đăng ký
chính thức khoảng 5 triệu người. Liên đoàn Bóng ném thế giới có số thành viên
là 130 nước và khoảng 200.000 đội.
Những năm 80 của thế kỷ XX, Bóng ném thế giới phát triển nhảy vọt do
nhiều nguyên nhân, trong đó có sự cải tiến luật thi đấu là một nhân tố chính.
Luật mới này đã ngăn chặn được tình trạng chơi thô bạo, ít dần những nguy
hiểm và hỗn loạn, đưa Bóng ném từ lối chơi đơn giản thô bạo sang lối chơi kỹ
thuật, cơ động và linh hoạt, có chiến thuật đa dạng, biến hóa nhưng vẫn có tính
đối kháng quyết liệt và mang dần tính nghệ thuật cũng như kỹ năng, kỹ xảo hơn.
Nhiều kỹ thuật mới ra đời dẫn đến công tác huấn luyện chuyển từ kinh nghiệm
sang giai đoạn khoa học hóa. Trình độ huấn luyện Bóng ném được nâng cao cả
về huấn luyện thể lực, kỹ chiến thuật, tâm lý, trình độ năng lực thi đấu của cá
nhân và toàn đội, nổi bật như CHDC Đức (cũ ), Liên xô (cũ), Hàn Quốc Bóng
ném xuất hiện cục diện hoàn toàn có sức sống mới, thu hút cộng đồng qua đó
giúp Bóng ném được phổ biến rộng và sâu hơn.
Bóng ném hiện đại có những đặc trưng sau:
- Tính đối kháng công thủ của 2 đội thể hiện quyết liệt giữa đột phá- ngăn
cản- đột phá, ném bóng cầu môn- ngăn cản ném bóng cầu môn, truyền và cướp

bóng, kèm sát và va chạm
- Tính liên tục: thể hiện ở chuyển nhanh liên tiếp giữa tấn công và phòng
thủ, phòng thủ và phản công. Hoạt động công thủ có mối quan hệ thống nhất
chính thể, yêu cầu tiếp nối giữa các hành động vận động hữu cơ chuyển đổi
nhanh.
- Tính đồng đội: Trong bóng ném phân công nhiệm vụ, vị trí có tính chuyên
môn hóa cao và rõ ràng những phối hợp đồng đội chặt chẽ hữu cơ thống nhất
theo mục đích chiến thuật làm tăng sức mạnh toàn đội, phối hợp phát huy tốt
giữa cá nhân và toàn đội đồng thời phát triển cao nhất năng lực đặc biệt của từng
cá nhân.
- Tranh giành khống chế không gian nhanh hơn thể hiện ở tăng nhanh chiều
cao đứng, sức bật và sức nhanh, giành ưu thế về không gian, thời gian, nhất là ở
vòng cung trước cầu môn. Thi đấu căng thẳng và quyết liệt nhất là ở khu vực
này.
Tăng chiều cao đứng là nét đặc biệt nhất của các đội bóng ném trên thế
giới. Tại giải vô địch Bóng ném thế giới năm 1986 có hai vận động viên cao trên
2m, đội tuyển Liên xô cũ có tới bốn vận động viên cao trên 2m. Những năng lực
như vận động nhanh, đổi chỗ linh hoạt năng lực kỹ chiến thuật biến hoá điêu
luyện, sức bật tốt, khả năng va chạm nổi chội, khống chế tốt không gian và nhất
là lợi thế về chiều cao trong tấn công và phòng thủ nên uy hiếp lớn đối với tất cả
các đồng đội. Tranh giành ưu thế không gian là xu hướng chính của Bóng ném
hiện đại dựa trên cơ sở tốc độ và khống chế biến hoá tốc độ linh hoạt.
- Nhanh và biến hoá: Bóng ném hiện đại ngày nay càng đua tranh về tốc độ
để lợi dụng và khống chế không gian. Thi đấu Bóng ném trên phạm vi sân nhỏ
và đông nên nếu không có năng lực nhanh thì không thể biến hoá. Tranh đua về
tốc độ là một năng lực cơ bản tạo cơ sở cho biến hoá đa dạng. Tốc độ biểu hiện
rất rõ nét trong tấn công nhanh và phòng thủ nhanh, chuyển đổi công thủ nhanh
và tăng nhịp độ thi đấu nhanh (và giảm nhịp độ thi đấu nhanh), tạo thời cơ
nhanh phản công nhanh và tạo bất ngờ nhiều hơn, Luôn tạo được chỗ trống để
đột phá nhanh tạo thế thi đấu 1 đối 1 hoặc nhiều đối một. Nhờ tấn công nhanh,

phản công nhanh làm phòng thủ phải nhanh hơn, nhờ tăng tốc độ nên năng lực
thi đấu của vậ động viên nhanh dẫn tới nhịp biến hoá nhanh.
Từ những đặc điểm trên cho thấy, vận động viên Bóng ném yêu cầu phải
phát triển toàn diện về kỹ thuật, chiến thuật, tâm lý và thể lực cũng như trí lực
để đáp ứng được năng lực thi đấu quyết liệt, căng thẳng và đầy biến hoá. Trong
thi đấu Bóng ném, năng lực nhanh, tính va chạm mạnh, nhiều, xuất phát điểm
nhanh, dừng nhanh, chuyển biến hướng nhanh và liên tục, đột phá đan giao đổi
chỗ, di động tấn công và phòng thủ ở mọi vị trí cần thiết, biến hoá động tác điêu
luyện trong nhanh mạnh như biến tầm, biến điểm, biến tốc, biến lực, biến góc,
biến đường và biến động tác…Đối với hậu vệ, việc chủ yếu là phòng thủ nhưng
chuyển sang phản công nhanh, ném cầu môn giỏi.Tiền đạo không chỉ biết tấn
công giỏi mà lại cần biết ngăn chặn đối phương nhanh, tóm lại là phải giỏi cả
tấn công và phòng thủ, giỏi cả tấn công biên lẫn chính diện, len lách, che chắn
ngăn cản cướp bóng, ném bóng xa và ném bóng gần tốt. Trình độ kỹ thuật cũng
như thể lực phải toàn diện để phá lối chơi gò bó đơn điệu cứng nhắc theo từng vị
trí và khu vực đơn giản.
Do trình độ thể lực cũng như kỹ thuật được nâng cao nhanh nên tạo điều
kiện phát triển cao, vững hơn và sáng tạo lối chơi theo hướng tập thể biến hoá
linh hoạt, ứng biến trong thi đấu một cách thông minh, sáng tạo có hiệu quả.
Hiện nay, do lối tấn công linh hoạt nên việc phòng thủ phải tốt, hiệu quả, ngăn
chặn từ xa mà vẫn kín chặt, phòng thủ vòng trong chuyển được sang phản công
nhanh khi có điền kiện.
Xu hướng Bóng ném hiện đại kết hợp giữa cao và nhanh, kỹ thuật toàn diện
điêu luyện, ứng biến linh hoạt, tính đồng đội cao và kết hợp sở trường, độc chiêu
cá nhân do đó yêu cầu phải chọn và đào tạo được những vận động viên tài năng
trên cơ sở đồng đội tốt. Đặc trưng của Bóng ném trên thế giới hiện nay có thể
tổng hợp lại như sau:
+ Đây là môn thể thao có tính đối kháng quyết liệt, trực tiếp trên cùng sân
do đó đòi hỏi vận động viên phải có sự khéo léo và không ngại va chạm ngoài ra
cần phải có các yếu tố khác như: Ý chí, sự phối hợp chiến thuật đồng đội nhưng

đối với từng cá nhân lại phải có sự đặc sắc với các động tác: chạy nhanh, ném,
khống chế người trên không và ném, ném điểm, ném hiểm thì mới ghi bàn.
+ Sự phối hợp trong di chuyển nhanh và biến hoá nhưng dựa trên cơ sở sức
mạnh biến hoá.
+ Khả năng linh hoạt và giữ thăng bằng rất đặc biệt: ném bóng trên không,
lao vào ném, lộn người ném bóng cả dưới đất lẫn trên không…phải rất toàn
diện. Đặc điểm của từng cá nhân rất quan trọng chính vì những lý do đó mà có
thể nói đây là môn thể thao mang tính đồng đội nhưng thực tế lại là cá nhân.
+ Hiện đại kết hợp với tộc độ, kỹ thuật toàn diện và điêu luyện, kỹ năng, kỹ
xảo kết hợp ứng biến linh hoạt dựa trên sở trường, sở đoản, độc chiêu chính là
xu hướng phát triển hiển đại của Bóng ném thế giới hiện nay.
1.3.3 Các phương pháp đánh giá trình độ tập luyện của VĐV.
Đánh giá trình độ tập luyện của VĐV là một vấn đề hết sức quan trọng
trong HLTT, và đã được không ít các tác giả quan tâm , nó phải được tiến hành
tại những thời điểm quan trọng trong các giai đoạn huấn luyện. Thực chất của
quá trình đào tạo VĐV là qúa trình điều khiển, tác động có hướng đích của HLV
tới VĐV của mình nhằm đạt được các thành tích thể thao cao và cao nhất. Một
trong những khâu quan trọng nhất của việc điều khiển quá trình huấn luyện
nhiều năm là hệ thống kiểm tra tổng hợp nhằm đánh giá trình độ tập luyện của
VĐV trong tất cả các giai đoạn của quá trình giảng dạy -huấn luyện. Hệ thống
kiểm tra tổng hợp có hiệu quả giúp cho HLV đánh giá khách quan tính đúng đắn

×