MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Sự cần thiết hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
(CAFTA ) .........................................................................................................
1.1. Nhân tố thúc đẩy.........................................................................................
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA) trên
toàn cầu..............................................................................................................
1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của khu vực
kinh tế năng động ASEAN................................................................................
1.2. Nhân tố cản trở..........................................................................................
1.2.1. Loại hình tổ chức của ACFTA................................................................
1.2.2. Tình trạng phân hóa hai cực....................................................................
1.2.3. Cạnh tranh...............................................................................................
1.2.4. Yếu tố chính trị........................................................................................
2. Thực trạng hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc
(ACFTA)...........................................................................................................
2.1. Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc
(ACFTA).........................................................................................................13
2.2. Những thỏa thuận đã đạt được của khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc( ACFTA )....................................................................................13
2.2.1. Mục tiêu của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa
ASEAN và Trung Quốc...................................................................................14
2.2.2. Các biện pháp hợp tác kinh tế...............................................................15
2.2.3. Các chương trình hoạt động..................................................................20
1
3. Những thành tựu và những tác động tới các nước thành viên khu vực
mậu dịch ASEAN-Trung Quốc (ACFTA)......................................................20
3.1. Những thành tựu.......................................................................................20
3.1.1. Hợp tác Tiểu vùng Mekong...................................................................20
3.1.2. Hợp tác nông nghiệp..............................................................................22
3.1.3. Hợp tác Công nghệ thông tin và liên lạc (ICT).....................................22
3.1.4. Hợp tác Giao thông vận tải....................................................................22
3.1.5. Hợp tác du lịch......................................................................................23
3.2. Những tác động tới các nước thành viên..................................................23
3.2.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn .........................................24
3.2.1.1. Tăng cường mở rộng tiềm năng thương mại......................................25
3.2.1.2. Cải thiện môi trường đầu tư ...............................................................27
3.2.2. Tạo ra vị thế mới về chính trị trong các vòng thương lượng, đàm phán
đa phương toàn cầu .........................................................................................28
3.2.3. Tạo ra môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác...................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
1. Sự cần thiết hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung
Quốc ( CAFTA )
1.1. Nhân tố thúc đẩy
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA) trên toàn
cầu
Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi chưa từng thấy trong nửa cuối
những năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã được toàn cầu hoá
mạnh mẽ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sự sáp nhập và mua lại
(M&A) xuyên biên giới và thông qua các kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng
với cuộc cách mạng công nghệ thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã được thiết
lập ở các lĩnh vực như kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa hoá và mối
quan hệ giữa các hãng, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử dụng các chính sách
thương mại quốc tế.
Bảng : Các khu vực mậu dịch tự do lớn của 1 số nước
Các khu mậu dịch tự do đã ký kết
Singapor
e
Mehico Chile Mỹ EC/ EU *
Mỹ và
Canada
(NAFTA),
EU,
Canada, Mehico,
Trung Mỹ (Costa
Rica, El Salvador,
Malta, Cyprus,
Andora, Thổ Nhĩ
Kỳ, Thuỵ Sỹ,
3
New
Zealand,
Nhật Bản,
EFTA
EFTA, Chile,
Israel, Các
nước
thuộc khối
tam
giác phía bắc
(El Salvador,
Honduras,
Nicaragoa),
Dominica,
Nicaragoa,
Costa Rica,
Bolivia, G3.
Honduras,
Guatamela,
Nicaragoa),
Venezuela,
Columbia, Equdor,
MERCOSUR,
Peru, Bolivia
Canada và
Mehico
(NAFTA),
Israel,
Jordan
Liechtenstein,
Ireland, Norway,
Séc, Hungary, Ba
Lan, Slovak,
Rumania,
Bulgaria,
Lithuania,
Estonia,
Latvia, Faeroes,
Slovenia,
Mehico,
Chile, Palestine,
Tunisia, Israel,
Jordan
Các khu mậu dịch tự do đang đàm phán hay có kế hoạch bắt đầu đàm phán
Mỹ,
Mehico,
Canada,
Australia
Singapore Mỹ, EU, EFTA,
Hàn Quốc,
Panama,
Cuba,
MERCOSUR
Chile,
FTAA,
Singapore
MERCOSUR,
Các nước khối
Andean (Bolivia,
Columbia, Peru,
Venezuela)
Các khu mậu dịch tự do đang ở giai đoạn đề xuất
4
Chile, EU,
Hàn
Quốc,
Pacific 5
Nhật, New
Zealand
Nhật, Singapore,
Pacific 5
Pacific 5
Nguồn: Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), 2001,
Trích tư liệu từ website của bộ
tài chính Việt Nam )
Lý do khiến cho hàng loạt FTA nói trên được ký kết là bởi lẽ thực tế đã cho
thấy, ở một mức độ nhất định, nguồn lợi mà FTA mang lại cho các quốc gia là
rất lớn:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, các FTA gần như bao gồm toàn bộ các lĩnh
vực trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên: không chỉ thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, … mà
cả các vấn đề khác như du lịch, thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát
thanh truyền hình … Với phạm vi bao quát rộng như vậy, FTA sẽ đem lại nhiều lợi
ích như mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, xúc tiến đầu tư và
chuyển giao công nghệ, tăng cường đàm phán đối với một nước thứ ba. Hơn thế nữa,
tự do thương mại thông qua FTA sẽ càng làm tăng sức cạnh tranh của các nhà xuất
khẩu và các tổ chức thương mại của các nước thành viên, tạo điều kiện cho họ dễ
dàng thành công trong các vòng đàm phán đa phương.
Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so với WTO,
với những ưu đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự do hoá tối đa và triệt
tiêu hoàn toàn những trở ngại đối với thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đặc biệt
là vấn đề triệt tiêu thuế suất nhập khẩu xuống 0% và các ưu đãi mở cửa thị trường
5
đầu tư. Ngoài ra, bản chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thương
mại, mà còn bao gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thương mại, ví
dụ: hợp tác trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong việc phát triển
công nghệ thông tin, đơn giản hoá thủ tục hải quan, xúc tiến thương mại và đầu tư,
hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, … Nói cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt
là những FTA mới được ký kết gần đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung
loại bỏ thuế quan và tự do hoá khu vực dịch vụ nên mỗi khi con đường đa phương bị
tắc nghẽn hay cản trở, các nước liền tìm đến những dàn xếp song phương hay khu
vực.
Một điểm lợi nữa của FTA là trong quá trình hình thành mạng lưới các FTA,
mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải cách kinh tế trong nước đã
đặc biệt được chú trọng. Các FTA được xem như là các công cụ chính sách để giới
hạn hay thúc đẩy cải cách trong nước cũng như thu hút FDI hơn là trông chờ có được
các tác động trực tiếp to lớn của giảm thuế quan.
1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của khu vực kinh tế
năng động ASEAN.
Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Tăng trưởng kinh tế đã từng là thành
tích đầy ấn tượng của Trung Quốc và phần lớn các nước ASEAN trong 3 thập kỷ vừa
qua. Cả Trung Quốc và ASEAN đều theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng về xuất
khẩu và đã đạt được các tỷ lệ tăng trưởng cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của thế giới.
Theo tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc (TQ) đã tăng tốc kể từ khi bắt đầu chính sách đổi mới kinh tế năm 1978,
bình quân 9,5%/năm và sẽ còn duy trì các năm về sau.
Vào những năm 90, Trung Quốc tăng trưởng ở mức cao nhất trên thế giới.
Tổng tiết kiệm nội địa và tổng đầu tư trong thập kỷ cuối đạt lần lượt hơn 40% và
6
34% GDP. Thành tích trong khu vực đối ngoại cũng rất gây ấn tượng, xuất khẩu tăng
ở mức trung bình hàng năm hơn 15%, dự trữ quốc tế của Trung Quốc năm 1997 đạt
hơn mức nhập khẩu tương đương của 12 tháng. Vốn nước ngoài chủ yếu là đầu tư
trực tiếp nước ngoài, đã tăng 275 lần trong giai đoạn từ năm 1983 đến 1986. Thâm
hụt ngân sách và tỷ lệ lạm phát khá cao trong nửa đầu những năm 90 do sự thịnh
vượng kinh tế, đã dần hạ xuống từ năm 1996. Các yếu tố vĩ mô cơ bản cùng với việc
không quy đổi của đồng tiền đã lý giải tại sao Trung Quốc không bị tác động trực
tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 giống như các nước châu Á
khác.
Từ giai đoạn 2000 đến nay, kinh tế Trung Quốc luôn duy trì mức tăng trưởng
kinh tế trên 8% /năm và đến nay Trung quốc đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn
thứ 4 thế giới.
Năm 2001,Trung Quốc ra nhập WTO.Đây là bước ngoặt đánh dấu sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc ,tạo điều kiện mở cửa hơn nữa của kinh
tế Trung Quốc trong thương mại quốc tế.Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2002(một
năm sau khi ra nhập WTO) đạt 620,79 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm 2001.Kim
ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng trong các năm sau đó và tính đến năm 2006 kim
ngạch xuất nhập khẩu đạt 1700 tỷ USD vươn lên đứng thứ ba thế giới về xuất nhập
khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,6% mỗi năm.
Cùng với Trung Quốc, các nước ASEAN cũng bắt đầu thực hiện việc nới lỏng
chính sách và các biện pháp tự do hoá trong những năm 1990. ASEAN là tổ chức
đầu tiên tại Đông Á thực hiện các FTA khu vực.
Với 10 quốc gia ở Đông Nam Á, ASEAN hiện nay có quy mô dân số gần 500
triệu người, tổng diện tích lãnh thổ 4,5 triệu km
2
, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt
khoảng 737 tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại đạt 720 tỷ USD, ASEAN đã trở
7
thành một đối tác quan trọng của nhiều quốc gia và là khu vực phát triển kinh tế năng
động trong nền kinh tế thế giới.
Sự quyết tâm của ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể. Mức thuế quan
trung bình giữa các nước ASEAN được giảm từ 111.4% năm 1993 xuống còn 3.2%
năm 1998. Đến nay, việc giảm thuế quan theo Chương trình Thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung cho Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN(CEPT/AFTA) về cơ bản đã
hoàn thành.
1.2. Nhân tố cản trở
1.2.1. Loại hình tổ chức của ACFTA
Loại hình tổ chức của ACFTA hiện nay vẫn đang gây ra nhiều tranh cãi bởi lẽ
nếu xây dựng Khu vực mậu dịch tự do kiểu mở cửa thì ưu đãi mà các nước thành
viên được hưởng sẽ tương đối ít. Nếu xây dựng Khu vực mậu dịch tự do kiểu khép
kín, cơ chế hóa, chỉ mở cửa và áp dụng chế độ thuế ưu đãi đối với các nước thành
viên thì sẽ có lợi cho phát triển kinh tế của các nước thành viên, khiến các nước này
có được những lợi ích lớn nhất. Tuy nhiên, hiện nay trình độ phát triển của các nước
trong khu vực còn khác nhau, điều này sẽ tạo nên trở lực từ những chế độ xã hội
khác nhau và trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau, thậm chí có thể hình thành
hàng rào mậu dịch mới, đi ngược lại với xu thế phát triển nhất thể hóa kinh tế toàn
cầu.
1.2.2. Tình trạng phân hóa hai cực
Một số nước lạc hậu trong ASEAN lo ngại rằng tham gia khu mậu dịch tự do
không những không nâng cao sức cạnh tranh của mình mà ngược lại còn bị lạc hậu
hơn về kinh tế, sự phân hóa giữa hai cực càng nghiêm trọng, bởi lẽ:
Thứ nhất, những nước này cho rằng sức sản xuất trong nước không cao, một khi
mở cửa thị trường có thể sẽ bị tràn ngập bởi khối lượng lớn hàng xuất khẩu của các
8
nước có trình độ phát triển cao hơn, dẫn đến việc trở thành "thuộc địa kinh tế" của
các nước này. Do vậy, để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, một số nước ASEAN sẽ
gặp phải trở lực khá lớn trong việc giảm mức thuế và tiến trình thúc đẩy nhất thể
hóa kinh tế khu vực.
Thứ hai, cùng với việc ký kết một FTA với Trung Quốc, các nước ASEAN cũng
không ngừng tìm kiếm các FTA song phương khác như FTA ASEAN – Nhật Bản,
FTA ASEAN – Ấn Độ, FTA Mỹ – Singapore, FTA Singpore – New Zealand, FTA
Thái Lan – Ấn Độ, FTA Thái Lan – UAE, … và nếu các nước trong khối vẫn tiếp tục
chạy đua ở cuộc chơi FTA như vậy thì tiến trình thực hiện AFTA có thể bị đe doạ.
Vì khi đạt được FTA, các nước sẽ lo tới quyền lợi của mình với các nước ngoài khối,
còn việc thực hiện lộ trình giảm thuế chung trong ASEAN sẽ bị xếp xuống hàng thứ
yếu, làm cho hố sâu về hoà nhập tự do thương mại giữa các nước ASEAN ngày càng
lớn dần. Nếu ASEAN có khoảng 5 FTA như vậy thì sẽ dẫn tới sự ra đời các “tiểu
vùng kinh tế” trong khu vực và tình trạng cạnh tranh cục bộ là chắc chắn. Khi đó,
AFTA sẽ chỉ là cái “vỏ bọc” của những FTA riêng biệt.
1.2.3. Cạnh tranh
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là khu vực tự do lớn nhất, có
tiềm năng tạo ra những nguồn lợi rất lớn, song nó cũng tạo ra môi trường cạnh
tranh rất gay gắt. Mặc dù các nước thành viên ASEAN được hưởng lợi từ thặng dư
mậu dịch và những lợi thế về chính trị, song nhiều nước trong khối này vẫn cho
rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ tạo ra sức hút lớn đối với đầu tư nước ngoài mà
trước đây đổ nhiều vào khu vực ASEAN, dẫu rằng khi nền kinh tế Trung Quốc
được tăng cường thì các nhà đầu tư Trung Quốc cũng sẽ đầu tư vào các nước
ASEAN nhiều hơn và tự do hơn.
9
Cạnh tranh kinh tế giữa ASEAN với Trung Quốc chủ yếu thể hiện trên ba mặt
là: cạnh tranh về mậu dịch, cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và
cạnh tranh tại thị trường thứ ba.
1.2.4. Yếu tố chính trị
1.2.4.1. Vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông
Biển Đông (phía Trung Quốc gọi là Nam Hải, người phương Tây gọi là biển
Nam Trung Hoa) là vấn đề còn tồn tại và gây căng thẳng giữa một số nước Đông
Nam Á với Trung Quốc. Trong vấn đề biển Đông, Trường Sa là điểm tranh chấp gay
gắt nhất trong việc công nhận phạm vi chủ quyền và lợi ích biển của các nước có liên
quan. Biển Đông chiếm 25% vận tải biển của thế giới, trữ lượng dầu mỏ ước tính
khoảng 23.5 tỷ tấn và lượng khí đốt thiên nhiên khoảng 8269 tỷ m
3
. Cho nên có thể
nói, sự phức tạp của vấn đề Biển Đông mang tính tổng hợp, nó không chỉ bao gồm
yếu tố lịch sử, lợi ích chiến lược, chạy đua khai thác các nguồn tài nguyên thềm lục
địa như dầu lửa, khí tự nhiên mà còn gọi là “tâm địa chấn” của mọi hoạt động trên
biển giữa các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
1.2.4.2. Vấn đề về quyền chủ đạo trong ACFTA
Sự thành công của bất cứ một hiệp định thương mại khu vực nào thường có xu
hướng là nhờ vào một nền kinh tế vững mạnh hoặc phát triển. Tuy nhiên, không thể
cho rằng xu hướng này sẽ bất biến về lâu dài. Một khi Trung Quốc trở nên ổn định
hơn với các cuộc cải cách của mình với tư cách là thành viên của WTO, quốc gia này
có thể sẽ tích cực tìm cách gây ảnh hưởng đến quá trình tự do hoá thương mại trong
khu vực. Trong số các nước ASEAN, không một nước nào có thực lực kinh tế bằng
Trung Quốc, nhưng nếu coi ASEAN là một khối thì lại có thể so sánh được với
Trung Quốc. Việc ai sẽ đóng vai trò chủ đạo ACFTA trong tương lai là một vấn đề
khá hóc búa.
10
2. Thực trạng hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung
Quốc ( ACFTA)
2.1. Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc
(ACFTA)
Đầu những năm 90 là giai đoạn hợp tác khu vực còn bị coi nhẹ nhưng trong nửa
cuối thập kỷ đó, các nước đã chứng kiến những động thái thể chế hoá các dàn xếp
mậu dịch tự do thông qua các khu vực mậu dịch tự do song phương và thông qua các
sáng kiến khác. Nếu như những năm đầu thập kỷ 90 là giai đoạn Mỹ tăng cường can
dự vào khu vực này, thì nửa cuối thập kỷ chứng kiến việc tăng cường mở rộng hợp
tác khu vực thông qua nhóm ASEAN + 3 (10 nước ASEAN và Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc).
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đã làm các nước trong khu vực nhận
thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hợp tác kinh tế trong khu vực. Sự hợp tác về
tiền tệ Châu Á và việc tổ chức các cuộc gặp 10 + 3 đã cho thấy, hợp tác kinh tế trong
khu vực này đã trở thành một vấn đề rất quan trọng. Theo chương trình này, nhiều kế
hoạch hợp tác kinh tế đã được đưa ra, như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Ấn Độ, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
– Hàn Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do
giữa Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do Đông Á, … Vấn
dề quan trọng nhất là việc các cường quốc kinh tế đã bắt đầu chú trọng đến phát triển
hợp tác kinh tế khu vực. Nhật Bản, nước luôn theo hướng hợp tác thương mại đa
phương, nay đã bắt đầu đàm phán với Hàn Quốc, Singapore và Mehico về các hiệp
định thương mại song phương. Từ năm 1999, Trung Quốc cũng đã thay đổi thái độ
trước đây của mình về hợp tác kinh tế khu vực. Thực tế là Trung Quốc đã gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới, tạo điều kiện để đưa hợp tác kinh tế khu vực lên mức
cao hơn trên cơ sở thương mại tự do theo quy định của WTO.
11
Mọi đề nghị về hợp tác kinh tế khu vực ở Đông Á đều có thể trở thành hiện thực,
nhưng đồng thời những đề xuất này cũng vấp phải những trở ngại nhất định. Xét về
mặt khả thi của các mối liên kết kinh tế khu vực, có khả năng nhất trong giai đoạn
hiện nay là quan hệ hợp tác giữa 10 nước ASEAN và Trung Quốc. Sự thành công
của mối hợp tác kinh tế 10 + 1 này có thể sẽ được phổ biến ra các nước khác trong
khu vực Đông Á và làm đối trọng với khối Liên hiệp Châu Âu (EU) đã được mở
rộng và Khu vực mậu dịch tự do Châu Mỹ (FTAA).
Ý tưởng về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa Trung Quốc và
ASEAN xuất phát từ đề xuất của Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ tại Hội
nghị thượng đỉnh không chính thức ASEAN lần thứ 4 tổ chức vào tháng 11/ 2000.
Trong năm này, Trung Quốc còn thoả thuận sẽ tăng cường hợp tác và đưa ra những
hạng mục hợp tác cụ thể như khai thác sông Mekong, xây dựng tuyến đường sắt
xuyên Á…
Đến năm 2001, những thoả thuận này giữa Trung Quốc và ASEAN đã có
những bước tiến mới. Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của ASEAN thiết lập khu vực
không có vũ khí hạt nhân, xem xét ký kết Hiệp định hợp tác hữu nghị Đông Nam Á,
cam kết đầu tư 5 triệu USD để nạo vét sông Mekong và tài trợ 1/3 chi phí xây dựng
tuyến đường cao tốc Bankok - Côn Minh. Đặc biệt, tại Hội nghị giữa những nhà
lãnh đạo ASEAN - Trung Quốc tổ chức vào ngày 6 /11/ 2001 tại Banda Seri
Begawan (Brunei), các nhà lãnh đạo Trung Quốc và 10 nước ASEAN đã đi đến nhất
trí về việc thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong
vòng 10 năm, đồng thời chính thức uỷ quyền cho các bộ trưởng và quan chức của hai
bên đàm phán về vấn đề này.
Từ sau khi đạt được thỏa thuận thành lập ACFTA, hai bên đã nỗ lực xúc tiến
các công tác thúc đẩy tiến trình ra đời của ACFTA. Các tổ chức như Uỷ ban đàm
phán thương mại ASEAN - Trung Quốc (TNC - Trade Negotiation Committee) và
12