Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Luận văn: Nghiên cứu tiềm năng thực hiện chủ trương xã hội hóa thể dục thể thao trong các trường THPT Thành phố Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.79 KB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI


Nghiên cứu tiềm năng thực hiện chủ trương xã hội hoá TDTT
trong các trường THPT Thành phố Tuyên Quang
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VẬT LÍ
1
HÀ NỘI - 2014
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Mục đích của thể dục, thể thao (TDTT) là tăng cường thể chất cho nhân dân,
nâng cao trình độ thể thao, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa và giáo dục
con người phát triển toàn diện để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc [19].
Trong những năm gần đây, sự nghiệp TDTT nước ta đã có nhiều tiến bộ.
TDTT quần chúng tiếp tục phát triển với nhiều hình thức đa dạng, góp phần nâng
cao sức khoẻ, xây dựng lối sống lành mạnh, cải thiện đời sống văn hoá, tinh thần
của nhân dân. TDTT lớn mạnh không ngừng, một mặt do có sự đầu tư lớn hơn của
Nhà nước, mặt khác xã hội hoá TDTT đã và đang từng bước hình thành và phát
triển, đem lại những kết quả quan trọng, đó là huy động được sức mạnh của toàn
xã hội chăm lo công tác TDTT, góp phần làm cho TDTT ngày càng có tính quần
chúng rộng rãi, trình độ được nâng cao. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng
nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về tầm quan trọng của công tác TDTT trường học
- một bộ phận cơ bản của nền TDTT nước ta. Quan tâm lãnh đạo công tác TDTT
trường học có ý nghĩa chiến lược to lớn, nhằm thúc đẩy GDTC, nâng cao sức
khoẻ, thể lực, đời sống văn hoá tinh thần của học sinh để chủ động chuẩn bị nguồn
nhân lực, đồng thời góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, phát triển tài năng
thể thao cho đất nước.
Hiện nay, nước ta có trên 17 triệu học sinh phổ thông, đây là nguồn nhân
lực quan trọng tham gia vào quá trình phát triển đất nước trong tương lai, do vậy


làm tốt công tác TDTT trường học sẽ góp phần tích cực chuẩn bị cho thế hệ trẻ về
sức khoẻ, thể lực và các phẩm chất đạo đức, tâm lí để họ có cuộc sống lành mạnh
2
đáp ứng được các yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thành phố Tuyên Quang là một trong những địa phương phát triển kinh tế,
xã hội, giáo dục, y tế, TDTT còn chậm so với cả nước. Bên cạnh đó công tác giáo
dục đã quan tâm nhưng chưa được triệt để và chưa có chiều sâu. Hiện nay, toàn
thành phố có 06 trường Trung học phổ thông (THPT) với tổng số 5.415 học sinh;
với 379 cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên, trong đó có 28 giáo viên chuyên
trách TDTT - đó chính là tiềm năng con người to lớn để thực hiện mục tiêu nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện cho giáo dục phổ thông nói chung và các trường
THPT nói riêng.
Trong những năm qua, công tác GDTC và thể thao trường học của nước ta
nói chung và của thành phố Tuyên Quang nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu
quan trong, tuy nhiên, so với mục tiêu, yêu cầu thì công tác chăm sóc sức khỏe trẻ
em nói chung và công tác TDTT trường học nói riêng đang đứng trước những
thách thức to lớn như: tầm vóc và thể lực của trẻ em nước ta còn thua kém trẻ em
nhiều nước trong khu vực; chất lượng đội ngũ giáo viên, các điều kiện đảm bảo
cho dạy học GDTC, phong trào TDTT trường học còn nhiều hạn chế
Để khắc phục những tồn tại trên nhiều chủ trương, biện pháp đã được đề ra,
trong đó có chủ chương xã hội hoá TDTT nói chung và xã hội hoá TDTT trong
trường học nói riêng là một trong những biện pháp được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm như tinh thần của Chỉ thị 36 CT/TW, ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và được cụ thể
hóa và khẳng định trong Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2020:
“Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế-
xã hội của Đảng và Nhà nước … Phát triển mạnh TDTT là trách nhiệm của các
cấp uỷ Đảng, Chính quyền, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội, là nhiệm vụ
của toàn xã hội, trong đó ngành thể thao giữ vai trò nòng cốt. Thực hiện xã hội
hoá TDTT dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước ”. Chiến lược phát triển

TDTT cũng nêu rõ: Đối tượng chiến lược của Thể thao Việt Nam là thanh, thiếu
3
niên; địa bàn chiến lược của Thể thao Việt Nam là trường học; phương thức điều
hành là xã hội hoá và chuyên nghiệp hoá [15, 17,18].
Như vậy, có thể khẳng định xã hội hoá TDTT nói chung và xã hội hoá
TDTT trong trường học nói riêng là một chủ trương lớn, một chính sách đúng đắn
phù hợp với quy luật phát triển xã hội nước ta trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Tuy nhiên công tác xã hội hoá TDTT trường học trong cả nước nói
chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng còn có nhiều hạn chế. Đó là do cơ chế quản
lý và tổ chức hoạt động TDTT trường học hoàn toàn do các cơ sở giáo dục triển
khai thực hiện, các lực lượng xã hội chưa có sự phối hợp trong quá trình thực hiện
chủ trương xã hội hoá; khả năng huy động tài chính đầu tư trực tiếp cho hoạt động
TDTT còn quá hạn hẹp kể cả nguồn đầu tư của Nhà nước và các nguồn đầu tư
khác. Hơn nữa, nhận thức của phụ huynh và học sinh về GDTC và thể thao trường
học còn rất hạn chế; nhà trường và giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm chưa coi
trọng công tác GDTC, chưa coi TDTT là một phương tiện giáo dục hữu hiệu ngoài
giờ học đối với thanh thiếu niên học sinh; chưa phối hợp giữa gia đình và nhà
trường về công tác GDTC, hoạt động TDTT và đánh giá tình trạng thể chất của
học sinh.
Trong thực tiễn đã có một số đề tài nghiên cứu theo hướng triển khai xã
hội hoá, tiêu biểu như “Nghiên cứu xây dựng câu lạc bộ TDTT sinh viên Đại học
Huế”, (2001 - Nguyễn Gắng); “Nghiên cứu các giải pháp xã hội hóa nhằm khai
thác tiềm năng để phát triển TDTT quần chúng ở thành phố Đà Nẵng”, (2006 -
Đặng Quốc Nam); “Nghiên cứu về người tập TDTT ở thành phố Nam Định”,
(2009 - Bùi Vũ Tâm); … Tuy nhiên, có thể thấy việc nghiên cứu, tổng kết đánh
giá kết quả thực hiện xã hội hóa chưa được quan tâm thường xuyên, chưa xác định
đầy đủ các yếu tố tiềm năng để thực hiện chủ trương xã hội hoá TDTT, cũng như
chưa có các biện pháp phù hợp, khả thi để đưa chủ trương xã hội hóa vào thực tiễn
sinh động, đặc biệt là xã hội hóa TDTT trong trường học. Do đó xã hội hóa TDTT
chưa thực sự trở thành động lực mang lại chất lượng và hiệu quả GDTC cho học

4
sinh trong các trường THPT của nước ta nói chung và ở thành phố Tuyên Quang
nói riêng.
Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu tiềm năng thực hiện chủ trương xã hội hoá
TDTT trong các trường THPT Thành phố Tuyên Quang” được tiến hành với
mục đích đánh giá một cách tương đối toàn diện, khách quan thực trạng công tác
xã hội hoá TDTT và tiềm năng để thực hiện xã hội hoá TDTT, đồng thời lựa chọn
các biện pháp thích hợp, có tính khả thi để đưa chủ trương xã hội hoá thành động
lực thúc đẩy sự phát triển bền vững, có hiệu quả của công tác GDTC trong các nhà
trường THPT Thành phố.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Đánh giá đúng thực trạng và tiềm năng xã hội hóa TDTT trong các trường
THPT Thành phố Tuyên Quang giai đoạn hiện nay là cơ sở khoa học thực tiễn để
đề xuất các giải pháp phát huy tốt nhất những tiềm năng hiện có nhằm biến chủ
trương xã hội hoá TDTT trong các nhà trường THPT thành hiện thực, qua đó góp
phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả công tác GDTC
trong các trường THPT Thành phố Tuyên Quang.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Nghiên cứu thực trạng công tác GDTC và xã hội hóa TDTT trong các
nhà trường THPT thành phố Tuyên Quang.
Giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu này, luận văn tiến hành các nội dung
nghiên cứu sau:
- Thực trạng cơ cấu tổ chức trường lớp, đội ngũ giáo viên, học sinh trong
các trường THPT của Thành phố Tuyên Quang;
- Thực trạng công tác TDTT trong các nhà trường THPT của Thành phố
Tuyên Quang;
5
- Lựa chọn các tiêu chí và các chỉ tiêu đánh giá công tác xã hội hóa TDTT
trong nhà trường THPT;
- Thực trạng công tác xã hội hóa TDTT trong các trường THPT của Thành

phố Tuyên Quang.
3.2. Xác định tiềm năng và đề xuất biện pháp thực hiện chủ trương xã hội
hoá TDTT trong các nhà trường THPT thành phố Tuyên Quang.
Giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu này, luận văn tiến hành các nội dung
nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu xác định tiềm năng thực hiện xã hội hoá TDTT trong các
trường THPT Thành phố Tuyên Quang;
- Nghiên cứu đề xuất giải pháp ứng dụng các tiềm năng trong tiến trình
thực hiện chủ trương xã hội hoá TDTT trong các nhà trường THPT thành phố
Tuyên Quang.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiềm năng xã hội hóa TDTT trong các nhà trường THPT ở Thành phố
Tuyên Quang.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo
viên TDTT, giáo viên chủ nhiệm và học sinh trong các trường THPT của Thành
phố Tuyên Quang.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác xã hội hóa TDTT trong các
trường THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Thực trạng về trường lớp, đội ngũ giáo viên, học sinh trong các trường
6
trung học phổ thông Thành phố Tuyên Quang.
- Xác định các yếu tố tiềm năng để thực hiện chủ trương xã hội hoá TDTT
trong các trường trung học phổ thông Thành phố Tuyên Quang.
- Khả năng biến tiềm năng thành động lực thực hiện chủ trương xã hội hoá
TDTT trong các trường trung học phổ thông Thành phố Tuyên Quang.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng một số phương pháp sau:

6.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu được sử dụng để tham khảo các
Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, của Nhà nước, của Bộ GD&ĐT và của Ngành
TDTT về định hướng phát triển công tác GDTC; các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
và Nhà nước về công tác xã hội hoá TDTT Đây là phương pháp được sử dụng
trong suốt quá trình nghiên cứu, để tổng hợp tri thức của những tài liệu liên quan,
giúp hình thành nên dự báo khoa học, mục đích nghiên cứu, hướng và phương
pháp giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu.
6.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Đề tài sử dụng phiếu hỏi để phỏng vấn các đối tượng là các nhà khoa học,
các chuyên gia, các nhà quản lý thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội, các giáo viên
và học sinh trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang nhằm lựa chọn các chỉ tiêu đáng giá
công tác xã hội hóa TDTT; khảo sát thực trạng các yếu tố tiềm năng và kiểm định
đánh giá hiệu quả của các biện pháp nghiên cứu được đề tài đề xuất.
6.3. Phương pháp điều tra xã hội học
Thu thập những thông tin về số trường, lớp, đội ngũ giáo viên, học sinh và
cơ sở vật chất, các điều kiện đảm bảo cho dạy học và tổ chức thể thao ngoại
khoá… nhằm đánh giá thực trạng và xác định tiềm năng thực hiện xã hội hoá
TDTT trong các nhà trường THPT thành phố Tuyên Quang.
6.4. Phương pháp quan sát sư phạm
7
Phương pháp quan sát sư phạm được sử dụng trong quá trình nghiên cứu
nhằm thu thập thông tin về các mặt hành vi, thái độ học tập của học sinh trong các
giờ học nội khoá và hoạt động ngoại khoá TDTT. Quan sát quá trình dạy học, giáo
dục của giáo viên TDTT. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp và các tổ chức đoàn
thể trong nhà trường, việc khai thác và phát huy sự chăm lo của gia đình đối với
GDTC trường học. Công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức và hiểu biết
về TDTT.
6.5. Phương pháp toán học thống kê
Các kết quả nghiên cứu thu được qua phỏng vấn và quan sát kiểm tra sư

phạm đã được tính bằng phương pháp toán học thống kê sau:
6.5.1. Số trung bình:
1
n
i
Xi
X
n
=
=


Trong đó:
X
là số trung bình cộng.

i
X
là kết quả đo của từng cá thể

n
là tổng số người tham gia.
∑ là ký hiệu tổng
6.5.2. Công thức so sánh hai số trung bình.

2 2
( 30)
A B
tinh
c c

A B
X X
t n
n n
σ σ

= <
+
Trong đó:
X
: Là số trung bình.

2
c
σ
: Là phương sai chung
8
t : chỉ số so sánh hai số trung bình
6.5.3.
n
s
x
t
d
d
tính
=
( dùng trong tự đối chiếu)
Trong đó:
d

x
là số trung bình gia tăng

d
δ
là độ lệch chuẩn gia tăng
n là số cá thể được khảo sát
6.5.4. Tính hệ số tương quan r:
3,2,1
)()(
))((
22
=
−−
−−
=
∑ ∑

i
yyxx
yyxx
r
il
ii
(n < 30)
Trong đó: x là chỉ số đo của từng cá thể nhóm A
y là chỉ số đo của từng cá thể nhóm B

X
,  là giá trị trung bình của hai nhóm tương ứng

6.5.5. Hệ số tương quan thứ bậc.
)1(
6
1
2
2

−=

nn
d
r
Trong đó. d là hiệu số thứ bậc ở hai biến lượng của từng cá thể.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Về mặt khoa học: Kết quả nghiên cứu đánh giá được thực trạng công tác
GDTC và thực trạng xã hội hóa TDTT trong các trường THPT thành phố Tuyên
Quang. Xác định được đầy đủ các yếu tố tiềm năng trong việc thực hiện chủ
trương xã hội hoá TDTT trong các trường THPT tại thành phố Tuyên Quang.
Bước đầu lựa chọn được các biện pháp khai thác tối ưu tiềm năng tự nhiên
9
và xã hội trong việc phát triển phong trào TDTT cho các trường THPT thành phố
Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay.
Về mặt xã hội: Huy động tổng sức mạnh toàn dân, làm cho công tác GDTC
không chỉ được thực hiện ở một ngành, một đoàn thể hay một tổ chức xã hội nào
đó, mà phải được tiến hành ở tất cả các ngành, các giới, các lực lượng xã hội, cũng
như mỗi người dân đều nhận thấy đó là nhiệm vụ của chính mình, nên đều tự
nguyện và tích cực phối hợp hành động thực hiện.
8. Kế hoạch nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu
Đề tài được tiến hành từ tháng 6/2013 đến tháng 10/2014 theo 3 giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1: Từ tháng 6/2013 đến tháng 9/2013

Xác định hướng nghiên cứu, xây dựng đề cương và bảo vệ đề cương trước
Hội đồng khoa học Khoa GDTC, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
* Giai đoạn 2: Từ tháng 10/2013 đến tháng 6/2014
- Tiến hành phỏng vấn các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý,
các giáo viên để lựa chọn các tiêu chí, các chỉ tiêu về công tác GDTC và công tác
xã hội hóa TDTT trong các trường THPT.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt động GDTC và công tác xã hội hóa
TDTT trong các trường THPT Thành phố Tuyên Quang.
- Nghiên cứu lựa chọn và đánh giá thực trạng các yếu tố tạo thành tiềm năng
thực hiện xã hội hoá TDTT trong các trường THPT Thành phố Tuyên Quang.
- Lựa chọn, xây dựng và đề xuất giải pháp ứng dụng các tiềm năng trong
tiến trình thực hiện chủ trương xã hội hoá TDTT trong các nhà trường THPT
Thành phố Tuyên Quang.
* Giai đoạn 3: Từ tháng 7 năm 2014 đến tháng 10 năm 2014
- Tiến hành phân tích kết quả nghiên cứu.
- Viết hoàn chỉnh luận văn, công bố kết quả nghiên cứu trên báo chí, chuẩn
10
bị bảo vệ luận văn trước Hội đồng khoa học.
9. Địa điểm nghiên cứu
- Các trường THPT Thành phố Tuyên Quang.
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
11
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí của GDTC trường học trong giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ
1.1.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng về công tác
giáo dục thế hệ trẻ
Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trước hết, phải nói đến tư
tưởng giải phóng con người thoát khỏi tăm tối, lạc hậu, đưa dân tộc ta trở thành
một dân tộc văn minh, tiến bộ. Đây vừa là mục tiêu, vừa là khát vọng "tột bậc" của

Người. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, dù ở trong hoàn cảnh nào, Người cũng là
chiến sĩ tiên phong đi vào phong trào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập; giải phóng họ
thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, thoát khỏi sự ràng buộc
của hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho mỗi dân tộc và mỗi người dân đứng
lên làm chủ nền văn hoá, làm chủ vận mệnh và tương lai của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo dục
phải "nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân". Do đó, các cấp uỷ, chính
quyền, các ngành, các giới, các đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải thật sự
quan tâm đến phương châm giáo dục mới như: phát huy cao độ dân chủ trong nhà
trường để tạo nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò,
tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình - xã hội cùng cộng đồng
trách nhiệm để phát triển giáo dục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của các cô giáo, thầy giáo
đối với xã hội. "Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những
người anh hùng vô danh". Muốn được như vậy, các cô giáo, thầy giáo, trước hết,
phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng rèn luyện chuyên môn, phải là tấm
gương trong sáng để học sinh noi theo, phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm,
12
phải thương yêu chăm sóc học sinh như con em ruột thịt của mình, phải thật sự
yêu nghề, yêu trường, phải không ngừng học hỏi để tiến bộ mãi.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là phương pháp giáo
dục con người toàn diện. Muốn xây dựng và hoàn thiện con người theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh chính là giáo dục và tự giáo dục. Đây là phương pháp tốt nhất để
"đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam và làm
phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em". Người nhấn mạnh :
"Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người XHCN" và
"vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
Vì thế, nền giáo dục mới phải thực hiện phương pháp dạy và học mới để đạt được

mục tiêu: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể,
giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại"; "Học để tu dưỡng đạo đức cách
mạng"; "học để tin tưởng" và "Học để hành". Tư tưởng này không chỉ phản ánh
truyền thống quý báu của dân tộc ta mà còn phản ánh yêu cầu vừa cấp bách, vừa
lâu dài của đất nước trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định: “Đối với thế hệ
trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp; tạo việc làm, phát triển
tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN” là việc làm vô cùng cần thiết và quan trọng. Bởi, “tương
lai của dân tộc, tiền đồ của Tổ quốc và sự thắng lợi, sự phát triển của cách mạng
nước ta hoàn toàn phụ thuộc vào việc hiểu thanh niên, tin thanh niên, chăm lo giáo
dục và dìu dắt họ, mạnh dạn trao cho thanh niên những trách nhiệm xứng đáng ”
Trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ IV, Đảng ta đã ra quyết định số 14-NQ/TW
về cải cách giáo dục với tư tưởng: xem giáo dục là bộ phận quan trong của cuộc
cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến
lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
13
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với
yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt
Nam. Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội
toàn quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con
người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ [13;14;18;19;20].
GD&ĐT là một lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã hội, nó liên quan
đến nhiều lĩnh vực khác, cho nên Đảng ta rất chú trọng phát triển giáo dục và đào
tạo. Những năm qua quan điểm của Đảng về đường lối phát triển giáo dục và đào
tạo chủ yếu tập trung ở Nghị quyết Trung ương 2, khoá VIII; Kết luận của Hội
nghị lần 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; Nghị quyết Hội nghị lần thứ
9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX; Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, X. Qua các Văn kiện này thể hiện một số quan điểm chỉ đạo phát triển
GD&ĐT [19] [21], như sau:
- GD&ĐT nhằm xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất để xây dựng và
bảo vệ đất nước. Giữ vững mục tiêu XHCN trong GD&ĐT, nhất là chính sách
công bằng xã hội.
- Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, cùng với khoa học và công
nghệ là yếu tố quyết định góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
- GD&ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; mọi người, mọi cấp chăm
lo cho GD&ĐT. GD&ĐT phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với khoa
học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh.
- Giữ vững nòng cốt của các trường công lập song song với đa dạng hoá các
loại hình GD&ĐT.
- Chăm lo GD&ĐT là chăm lo cho con người và xã hội phát triển với các
yêu cầu và tiêu chí được xác lập. Phát triển GD&ĐT phải theo nguyên lý: học đi
đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
14
1.1.2. Vị trí của trường học trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước
Việc phát triển TDTT trong trường phổ thông nhằm thực hiện các mục tiêu:
dân trí, nhân lực và nhân tài, thì vấn đề phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
nhân tài trở thành một vấn đề cấp thiết của mọi quốc gia, dân tộc nói chung và của
Việt Nam nói riêng.
Theo UNESCO: “Không có sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách rời khỏi
sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó. Và những quốc
gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo
dục một cách có hiệu quả thì số phận của quốc gia đó xem như đã an bài và điều
đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản”. Chính vì thế mà cho đến nay, khi tìm hiểu
nguyên nhân của những thành tựu to lớn về phát triển khoa học - công nghệ, về
kinh tế - xã hội, người ta thường bắt đầu từ giáo dục, nhất là giáo dục phổ thông.

Như vậy với một nền giáo dục yếu kém, chắc chắn kinh tế sẽ mất sức cạnh tranh.
Qua thực tế chúng ta có thể nhận định được rằng: vấn đề trung tâm hiện nay
là nâng cao chất lượng và trình độ năng lực. Dĩ nhiên muốn thực hiện điều này
không có cách nào khác là nâng cấp, hiện đại hoá giáo dục để đáp ứng yêu cầu
phát triển trong giai đoạn kinh tế tri thức.
Trong bối cảnh đó, phương châm giáo dục không còn là cung cấp cho
người học bảo bối, nhồi nhét càng nhiều kiến thức càng tốt, mà là giúp họ rèn
luyện khả năng tư duy, rèn luyện kỹ năng, nhân cách và đặc biệt là phải có thể lực
tốt, có sức khỏe dồi dào, để có thể thích ứng nhanh chóng với sự biến đổi như vũ
bão về mọi mặt của xã hội hiện đại. Vì thế, hơn bao giờ hết vai trò của công tác
GDTC trong nhà trường là vô cùng quan trọng trong việc nâng cao tầm vóc và sức
khoẻ người Việt. Đây chính là cơ hội, là nhu cầu đẩy mạnh hơn nữa công tác xã
hội hoá TDTT, trong đó thể thao nhà trường phải là trọng tâm của đầu tư nhằm tạo
động lực cho sự phát triển chung của công tác TDTT nước ta.
Vì vậy, vấn đề phát triển học sinh năng khiếu, tài năng và thể lực tốt sẽ
thực sự góp phần phát triển nguồn lực quý giá cho đất nước.
15
Nói theo cách khác, việc phát triển song song giữa thể lực và trí lực là vô
cùng quan trọng, thể lực tốt giúp cho tài năng của con người phát triển nở rộ hơn,
cống hiến cho tổ quốc nhiều hơn. Đã đến lúc chúng ta phải bắt tay ngay vào việc
thực hiện và thực hiện có hiệu quả công tác GDTC hay xã hội hoá TDTT trong
nhà trường, góp phần đưa đất nước phát triển lên tầm cao mới.
1.1.3. Vị trí của GDTC trường học trong đào tạo và phát triển toàn diện
thế hệ trẻ
Hệ thống GDTC trường học có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đào tạo
và phát triển toàn diện thế hệ trẻ, GDTC trường học là một quá trình hoàn thiện
thể chất liên tục ở mỗi giai đoạn phát triển cơ thể và trên cơ sở đó đảm bảo khi kết
thúc thời gian học phải đạt được mức cần thiết về trình độ chuẩn bị thể lực toàn
diện để tham gia các hình thức hoạt động xã hội quan trọng tiếp đó.
Thực tế cho thấy, TDTT trong trường học góp phần đào tạo, bồi dưỡng thế

hệ tương lai của đất nước, cung cấp nguồn nhân lực có sức khỏe, học vấn và đạo
đức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời cung cấp tài năng thể
thao cho quốc gia. Bên cạnh đó, TDTT trường học có ý nghĩa quan trọng đối với
việc phát hiện, bồi dưỡng nhân tài và nâng cao trình độ thể thao. Sẽ không có thể
thao thành tích cao nếu như thể thao trong trường học không phát triển, bởi thể
thao trường học là cái nôi của thể thao thành tích cao.
Năm học 2013 - 2014 là năm học thực hiện kế hoạch phát triển GD&ĐT đã
có văn bản hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển GD&ĐT giai đoạn 2011-
2015. Một nội dung đáng chú ý với giáo dục phổ thông là đẩy mạnh học 2
buổi/ngày ở THPT. Như vậy, với cùng nội dung nhưng thời lượng tiếp thu tăng
lên sẽ có thêm thời gian cho các em nhận biết bài học, giúp các em không bị quá
tải vì việc học.
Tuy nhiên sẽ là không cần thiết nếu như chỉ nhằm giảm tải khối lượng kiến
thức mà không nâng cao GDTC và kỹ năng sống. Song nâng thế nào cho đủ cũng
16
là một câu hỏi không dễ trả lời.
Thời điểm hiện nay, đại đa số trường THPT học theo chương trình 1
buổi/ngày, khiến các em vừa có ít thời gian để tiếp thu kiến thức, lại quá căng
thẳng vì giờ học kéo dài.
Song theo suy nghĩ của nhiều vị phụ huynh, việc học cả ngày hay nửa ngày
không quan trọng mà các em có được phát triển đầy đủ về thể chất, kỹ năng sống,
hiểu biết xã hội hay không. Việc học cả ngày nếu không có những điều chỉnh, chỉ
đứng trên phương diện giảm tải học văn hóa sẽ kéo theo việc các em không còn
thời gian để phát triển về thể chất.
Với tư duy hiện đại, nhiều vị cha mẹ không còn quan tâm quá nhiều đến
chuyện điểm số bởi đối với họ sức khỏe và sự phát triển về thể chất của con cũng
rất cần được chú ý. Bởi có một cơ thể khỏe mạnh mới giúp các em đủ sức để tiếp
thu kiến thức và tăng sức sáng tạo. Hầu hết các trường THPT ở nước ta hiện nay
đều đã bắt đầu chú tâm đến việc phát triển song song giữa kiến thức và thể chất
cho các em.

Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương quan trọng về công tác TDTT
trường học, được thể hiện trong Luật Giáo dục, Luật TDTT với tinh thần “Nhà
nước coi trọng TDTT trường học nhằm phát triển hoàn thiện thể chất cho tầng lớp
thanh thiếu niên, nhi đồng. GDTC là nội dung giáo dục bắt buộc đối với học sinh,
sinh viên được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại
học” [31].
Thực hiện tốt công tác GDTC cho học sinh các cấp từ mầm non đến đại học
trong hệ thống giáo dục quốc dân (công lập và ngoài công lập) là việc làm có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược con người. Sự cường tráng về thể chất
là nhu cầu của mọi người nói chung và là mục tiêu của mỗi quốc gia cần đạt được
trong quá trình giáo dục cho học sinh, là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật
chất cho xã hội. Vì vậy, chăm lo về thể chất cho học sinh trong nhà trường là trách
17
nhiệm của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các đoàn thể, trong đó Bộ GD&ĐT,
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch và Bộ Y tế là những bộ phận thường trực. Chỉ thị
133 TTg ngày 7/3/1995 của Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho các ngành, các
cấp thực hiện tốt công tác GDTC cho học sinh, trong đó nêu rõ: “Bộ GD&DT cần
đặc biệt coi trọng việc GDTC trong nhà trường. Cải tiến nội dung giảng dạy TDTT
nội khoá, ngoại khoá, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh ở mỗi cấp
học; có quy chế bắt buộc trong các trường, nhất là các trường đại học phải có sân
bãi, phòng tập TDTT; có định biên hợp lý và có kế hoạch tích cực đào tạo đội ngũ
giáo viên TDTT, đáp ứng nhu cầu ở tất cả các cấp học…” [5].
1.1.4. Mục tiêu GDTC ở trường phổ thông các cấp
Mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu GDTC trường học nói riêng có
các cấp độ cụ thể khác nhau của các tiêu chí. Khái quát nhất là mục tiêu đã được
xác định trong Luật Giáo dục. Từ mục tiêu chung đó, chúng ta xác định mục tiêu
GDTC cụ thể cho từng cấp học, bậc học; tiếp đó là sự cụ thể hơn trong các mục
tiêu, tiêu chí môn học, bài học. Cấp độ sau là sự triển khai cụ thể hoá cấp độ trước,
là thành phần cấu trúc, mục tiêu của cấp độ trước. Việc xác định mục tiêu càng cụ
thể, càng chi tiết đến đơn vị cuối cùng để có thể mô tả, đo đếm được thì càng

thuận lợi càng chính xác cho việc xác định các yếu tố như nội dung chương trình,
biên soạn sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, đào tạo và sử dụng đội ngũ
giáo viên, quản lý quá trình giáo dục và đánh giá chất lượng giáo dục.
Như vậy, giữa mục tiêu và các yếu tố cấu thành chất lượng giáo dục nói
chung và chất lượng GDTC nói riêng do mục tiêu đặt ra có mối quan hệ tương hỗ,
trong đó mục tiêu với tư cách như là bản thiết kế, có vai trò quy định các yếu tố
còn lại; các yếu tố còn lại với tư cách như là vật liệu thi công theo thiết kế, vừa
chịu sự chi phối của mục tiêu, vừa có tác động trở lại điều chỉnh, bổ sung, chính
xác hoá mục tiêu. Các tiêu chí chất lượng càng cụ thể, mức độ tường minh của
mục tiêu càng cao và khả năng định hướng, xác định các yếu tố còn lại tạo thành
chất lượng giáo dục càng thuận lợi thì việc đánh giá chất lượng giáo dục chỉ còn là
18
vấn đề kỹ thuật.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục là một yêu cầu đặc biệt quan
trọng nhằm “nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài”, phát triển
nguồn lực con người - động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và
đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Chính vì vậy, Nghị quyết
Hội nghị lần 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII [14], Nghị quyết
Hội nghị lần 2 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII [18] và Kết luận
của Hội nghị lần 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX [19] đều khẳng
định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển,
đồng thời, đề ra các yêu cầu ngày càng cao cho GD&ĐT.
Vấn đề đặt ra là, từ chiến lược phát triển giáo dục cần phải quán triệt thành
những mục tiêu cụ thể tới từng cấp học, môn học, từng nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy và đánh giá chất lượng giáo dục, đặc biệt là chất lượng
của sản phẩm giáo dục. GDTC trong trường học nói chung và các trường THPT
nói riêng ở nước ta là một nội dung bắt buộc, được quy định tại Điều 41, Hiến
pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam [25]. Nâng cao chất lượng GDTC cho học
sinh chính là góp phần đào tạo nguồn nhân lực phát triển toàn diện, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao chất lượng GDTC cho

học sinh Việt Nam nói chung và học sinh THPT thành phố Tuyên Quang nói riêng
phải hướng tới mục tiêu cụ thể sau đây:
Nắm được tri thức cơ bản và thực hiện được ở mức nhất định những kỹ
năng vận động, kỹ chiến thuật và luật thi đấu một số môn thể thao; có tăng tiến về
các tố chất thể lực, đặc biệt sức bền, sức nhanh, sự khéo léo góp phần gìn giữ và
nâng cao sức khoẻ; đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể; góp phần hình thành nếp
sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, tính kỷ luật, thói quen tự giác tập luyện
TDTT và giữ gìn vệ sinh cùng một số phẩm chất đạo đức khác; thể hiện khả năng
của bản thân về TDTT, góp phần tạo nguồn và bồi dưỡng nhân tài; biết vận dụng
những điều đã học vào trong sinh hoạt ở trong và ngoài nhà trường, nhất là trong
19
tự học, tự tập luyện ở một mức độ nhất định [31], [32].
Mục tiêu của GDTC, suy cho cùng, là trang bị cho các em học sinh vốn kỹ
năng, kỹ xảo vận động cơ bản và cần thiết cho cuộc sống; phát triển toàn diện các
tố chất thể lực; giáo dục thói quen rèn luyện thể chất thường xuyên, suốt đời, góp
phần giáo dục đạo đức, nhân cách con người Việt Nam XHCN.
1.2. Đặc điểm cơ bản của hệ thống giáo dục thể chất trong nhà trường THPT
1.2.1. Đặc điểm hệ thống chương trình giáo dục thể chất
GDTC có vai trò rất quan trọng trong việc rèn luyện học sinh về thể lực để
nâng cao và sức khoẻ với mục tiêu “Khỏe để học tập, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”, “Khỏe để chinh phục đỉnh cao tri thức”.
Theo Thông tư liên tịch số 34/2005/TTLT/BGD&ĐT-UBTDTT, ngày 29
tháng 12 năm 2005 của Bộ GD&ĐT và Ủy ban TDTT ban hành Hướng dẫn phối
hợp quản lý và chỉ đạo công tác TDTT trường học giai đoạn 2006 - 2010 [3].
khẳng định:
- TDTT trường học là bộ phận đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao sức
khỏe và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, giáo dục nhân cách cho học
sinh, sinh viên góp phần đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
TDTT trường học là môi trường thuận lợi và giàu tiềm năng để phát hiện và bồi
dưỡng tài năng thể thao cho đất nước.

- Phát triển giáo dục TDTT trường học theo hướng đổi mới và nâng cao
chất lượng giờ học thể dục nội khóa, đa dạng hóa các hình thức hoạt động ngoại
khóa, đồng thời tổ chức chặt chẽ việc kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể đối
với người học.
- Tăng cường sự phối hợp liên ngành Giáo dục và TDTT, đồng thời đẩy
mạnh xã hội hóa và chuyên nghiệp hóa, tranh thủ các nguồn lực từ xã hội để xây
dựng và phát triển TDTT trường học.
- Tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về TDTT trường học, góp phần
20
nâng cao vị thế của thể thao Việt Nam trong khu vực và thế giới.
Trong quá trình cố gắng để không ngừng nâng cao hiệu quả công tác GDTC
cho học sinh các trường THPT ngành GD&ĐT luôn có những việc làm cụ thể để
khắc phục tình trạng thiếu giáo viên. Hiện nay ngoài hai trường Đại học sư phạm
của Ngành (tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh), rất nhiều Khoa (bộ môn)
GDTC của các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm trên cả nước tham gia vào
đào tạo giáo viên thể dục có trình độ cao đẳng, đại học cũng như sinh viên tốt
nghiệp trường Đại học TDTT của ngành TDTT về giảng dạy ở các trường THPT.
Vì vậy, tình trạng thiếu giáo viên Thể dục sẽ sớm được giải quyết. Điều mà toàn
xã hội và ngành GD&ĐT quan tâm chính là chương trình môn học. Sau nhiều năm
nghiên cứu, kiểm nghiệm thực tiễn … năm 2006, Bộ GD&ĐT đã ban hành văn
bản chính thức về “Chương trình môn học Thể dục” cho các trường phổ thông nói
chung và các trường THPT nói riêng [2].
Theo văn bản này, vị trí của môn học được xác định: “Thể dục là môn học
trong giáo dục phổ thông, là hoạt động chủ yếu của công tác GDTC trong giáo dục
toàn diện ở nhà trường, nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức và kỹ năng cơ
bản để rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực, giúp học sinh giải tỏa những căng
thẳng do thiếu vận động tạo nên. Việc dạy và học thể dục trong trường THPT góp
phần giữ gìn sức khỏe, phát triển thể lực, nâng cao chất lượng con người Việt
Nam và chuẩn bị cho người lao động tương lai đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Với mục tiêu của chương trình là: học sinh có sự tăng tiến về sức khỏe, thể
lực, đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi và giới tính. Có những kiến
thức, kỹ năng cơ bản về TDTT và phương pháp tập luyện, các kỹ năng vận động
cần thiết trong cuộc sống. Hình thành thói quen tập luyện TDTT thường xuyên và
nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỷ luật, tinh thần tập thể và các phẩm
chất ý chí. Biết vận dụng những kiến thức kỹ năng đã học vào hoạt động ở nhà
trường và trong đời sống hàng ngày.
21
Quan điểm xây dựng và phát triển chương trình: chương trình môn Thể dục
phải góp phần thực hiện mục tiêu, kế hoạch dạy học chung và những đổi mới về
phương pháp dạy học, đánh giá ở từng cấp học. Lấy việc nâng cao sức khỏe, thể
lực học sinh làm mục tiêu quan trọng nhất, xuyên suốt từ tiểu học đến THPT.
Đảm bảo tính khoa học, sư phạm, liên thông, kết hợp truyền thống văn hóa
dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học GDTC hiện đại. Chương
trình phải có tính khả thi, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi và giới tính, với sức
khỏe, thể lực học sinh, đồng thời định hướng cho việc nâng cao trình độ của đội
ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất cho việc dạy và học.
Đảm bảo tính thống nhất của chương trình, đồng thời mở rộng quyền chủ
động, sáng tạo của địa phương trong quá trình thực hiện chương trình.
Nội dung và kế hoạch dạy học [39]:
Theo chương trình đã được triển khai từ trước đến nay cho thấy các kỹ năng
vận động cơ bản của học sinh đã được trang bị cho học sinh từ lứa tuổi tiểu học,
trong đó các trò chơi vận động chiếm vị trí chủ yếu ở bậc học này.
Các kỹ thuật điền kinh được ưu tiên lựa chọn để phát triển các tố chất vận
động chủ yếu cho học sinh.
Các môn tự chọn được đưa vào chương trình từ lớp 4, nếu học sinh tập
môn tự chọn liên tục cho đến hết lớp 12, chắc chắn sẽ đạt trình độ thành tích thể
thao nhất định, đồng thời qua quá trình đó cũng có thể phát hiện và bồi dưỡng
nhiều tài năng thể thao cho đất nước. Từ lớp 10 có 5 môn thể thao tự chọn là:
bóng chuyền, bóng đá, bóng rổ, bơi và đẩy tạ. Mỗi tuần các em học sinh đều

được học 2 tiết một tuần. Trong sự cố gắng giảm tải cho học sinh phổ thông, quỹ
thời gian dành cho nhiều môn học khác đã giảm xuống, nhưng với môn thể dục,
vẫn được giữ nguyên. Được vận động chính là nhu cầu của học sinh, tuy nhiên,
chỉ với quỹ thời gian trên, thì chưa đủ kích thích để có sự phát triển sức khỏe và
thể lực của học sinh. Chính vì vậy các trường cần tổ chức việc tập luyện ngoại
22
khóa cho các em học sinh.
Chúng ta biết rằng một khi công tác GDTC ở các trường phổ thông nói
chung và các trường THPT nói riêng được triển khai tốt, không chỉ góp phần cung
cấp cho đất nước những công dân có sức khỏe tốt, đáp ứng được nhu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá mà thể thao thành tích cao của Việt Nam
cũng sẽ có bước phát triển mới, do có nguồn cung cấp VĐV với chất lượng và số
lượng cao so với thời gian trước.
1.2.2. Đặc điểm cơ chế tổ chức công tác GDTC trường học
Nhiệm vụ của các nhà trường được quy định cụ thể tại Điều 16, Chương IV
Quy chế GDTC và Y tế trường học do Bộ GD&ĐT ban hành cụ thể như sau:
ngoài các nhiệm vụ quy định trong Điều lệ nhà trường, về công tác GDTC và y tế
trường học, các nhà trường còn có nhiệm vụ [2]:
- Tổ chức dạy và học đủ chương trình môn thể dục và môn sức khoẻ;
- Có kế hoạch triển khai các hoạt động TDTT ngoại khoá và rèn luyện thân
thể, tổ chức cho học sinh, sinh viên tham gia các cuộc thi đấu thể thao, các hoạt
động bảo vệ tăng cường sức khoẻ cho học sinh, sinh viên, hoạt động Hội Chữ thập
đỏ trong nhà trường.
- Nhà trường phải có đủ giáo viên thể dục để thực hiện chương trình giảng
dạy môn thể dục và các hoạt động thể thao.
- Định kỳ tổ chức Hội khoẻ Phù Đổng trong toàn trường, tham gia các cuộc
thi học sinh giỏi TDTT, hội giảng giáo viên thể dục giỏi các cấp.
- Các nhà trường có phòng y tế và cán bộ y tế trường học chuyên trách hoặc
kiêm nhiệm để làm công tác y tế trường học.
- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, cán

bộ làm công tác GDTC và y tế trường học.
23
- Xây dựng chỉ tiêu cụ thể về việc phấn đấu trong học tập, rèn luyện, để
chăm sóc bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, thể lực và thành tích thể thao học sinh sinh
viên của toàn trường.
- Hàng năm có kế hoạch xây dựng, tu sửa, bảo quản và sử dụng các cơ sở
vật chất, phương tiện, trang thiết bị dạy và học TDTT, y tế trường học, trồng cây
bóng mát và phát triển hệ thống vườn sinh vật, sinh vật cảnh, xây dựng trường học
xanh, sạch, đẹp và an toàn;
- Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả, đúng chế độ quy định của Nhà nước, nội
quy của nhà trường về những tài sản, cơ sở vật chất của trường học nói chung và
của GDTC, y tế trường học nói riêng.
1.2.3. Đặc điểm hoạt động sư phạm của giáo viên TDTT
Hoạt động của giáo viên TDTT mang tính sư phạm đa nhân tố và được thực
hiện trong phạm vi một hệ thống sư phạm GDTC nhất định. Hệ thống sư phạm
giáo dục là sự tổng hợp các thành phần cấu trúc và chức năng phụ thuộc vào mục
đích giáo dục. Những thành phần cấu trúc hoạt động của giáo viên TDTT được
phản ánh trong cấu trúc về kiến thức, còn các thành phần chức năng được phản
ánh trong cấu trúc về kỹ năng của giáo viên TDTT đó. Trong đó hiệu quả hoạt
động phụ thuộc vào mức độ phát triển các thành phần chức năng.
Bất kỳ một hoạt động chuyên môn nào cũng đặt ra những yêu cầu nhất định
đối với con người và sự phù hợp với các yêu cầu đó sẽ đảm bảo sự thành công
trong hoạt động chuyên môn đó. Giáo viên TDTT có vai trò quan trọng trong công
tác GDTC, do đó đòi hỏi người giáo viên TDTT phải có tầm nhìn sâu rộng, có
trình độ kiến thức và lý luận thực tiễn thể thao, đồng thời giáo viên TDTT phải là
một nhà tổ chức, nhà tâm lý học.
Giáo viên TDTT cần phải có kiến thức lý luận và kĩ năng thực hành. Trong
cấu trúc kiến thức của giáo viên TDTT bao gồm những kiến thức về chính trị xã hội,
tâm lý sư phạm, y sinh và chuyên môn. Những kiến thức về chính trị xã hội tạo nên
24

những cơ sở lý luận về thế giới quan của người giáo viên TDTT, cơ sở phương pháp
luận đối với các kiến thức nghề nghiệp và chuyên môn. Tư duy sư phạm của giáo
viên TDTT nhất thiết phải là tư duy lôgic biện chứng. Những kiến thức về sư phạm
tâm lý quyết định nên về bản chất trình độ nghiệp vụ của giáo viên TDTT. Để điều
khiển được hành vi đạo đức của học sinh, người giáo viên TDTT phải có nghệ thuật
tìm hiểu thế giới nội tâm của học sinh, phải có kiến thức về tâm lý học nhân cách.
Những kiến thức về y sinh học như giải phẫu, sinh cơ, sinh lý, vệ sinh, kiểm tra y học
và những bệnh TDTT tạo thành đặc điểm cấu trúc kiến thức chuyên môn đặc thù của
giáo viên TDTT. Những kiến thức về lĩnh vực đó cho phép giáo viên TDTT sử dụng
một cách khoa học những bài tập thể chất để tác động lên cơ thể học sinh có tính tới
đặc điểm lứa tuổi, giới tính, trạng thái sức khoẻ và trình độ vận động của học sinh.
Các kiến thức chuyên môn là rất cần thiết với giáo viên TDTT- đó là phương pháp
GDTC và các môn thể thao. Nhưng bản thân những kiến thức không quyết định nên
trình độ sư phạm của người giáo viên TDTT. Điều quan trọng là giáo viên TDTT
phải biết sử dụng thành thạo chúng trong thực tiễn. Kiến thức về nghiệp vụ chuyên
môn tâm lý trẻ em và tương ứng với nó là sử dụng đúng những kiến thức đó trong
chuyên môn là đặc trưng đối với nghệ thuật sư phạm của người giáo viên.
Nghệ thuật sư phạm của người giáo viên được dựa trên sự phát triển các
năng lực sư phạm. “Năng lực sư phạm là sự tổng hợp những thuộc tính cá nhân
những tiêu đề cho hoạt động sư phạm thành công. Năng lực sư phạm không chỉ
bao gồm những kiến thức kỹ năng, kỹ xảo sư phạm mà cả kinh nghiệm sư phạm
của người giáo viên ” Cấu trúc năng lực sư phạm của người giáo viên TDTT bao
gồm các mặt sau [1]:
Năng lực cảm nhận (nhận thức): Bao gồm sự quan sát sư phạm, cho phép
giáo viên TDTT đi sâu vào thế giới nội tâm của học sinh hiểu được những rung
cảm, trạng thái của họ, thấy trước những xu thế thay đổi nhân cách, tìm được
các hướng theo khuynh hướng sự đạm mê cũng như những uy tín của học sinh
đó để sử dụng tối đa những uy tín đó trong quá trình giáo dục. Về mặt sư phạm,
25

×