Tải bản đầy đủ (.doc) (177 trang)

Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.02 KB, 177 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình nghiên cứu
khoa học độc lập của tác giả. Các số
liệu, minh chứng công bố trong luận
án là trung thực, chính xác
.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

ThS. Nguyễn Thanh Bình

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 3
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUẨN BỊ
NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP QUỐC
PHÒNG VIỆT NAM
23
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng Việt Nam 23
1.2. Quan niệm, đặc điểm chi phối và những vấn đề có tính quy luật
chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng Việt Nam
32
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp
quốc phòng ở một số nước trên thế giới và bài học đối với


Việt Nam
46
Chương 2 THỰC TRẠNG CHUẨN BỊ NGUỒN NHÂN LỰC
CHO CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG VIỆT NAM
67
2.1. Thành tựu cơ bản trong chuẩn bị nguồn nhân lực cho công
nghiệp quốc phòng Việt Nam
67
2.2. Những hạn chế trong chuẩn bị nguồn nhân lực cho công
nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện nay
87
2.3. Những vấn đề đặt ra 101
Chương 3
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU CHUẨN BỊ NGUỒN NHÂN LỰC
CHO CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG VIỆT NAM
THỜI GIAN TỚI
109
3.1. Một số quan điểm cơ bản chuẩn bị nguồn nhân lực cho công
nghiệp quốc phòng Việt Nam thời gian tới
109
3.2. Giải pháp chủ yếu chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp
quốc phòng Việt Nam thời gian tới
121
KẾT LUẬN
160
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 164

DANH MỤC CÁC BẢNG
Số
TT
Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1 77
2 Bảng 2.2 77
3 Bảng 2.3 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Số
TT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH
2 Công nghiệp quốc phòng CNQP
3 Khoa học, công nghệ KH,CN
4 Lực lượng sản xuất LLSX
5 Nghị quyết Trung ương NQ/TW
6 Nguồn nhân lực NNL
7 Quan hệ sản xuất QHSX
8 Tư liệu sản xuất TLSX
9 Xã hội chủ nghĩa XHCN
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
“Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện
nay” là một luận án tiến sĩ được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Kinh
tế chính trị.
Đề tài luận án là một vấn đề mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đang thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho
Chính phủ, Bộ Quốc phòng và các lực lượng có liên quan thực hiện việc chuẩn bị
NNL cho CNQP Việt Nam, từng bước đưa CNQP nước ta phát triển trong thế kỷ
XXI, đáp ứng nhu cầu sản xuất quân sự, phục vụ trực tiếp nhiệm vụ xây dựng

Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại”, sẵn sàng phục vụ nhu cầu chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Luận án có kết cấu gồm: Phần mở đầu, 3 chương, 8 tiết, danh mục tài
liệu tham khảo và các phụ lục kèm theo. Nội dung chính của luận án là tập
trung phân tích, luận giải làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, đánh giá thực trạng,
chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần phải
giải quyết trong chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất
các quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để thực hiện có hiệu quả việc chuẩn
bị NNL cho phát triển CNQP Việt Nam thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu của luận án chủ yếu tập trung vào vấn đề chuẩn
bị NNL cho CNQP nòng cốt do Bộ Quốc phòng, Tổng cục CNQP quản lý.
Trong quá trình tiến hành khảo sát thực trạng, nghiên cứu sinh gặp nhiều
khó khăn do yêu cầu của bí mật quân sự, bí mật sản xuất quân sự; tư liệu,
tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu chưa có nhiều trên phương diện
thông tin khoa học. Do vậy, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ không tránh
khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả luận án mong nhận được sự giúp đỡ,
góp ý của Thầy hướng dẫn, các nhà khoa học, các đồng nghiệp để nghiên
cứu sinh hoàn thành mục tiêu đào tạo.
3
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Hiện nay, hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới;
nhưng tình hình tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc,
khó lường, nhất là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Toàn cầu hoá và cách
mạng KH,CN, trong đó có KH,CN nghệ quân sự đang từng bước phát triển
mạnh mẽ. Các nước công nghiệp phát triển đẩy mạnh sản xuất vũ khí trang bị
kỹ thuật hiện đại, cho ra đời nhiều loại vũ khí mới. Chiến tranh sử dụng vũ
khí công nghệ cao ngày càng có tính phổ biến.
Đối với nước ta, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới và yêu
cầu cao hơn. Xây dựng và phát triển CNQP trong điều kiện hội nhập quốc tế

là một trong những nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Với hoàn cảnh nền kinh tế còn nghèo, CNQP quy mô còn khiêm
tốn, công nghệ lạc hậu, chúng ta phải có chiến lược rõ ràng, bước đi cụ thể để
phát triển CNQP phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế.
Ngày nay, mặc dù cuộc cách mạng KH,CN ngày càng phát triển, chi
phối mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống xã hội nhưng vẫn không thay thế được
vai trò của nguồn lực con người; bởi nó là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài
nguyên của mọi tài nguyên. Yếu tố con người giữ vai trò quyết định trong
mọi lĩnh vực và giữ vai trò quyết định nhất trong phát triển CNQP. Nhân lực
trong CNQP trực tiếp quản lý, nghiên cứu, sáng tạo, sử dụng, khai thác, bảo
quản vật chất, trang thiết bị, sản xuất quốc phòng, làm kinh tế, xây dựng
ngành CNQP nước ta phát triển, thành một bộ phận quan trọng của tiềm lực
quốc phòng, an ninh quốc gia; đồng thời là một bộ phận quan trọng của công
nghiệp Việt Nam, đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng
lực lượng vũ trang hùng mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Thực tiễn nước
ta thời gian qua cho thấy, thách thức lớn nhất để phát triển CNQP chính là từ
4
con người. Nhiều chủ trương phát triển CNQP chưa được triển khai đồng bộ,
hiệu quả; nhiều dự án đầu tư chưa đạt được mục tiêu ban đầu đặt ra đều có
nguyên nhân từ năng lực, trình độ tổ chức, tiếp nhận chuyển giao công nghệ
của nhân lực CNQP.
Để có NNL dồi dào, chất lượng tốt đáp ứng kịp thời sự phát triển
của CNQP trong thời kỳ chúng ta chủ động hội nhập quốc tế, thì công
tác chuẩn bị NNL là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát
triển CNQP.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Quân đội đã ban hành nhiều
chủ trương, chính sách, thực hiện nhiều biện pháp để xây dựng NNL cho yêu
cầu phát triển CNQP. Tuy nhiên, công tác này còn nhiều hạn chế do nhận
thức, cơ chế, tổ chức thực hiện còn nhiều vướng mắc, nhất là trong bối cảnh

phát triển kinh tế thị trường định XHCN và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, những vấn đề có tính quy luật
giải quyết vấn đề: Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng Việt
Nam hiện nay” có tính cấp thiết và có ý nghĩa thiết thực.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất một số quan điểm cơ
bản và giải pháp chủ yếu nhằm chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng chuẩn bị NNL cho CNQP ở nước ta thời gian qua (cả
trên phương diện văn bản pháp quy và tổ chức thực hiện); chỉ rõ nguyên nhân,
những vấn đề đặt ra cần giải quyết để chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt nhiệm
vụ chuẩn bị NNL cho CNQP nước ta trong thời gian tới.
5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: Chuẩn bị NNL cho CNQP nòng
cốt Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu vấn đề chuẩn bị
NNL cho CNQP (chủ yếu là CNQP nòng cốt do Bộ Quốc phòng, Tổng cục
CNQP quản lý) ở nước ta dưới góc độ kinh tế chính trị; các số liệu cơ bản được
tổng hợp từ CNQP nòng cốt, thời gian từ năm 2006 - 2014. Đề xuất các giải pháp
chuẩn bị NNL cho CNQP từ nay cho năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng về vai trò của nhân tố con người trong quá
trình sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; về mối quan hệ
kinh tế với quốc phòng, kinh tế với chiến tranh.Kế thừa và phát triển kết quả

nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến nội dung mà luận án
nghiên cứu.
- Dựa vào các báo cáo tổng kết về giáo dục - đào tạo, phát triển nhân
lực của CNQP trong thời gian 2006 - 2014.
* Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị,
kinh tế quân sự Mác - xít và các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội
nhân văn, như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học khi nghiên cứu cơ sở lý
luận; kết hợp với phương pháp lô gic, lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp,
thống kê khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng và phương pháp chuyên gia
trong toàn bộ quá trình nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Xây dựng được quan niệm Chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam dưới
6
góc độ kinh tế chính trị; xác định những vấn đề có tính quy luật trong chuẩn
bị NNL cho CNQP Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra hệ thống quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để chuẩn bị
NNL cho CNQP Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Cung cấp luận cứ khoa học để Chính phủ, các bộ, ban, ngành tham
khảo trong hoạch định chủ trương, chính sách chuẩn bị NNL cho CNQP nước
ta hiện nay.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập một số nội dung liên quan đến bộ môn Kinh tế chính trị,
Kinh tế quân sự ở các nhà trường quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu; 03 chương (8
tiết), kết luận; danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu của luận
án; danh mục tài liệu tham khảo được trích dẫn và sử dụng trong luận án.
7

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1. Nhóm các công trình khoa học bàn về vai trò của giáo dục, đào
tạo đối với phát triển nguồn nhân lực của đất nước
Giáo dục, đào tạo phát triển con người có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Vấn đề này đã thu hút được
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cá nhân, tổ chức ở các nước, tiêu biểu là các
công trình như: Giáo dục thái độ cộng sản đối với lao động của V.A. Xu-
Khôm-Lin-Xki (Nga) [110]; “Cải cách giáo dục - chìa khoá để phát triển
mạnh mẽ nền kinh tế” của N. Bôrépxkaia [3]; “Triển vọng của giáo dục trong
thế giới đang thay đổi” của E. Semennovich Demidenco [68]; “Đổi mới giáo
dục Thái Lan - những chiến lược đổi mới đầy khả năng cạnh tranh” của
Nipone Sookpreedee [67].
Trong đó, “Giáo dục thái độ cộng sản đối với lao động” của V.A Xu-
Khôm-Lin-Xki (Nga) là một cuốn sách giáo dục chính trị, xuất bản trong giai
đoạn Liên Xô đang thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong các nội dung
cơ bản của cuốn sách đề cập đến sự cần thiết phải giáo dục cho học sinh, sinh
viên lòng yêu lao động - một phẩm chất quan trọng góp phần hình thành giá trị
lao động của họ trong tương lai. Tác giả còn cho rằng: thông qua các hình thức
học ngoại khoá, hoạt động lao động tập thể kết hợp với hoạt động tuyên truyền
giáo dục của nhà trường để hình thành phẩm chất yêu lao động và sự trưởng
thành về đạo đức cho học sinh. Mặc dù vậy, do hạn chế về mặt lịch sử, nội dung
cuốn sách chưa đề cập đến giáo dục lý tưởng cống hiến cho thế hệ trẻ trong nền
kinh tế thị trường, chưa giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng
thụ của con người. Tuy nhiên, một số nội dung trong cuốn sách này cũng là
những gợi ý cần thiết để xây dựng các quan điểm, giải pháp phát triển NNL
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.
8
“Đổi mới giáo dục Thái Lan - những chiến lược đổi mới đầy khả năng
cạnh tranh” của Nipone Sookpreedee đã trình bày khái quát tình hình phát

triển giáo dục, đào tạo ở Thái Lan vào những năm cuối của thế kỷ XX và thực
tế hiện nay. Tác giả chỉ rõ những vấn đề được Chính phủ Thái Lan quan tâm
giải quyết là đổi mới giáo dục, đào tạo; cải cách hơn nữa hệ thống giáo dục
của đất nước; tiến hành đổi mới phương pháp dạy và học; thông qua nhiều
chương trình, đề án để đổi mới chức năng quản lý giáo dục từ Trung ương
đến địa phương. Tác giả làm rõ hệ thống giáo dục hiện nay của Thái Lan
được đặt nền móng trong Hiến pháp năm 1997 và Bộ luật Giáo dục quốc gia
năm 1999. Những quy định trong các văn bản này đã khuyến khích giáo dục
Thái Lan phát triển với một cơ cấu rộng rãi hơn để hướng tới mục đích đưa
Thái Lan trở thành một xã hội học tập, nâng cao tính công bằng về cơ hội và
chất lượng đời sống của người dân. Theo đó, Thái Lan tập trung xây dựng
chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo theo hướng nâng cao chất lượng, thực
hiện tiêu chuẩn và kiểm định chất lượng giáo dục, gắn lý thuyết với thực
hành, mở rộng các hình thức giáo dục, đào tạo gồm cả các chương trình phát
thanh và truyền hình giáo dục, đặc biệt coi trọng phát triển NNL chất lượng
cao đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Các công trình khoa học “Cải cách giáo dục - chìa khoá để phát triển
mạnh mẽ nền kinh tế” của N. Bôrépxkaia; “Triển vọng của giáo dục trong
thế giới đang thay đổi” của E. Semennovich Demidenco đã tập trung chỉ rõ
sự cần thiết phải đổi mới, cải cách nền giáo dục ở Nga cho phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế thị trường. Các tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò
của giáo dục đại học, đào tạo NNL chất lượng cao cho đất nước; định hướng
giáo dục đào tạo gắn với hoạt động của quy luật cung - cầu trong thị trường
lao động. Đồng thời, hai tác giả còn trình bày các vấn đề về lịch sử giáo dục
ở một số quốc gia; về vai trò quan trọng của giáo dục hiện đại đối với sự
phát triển NNL để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, các
9
công trình khoa học này chỉ là những tài liệu để nghiên cứu sinh tham khảo
xây dựng cơ sở khoa học chuẩn bị NNL cho CNQP nước ta.
1.2. Nhóm các công trình khoa học bàn về đào tạo phát triển nguồn

nhân lực cho công nghiệp quốc phòng
Liên quan đến vấn đề này, đã có một số công trình khoa học được công bố
như: Cuốn sách: Human resources for national strength của Stanley L.Falk,
Industrial college of the armed forces Washington, D.C.1966; Classroms in the
military của Harold F.Clack and Harold S.Loan, Published for the institute for
instructional improvement, INC by the bureau of publications teachers
college, Columbia university NewYork [113]. “Một góc nhìn nhà trường, học
viện quân sự” của Lý Thìn Quang [74]. “Tổng quan về năm trường đại học
tổng hợp trong toàn quân” (Trường Đại học Khoa học Kỹ thuật quốc phòng,
Trường Đại học Công trình Vật lí, Trường Đại học Công trình Thông tin,
Trường Đại học Công trình Hải quân và Trường Đại học Công trình Không
quân) của Lăng Tường [87]. “Công nghiệp quốc phòng và hàng không vũ trụ
Đông Nam Á” của Phi Líp. Finnegan [38]; “Công nghiệp quốc phòng I Ran”
của J. Ohalloran [69].
Trong đó, Human resources for national strength của Stanley L.Falk và
Classroms in the military của Harold F.Clack and Harold S.Loan đã chỉ ra sự
cần thiết phải nâng cao chất lượng đào tạo NNL cho CNQP ở mỗi nước, đáp
ứng nhu cầu chiến tranh hiện đại; mở rộng khả năng để đào tạo lực lượng dự
bị nhằm đáp ứng nhu cầu về NNL khi có chiến tranh xảy ra. Các công trình
tập trung bàn về việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp nâng
cao chất lượng đào tạo ở Quân đội Mỹ, Nga, Trung Quốc…
“Tổng quan về năm trường đại học tổng hợp trong toàn quân” đã chỉ rõ
việc quy hoạch hệ thống nhà trường quân đội phải xét đến tính chất hoạt động
quân sự trong điều kiện thời bình, thời chiến và phát huy tính lưỡng dụng của
các nhà trường quân đội để tham gia đào tạo NNL cho CNQP, cho đất nước
10
như Trung Quốc. Tuy nhiên, những công trình khoa học này chưa đề cập
nhiều đến đào tạo NNL cho CNQP. Đây là một khoảng trống mà luận án có
thể nghiên cứu, tìm ra kinh nghiệm của các trường quân sự ở các nước trong
tham gia đào tạo, phát triển NNL cho CNQP.

Như vậy, những công trình khoa học ở nước ngoài nghiên cứu về đào tạo
NNL cho CNQP được đề cập ở những nội dung, phạm vi và mức độ khác nhau;
song tựu trung lại các công trình này đều chỉ rõ sự cần thiết phải quan tâm đến
giáo dục và đào tạo ở mọi quốc gia; về vai trò của giáo dục đại học, đào tạo NNL
chất lượng cao cho đất nước; về giáo dục lòng yêu nước, yêu lao động và đạo đức
cho học sinh, sinh viên để nâng cao chất lượng NNL. Một số công trình tập trung
phân tích về vai trò của NNL đối với sự phát triển của đất nước và của quân đội;
về đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy ở các nhà trường
quân đội; về sự chuyển đổi mô hình kinh tế ở Nga sang nền kinh tế thị trường đã
đặt ra yêu cầu mới về đào tạo NNL cho CNQP; về tổ chức và hoàn thiện các nhà
trường quân sự trong điều kiện thời bình nhằm phát huy tính lưỡng dụng của các
nhà trường trong đào tạo NNL cho CNQP, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của thời
chiến. Nhiều công trình khoa học khác cũng tập trung bàn đến những giải pháp để
nâng cao chất lượng đào tạo NNL của đất nước và quân đội, chỉ ra sự cần thiết
phải xây dựng một hệ thống giáo dục sát thực tế. Tuy nhiên, những công trình
khoa học này chỉ đề cập riêng lẻ, độc lập từng vấn đề về đào tạo NNL cho CNQP
ở các góc độ khác nhau, các quốc gia khác nhau, với các thể chế chính trị khác
nhau; chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở khoa
học chuẩn bị NNL cho CNQP. Vì vậy, đây là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết
cho nghiên cứu sinh làm rõ vấn đề nghiên cứu của luận án.
2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài
Tiêu biểu cho các công trình khoa học ở trong nước nghiên cứu liên quan
đến vấn đề chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam hiện nay gồm có:
11
2.1. Nhóm các công trình khoa học bàn về vai trò nguồn lực, nguồn lực
con người trong phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay
Sách tham khảo: Nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh và bền
vững nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2020 của Ngô Doãn Vịnh
[107]; Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm bảo đảm tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam của Võ Văn Đức [36]; Phát huy nguồn lực con người để

công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Vũ Bá Thể [80]; “Nguồn nhân lực và nhân
tài cho phát triển xã hội và quản lý xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới
- Những vấn đề lý luận; Thực trạng nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước
hiện nay. Những vấn đề đặt ra - giải pháp” của Nguyễn Ngọc Phú [71].
Trong các công trình đó, tác giả Ngô Doãn Vịnh , Võ Văn Đức đã luận giải
những vấn đề lý luận về khái niệm nguồn lực, nguồn lực con người và tiến hành
nghiên cứu, phân tích làm rõ các loại nguồn lực; những vấn đề lý luận về nguồn
lực kinh tế…; vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế; thực trạng
huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu đóng góp cho tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam; đề xuất quan điểm, giải pháp huy động, sử dụng các nguồn lực chủ
yếu nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Tác giả Vũ Bá Thể đã nghiên cứu kinh nghiệm phát triển NNL của một
số nước trên thế giới và thực trạng NNL ở Việt Nam. Tác giả đã đưa ra quan
niệm về NNL và phát triển NNL; vai trò của NNL đối với tăng trưởng kinh tế
và sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam; đưa ra những định hướng và giải pháp
cơ bản nhằm phát huy tốt NNL trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
Tác giả Nguyễn Ngọc Phú khái quát những quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về NNL và nhân tài phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; những nội dung chủ yếu khi
nghiên cứu NNL, nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý xã hội ở Việt Nam;
những vấn đề lý luận trong nghiên cứu NNL và nhân tài cho phát triển xã hội
12
và quản lý xã hội; thực tiễn công tác giáo dục, đào tạo nhằm xây dựng NNL và
nhân tài đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, tác
giả đề xuất những giải pháp chủ yếu cho phát triển NNL, nhân tài ở nước ta
hiện nay. Đây là những gợi
ý cần thiết để luận án có thể tham khảo, đề xuất các biện pháp cụ thể phát triển
nhân lực trong CNQP Việt Nam.
Như vậy, nhiều công trình đã tập trung phân tích, đánh giá về thực trạng các
loại nguồn lực và nguồn lực con người ở nước ta; kinh nghiệm huy động và sử

dụng các nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế ở một số nước trên thế
giới. Tuy nhiên, những công trình khoa học này mới chỉ dừng lại ở việc khái
quát những vấn đề, luận điểm chung nhất về nguồn lực và nguồn lực con người
mà chưa đề cập đến quan niệm về chuẩn bị nnl cho CNQP… Song những luận
điểm khoa học của các công trình nói trên là những gợi ý cần thiết để vận dụng
trong nghiên cứu nguồn lực phát triển sản xuất quân sự, xây dựng tiềm lực kinh
tế quân sự, củng cố sức mạnh quân sự của nước ta hiện nay.
2.2. Nhóm các công trình khoa học về phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Luận án tiến sĩ kinh tế (1998): “Sử dụng nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta” của tác giả Trần Kim Hải
[38]; Sách tham khảo:“Phát triển nguồn nhân lực ở một số nước. Kinh
nghiệm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay” của
Nghiêm Đình Vỳ [108]; “Kinh tế nguồn nhân lực” của Trần Xuân Cầu [10];
“Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thời kỳ hội nhập” của Trung tâm Trí
thức doanh nghiệp quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh; “Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế” của Tiến sĩ
Phạm Công Nhất [61]; “Xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực
13
chất lượng cao” của Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tấn Dong [17].
Tác giả Trần Kim Hải - Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh đã phân tích về hiện trạng, yêu cầu và những vấn đề đang đặt ra
trong sử dụng NNL cho CNH, HĐH ở nước ta. Theo đó, NNL hiện có còn
chưa đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta. Vì vậy, quá trình khai thác, sử dụng cần phải được đặt trong mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng của NNL; phải coi nâng
cao chất lượng NNL là một nội dung, một tiền đề cơ bản để nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực cho CNH, HĐH. Trong luận án, tác giả đề cập
đến quan niệm về NNL, nhưng chưa đề cập đến NNL trong lĩnh vực sản xuất
quân sự.

Tác giả Nghiêm Đình Vỳ trình bày nhiều vấn đề về đào tạo và phát triển
NNL ở một số nước, bao gồm: thực trạng và chính sách đẩy mạnh phát triển
NNL ở các nước công nghiệp phát triển, các nền công nghiệp mới (NIEs) Châu
Á; tập trung phân tích, làm rõ tình hình học tập ở các cấp học, đặc biệt quan
tâm đến vấn đề đào tạo nghề ở các nền công nghiệp mới nổi. Đây là những mô
hình tương đối thành công và có những điểm chung rất nổi bật trong việc đào
tạo, phát triển NNL, như: Thứ nhất, giáo dục và đào tạo nghề cũng giống như
giáo dục phổ thông, phải theo sát quá trình phát triển kinh tế, đáp ứng ngày
càng tốt nhu cầu của nền kinh tế các quốc gia này. Thứ hai, đào tạo tại nơi làm
việc là yếu tố cấu thành quan trọng, trong đó có sự đóng góp của các công ty.
Đào tạo tại công ty là mô hình đào tạo nghề cho công nhân trình độ bậc trung;
hình thức này đóng vai trò quan trọng trong đào tạo NNL bậc cao, chủ yếu
được tiến hành ở các công ty lớn. Thứ ba, đào tạo nâng cao cho lực lượng tại
chức và đào tạo lại được chú ý mạnh mẽ. Thứ tư, phát huy vai trò của chính
phủ quan tâm đến giáo dục và đào tạo nghề; tuy nhiên, mức độ và vai trò của
chính phủ không giống nhau ở các quốc gia khác nhau. Về giáo dục đại học,
14
đây là thước đo quan trọng về trình độ và tiềm năng phát triển của một nước.
Nghiên cứu nền giáo dục đại học ở các nước NIEs, tác giả chỉ ra một số điểm
tương đồng, như: hệ thống giáo dục đại học đều diễn tiến theo ba giai đoạn là
mở rộng số lượng, củng cố về chất lượng và ổn định, xây dựng nền giáo dục
tiên tiến; mở rộng và coi trọng giáo dục từ xa, phát huy mọi nguồn lực của đất
nước cho đào tạo NNL, thực hiện chính sách du học; xây dựng được một xã hội
học tập suốt đời. Đồng thời, tác giả cũng nghiên cứu đến nhóm những chính
sách nhằm đẩy mạnh phát triển NNL, như: chính sách việc làm, tiền lương, sử
dụng và đãi ngộ NNL, hợp tác quốc tế trong phát triển NNL.
Tác giả đã thẳng thắn chỉ ra thực trạng đào tạo và phát triển NNL ở
nước ta; trên cơ sở đó, đề xuất một hệ thống giải pháp cơ bản, có thể coi như
những kinh nghiệm trong quá trình phát triển NNL. Đó là một số nhóm giải
pháp chính, như: đẩy mạnh công tác quản lý của Nhà nước về đào tạo NNL

theo hướng gắn kết ba khâu là đào tạo, sử dụng và việc làm; đổi mới quan
điểm, chính sách đầu tư cho đào tạo và phát triển NNL; mở rộng đào tạo
nghề, nâng cao năng lực nghề nghiệp của đội ngũ lao động; chủ động và tích
cực phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đãi ngộ nhân tài hợp lý; đẩy mạnh hợp tác
quốc tế về giáo dục, đào tạo NNL… Cuốn sách đã chỉ ra những bài học kinh
nghiệm quý giá về đào tạo và phát triển NNL ở các nước công nghiệp phát
triển, các nền công nghiệp mới nổi và sự vận dụng ở Việt Nam. Đây là những
gợi ý thiết thực cho nghiên cứu sinh tham khảo để đề xuất các biện pháp đào
tạo NNL cho CNQP nước ta hiện nay.
Tác giả Phạm Công Nhất khái quát những quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về NNL và nhân tài phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; những nội dung chủ yếu khi nghiên cứu
NNL, nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý xã hội ở Việt Nam; những vấn đề
lý luận trong nghiên cứu NNL và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý xã
hội; thực tiễn công tác giáo dục, đào tạo nhằm xây dựng NNL và nhân tài đáp
15
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất
những giải pháp chủ yếu cho phát triển NNL, nhân tài ở nước ta hiện nay. Đây là
những gợi ý cần thiết để luận án có thể tham khảo, đề xuất các biện pháp cụ thể
phát triển NNL cho CNQP Việt Nam.
Tác giả Trần Xuân Cầu trình bày nhiều vấn đề về NNL ở góc độ kinh
tế, chỉ ra các nội dung cơ bản cần tập trung giải quyết, như: đào tạo và phát
triển NNL, thị trường lao động, năng suất lao động, cung cầu lao động và
các nhân tố ảnh hưởng, giải quyết việc làm, tiền lương, chính sách NNL,
thất nghiệp, bảo hiểm và chính sách xã hội… Trong vấn đề đào tạo và phát
triển NNL, tác giả tập trung làm rõ vai trò của NNL đối với sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế, về đào tạo công nhân kỹ thuật, đào tạo cán bộ chuyên
môn và đánh giá hiệu quả đào tạo. Tác giả đã đem đến cho chúng ta cách
nhìn, đánh giá đầy đủ hơn về vai trò của con người trong sự phát triển của
đất nước; cũng như gợi mở những giải pháp, chính sách để giải quyết các

vấn đề xã hội góp phần tác động tích cực đến chất lượng đào tạo và phát
triển NNL; tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng của NNL, khoa học và
quản lý con người trong sản xuất kinh doanh, tạo những bước phát triển
mới về tư duy, mang tính đột phá trong chiến lược phát triển NNL của các
quốc gia.
Các tác giả còn lại đề cập về đào tạo NNL của đất nước ở nhiều góc độ
khác nhau, nhưng có điểm chung là hướng tới việc nâng cao chất lượng NNL
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là: xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Riêng tác giả Phạm Tất Dong đã bàn đến vấn
đề chuẩn bị NNL trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; theo đó phải
giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời; chuẩn bị NNL
không chỉ về trình độ chuyên môn mà còn phải giáo dục về ý thức đạo đức,
tinh thần trách nhiệm và giá trị xã hội cần thiết, tác phong lao động một cách
16
có văn hoá. Đây là nguồn tài liệu, kinh nghiệm quý để tác giả luận án có thể
tham khảo trong đề xuất các giải pháp chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam
hiện nay.
2.3. Nhóm các công trình khoa học về phát triển công nghiệp quốc
phòng và nguồn nhân lực cho Công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu cơ sở khoa học để phát triển CNQP và NNL cho CNQP
Việt Nam là một lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức khoa học, cá
nhân trong và ngoài quân đội. Tiêu biểu như: “Phát triển khoa học và công
nghệ dân dụng gắn với tăng cường tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ
quân sự Việt Nam” của Phùng Văn Như [66]; “Phát triển Công nghiệp quốc
phòng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”
của Trần Thanh Chuyền [14]; “Quản lý và phát triển đội ngũ cán bộ
giảng dạy phục vụ cho công tác đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học
và sau đại học đáp ứng yêu cầu của công nghiệp quốc phòng” của Nguyễn
Ngọc Đề [33]; “Nghiên cứu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên,

công nhân kỹ thuật cho doanh nghiệp trực thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc
phòng ở nước ta hiện nay”, của PGS. TS. Nguyễn Trọng Xuân [109];
“Nghiên cứu giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng
nòng cốt thời kỳ mới”, Đề tài khoa học cấp Tổng cục Chính trị (2013) của PGS.
TS. Trần Thanh Chuyền [13]. Bài báo khoa học “Đẩy mạnh phát triển công
nghiệp quốc phòng trong tình hình mới” của Trung tướng Nguyễn Đức Lâm -
Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng [50]; “Đào tạo nguồn nhân lực
khoa học công nghệ trình độ cao cho công nghiệp quốc phòng - những vấn đề
đặt ra” của Thiếu tướng, PGS. TS. Đoàn Hùng Minh - Phó Chủ nhiệm Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng [60]; “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 06-
NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng”
của Trung tướng Trương Quang Khánh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng [48].
Trong các công trình đó, tác giả Phùng Văn Như đã bước đầu đề cập
17
đến vấn đề xây dựng NNL đáp ứng yêu cầu phát triển của khoa học công
nghệ quân sự hiện đại trong khu vực và trên thế giới. Một trong năm giải pháp
mà tác giả trình bày có đề cập đến việc chuẩn bị NNL cho CNQP. Đó là phát
triển NNL khoa học và công nghệ theo hướng chú trọng xây dựng và phát
triển bộ phận nhân lực hoạt động trong các ngành, lĩnh vực có chuyên môn
gần với kỹ thuật quân sự; tiếp tục kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ khoa học và công nghệ của nền kinh tế quốc dân, chú trọng đặc biệt
đến bộ phận cán bộ hoạt động trong các ngành, lĩnh vực có liên quan trực tiếp
đến khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự; sử dụng hợp lý NNL khoa học
và công nghệ nói chung, bộ phận nhân lực liên quan đến phát triển kỹ thuật
quân sự nói riêng; khắc phục tình trạng chảy máu chất xám cả ở tầm vĩ mô và
vi mô. Tuy tác giả có đề cập đến vấn đề chuẩn bị NNL cho CNQP với tư cách
là một giải pháp phát triển CNQP, nhưng trọng tâm của luận án không phải là
vấn đề chuẩn bị NNL cho CNQP hiện nay.
Trong hệ thống giải pháp mà luận án của tác giả Trần Thanh Chuyền
đưa ra, bước đầu đề cập đến việc phát triển NNL đáp ứng yêu cầu của CNQP

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Theo tác giả luận án thì NNL đáp ứng yêu
cầu của CNQP trong giai đoạn cách mạng mới phải gồm những người có
đức, có tài, làm việc vì sự nghiệp phát triển CNQP đất nước, được chuẩn
bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề
nghiệp, có phương pháp và tác phong khoa học; riêng đội ngũ cán bộ chuyên
môn kỹ thuật phải có khả năng tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên tiến
thuộc chuyên ngành mình, có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu ứng dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ mới, đề xuất được sáng kiến cải
tiến, nâng cao tính năng kỹ chiến thuật của vũ khí trang bị kỹ thuật. Tác giả
nhấn mạnh: đó là NNL mới - NNL của một nền CNQP hiện đại. Trong
NNL mới cho CNQP, phải hết sức chăm lo, bồi dưỡng đội ngũ những người
hiện đang làm việc trong các cơ sở nghiên cứu, sản xuất vũ khí trang bị kỹ
18
thuật, vật tư trang bị hậu cần là nhiệm vụ trung tâm; bởi vì, đây là lực
lượng đã, đang trực tiếp nghiên cứu sử dụng phương tiện, công nghệ tại các
cơ sở CNQP ; mặt khác, đó cũng là những người có trách nhiệm dẫn dắt, truyền
đạt kinh nghiệm cho các thế hệ tiếp theo sẽ làm việc trong ngành CNQP của đất
nước. Bên cạnh đó, phải khẩn trương đào tạo đội ngũ kế cận ngày càng có
chất lượng cao tiếp tục hoạt động trong ngành CNQP và coi đó là nhiệm vụ
quan trọng, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đây là những nội dung cần thiết
để luận án có thể tham khảo khi đề xuất các giải pháp chuẩn bị NNL cho CNQP
Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Ngọc Đề đã phân tích tầm quan trọng của việc phát
triển đội ngũ cán bộ giảng dạy trong hệ thống các nhà trường kỹ thuật trong
quân đội, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo NNL có trình độ đại học và sau đại
học phục vụ sự nghiệp phát triển CNQP của đất nước. Qua đó, tác giả đề xuất
một số biện pháp để xây dựng đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân
đội đáp ứng yêu cầu đào tạo NNL cho CNQP. Tác giả Nguyễn Trọng Xuân -
Học viện Chính trị đã phân tích những vấn đề cơ bản về chất lượng, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên, công nhân kỹ thuật ở các doanh nghiệp

trực thuộc Tổng cục CNQP; đánh giá khái quát về thực trạng chất lượng đội ngũ
cán bộ, nhân viên, công nhân kỹ thuật trong các doanh nghiệp thuộc Tổng cục
CNQP nước ta; đề xuất được một số yêu cầu, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên, công nhân kỹ thuật ở các doanh nghiệp thuộc
Tổng cục CNQP hiện nay. Tác giả Trần Thanh Chuyền trong đề tài mà mình làm
chủ nhiệm đã đưa ra quan niệm phát triển NNL cho CNQP nòng cốt thời kỳ
mới; cung cấp bức tranh thực trạng NNL trong CNQP nòng cốt ở nước ta cả về
ưu điểm và hạn chế; đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản để phát triển NNL cho
CNQP Việt Nam hiện nay. Nội dung của đề tài có thể cung cấp một số thông tin
về thực trạng chất lượng NNL của CNQP nước ta những năm qua, là cơ sở để
19
luận án so sánh với thực trạng chất lượng NNL trong CNQP nước ta hiện nay.
Các giải pháp mà đề tài nêu ra sẽ là những gợi mở quan trọng để luận án nghiên
cứu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào đề xuất giải pháp chuẩn bị NNL cho
CNQP nước ta hiện nay.
Đề tài của tác giả Trần Thanh Truyền đã trình bày khái lược quá trình
hình thành, phát triển CNQP Việt Nam; kinh nghiệm về xây dựng, phát triển,
huấn luyện, đào tạo nhân lực CNQP ở một số nước, như: Ấn Độ, Hàn Quốc,
In-đô-nê-xi-a, I-xra-en, Trung Quốc, Nga, Mỹ, Nhật Bản. Đề tài đã chỉ ra
được thực trạng CNQP Việt Nam, trong đó đã khẳng định: đào tạo, sử dụng
cán bộ được coi trọng, bước đầu đáp ứng được NNL có chất lượng cho
CNQP, số cán bộ được đào tạo ở nước ngoài năm sau cao hơn năm trước; các
dự án đầu tư xây dựng cơ sở nghiên cứu, đào tạo đang được triển khai đúng
tiến độ. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ, chuyên gia đầu ngành khoa học, công
nghệ còn thiếu (chưa có tổng công trình sư), trình độ còn hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra, đặc biệt trong lĩnh vực thiết kế vũ khí, trang bị kỹ
thuật quân sự, chưa chủ động chuẩn bị cho một số công trình, dự án trọng
điểm. Đề tài đã khảo sát và đưa ra được một số nhận xét cơ bản về thực trạng
chương trình, nội dung đào tạo về CNQP trong các nhà trường quân đội ở các
khối kỹ thuật, khối nhà trường đào tạo cán bộ chỉ huy, khối nhà trường đào

tạo cán bộ chính trị; chỉ ra thực trạng huấn luyện, đào tạo CNQP ở Học viện
Quốc phòng. Đề tài đã đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo
về CNQP cho cán bộ cao cấp của Đảng, quân đội; các giải pháp tập trung vào:
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ đối với công tác đào
tạo đội ngũ cán bộ CNQP; giáo dục nâng cao nhận thức huấn luyện, đào tạo
CNQP cho đội ngũ cán bộ chỉ huy, quản lý các cấp; tăng cường phối hợp giữa
Tổng cục CNQP với Học viện Quốc phòng trong giáo dục, đào tạo cán bộ.
Những nội dung trên, tuy chưa phải là hệ thống giải pháp đồng bộ để phát
triển NNL cho CNQP, song cũng là những gợi ý thiết thực cho nghiên cứu
20
sinh trong quá trình nghiên cứu, dự báo chuẩn bị NNL cho CNQP hiện nay.
3. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung giải quyết
Ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, các công trình khoa học đã đề cập
tới vấn đề xây dựng và phát triển NNL của đất nước đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế. Có một số công trình, bài viết của các tác giả đã công bố, bước đầu
đã đề cập đến vấn đề xây dựng NNL, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân
viên chuyên môn, kỹ thuật trong các doanh nghiệp thuộc Tổng cục CNQP đáp
ứng yêu cầu phát triển KH, CN quân sự nói chung, CNQP nói riêng. Một số đề
tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy trong các
nhà trường quân đội, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo NNL chất lượng cao phục vụ
phát triển CNQP của đất nước. Tuy nhiên, cách tiếp cận nghiên cứu vấn đề NNL,
phát triển NNL trong các công trình đã tổng quan ở phần trên chủ yếu thiên về quản
trị nhân lực, giáo dục chính trị, quản lý giáo dục; chưa có công trình nào chuyên sâu
đề cập tới vấn đề: “Chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp quốc phòng Việt
Nam hiện nay” dưới góc độ kinh tế chính trị.
Vì vậy, vấn đề đặt ra mà luận án cần phải giải quyết là:
Thứ nhất, đưa ra quan niệm về NNL cho CNQP Việt Nam dưới góc độ
kinh tế chính trị.

Các công trình khoa học đã nêu chưa có quan niệm về NNL cho CNQP
Việt Nam ở góc độ kinh tế chính trị. Có tác giả đề cập đến NNL cho CNQP
nước ta, nhưng mới chỉ nêu những biểu hiện cụ thể về cơ cấu của NNL.
Thứ hai, xây dựng quan niệm về chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam
dưới góc độ kinh tế chính trị và phân tích rõ nội hàm của nó.
Đây là phạm trù trung tâm của đề tài, làm cơ sở cho việc triển khai
nghiên cứu các nội dung tiếp theo. Qua phân tích các công trình khoa học có
liên quan đến nội dung nghiên cứu, chưa thấy có công trình nào đề cập đến
21
phạm trù này.
Thứ ba, cần làm rõ tính đặc thù của NNL trong CNQP Việt Nam,
những vấn đề có tính quy luật trong chuẩn bị NNL cho CNQP.
Vấn đề tính đặc thù của NNL trong CNQP và những vấn đề có tính
quy luật trong chuẩn bị NNL cho CNQP Việt Nam là một vấn đề mới, chưa
có công trình nào đề cập tới. Bên cạnh đó, luận án cần tham khảo vấn đề
phát triển NNL cho CNQP ở một số nước trên thế giới để làm kinh nghiệm
trong chuẩn bị NNL cho CNQP ở Việt Nam.
Thứ tư, đánh giá đúng ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân vấn đề chuẩn bị
NNL cho CNQP nước ta hiện nay
Vấn đề này còn rất mới, do liên quan đến bí mật quân sự nên chưa có
nhiều tài liệu công bố. Nhiệm vụ của đề tài là tích cực khảo sát, sưu tầm tư
liệu, tài liệu, phân tích, đánh giá, tìm ra bản chất vấn đề, nhưng không làm lộ
bí mật quân sự. Qua phân tích, đánh giá cần rút ra những vấn đề mang tính
phổ biến phải tiếp tục giải quyết để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu.
Thứ năm, đề xuất quan điểm, giải pháp chuẩn bị NNL cho CNQP Việt
Nam hiện nay
Các quan điểm, giải pháp này phải thể hiện rõ vai trò của các lực lượng
tham gia chuẩn bị; giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích kinh tế, chính trị cho
người lao động trong CNQP. Đặc biệt, cần chú ý tính đặc thù của NNL trong
CNQP để xác định giải pháp chuẩn bị phù hợp, có tính khả thi.

22
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUẨN BỊ NGUỒN NHÂN LỰC
CHO CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG VIỆT NAM
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực cho công
nghiệp quốc phòng Việt Nam
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là hoạt động cơ
bản nhất trong tất cả các hoạt động của con người. Để tiến hành sản xuất, xã
hội cần có những yếu tố cơ bản như: sức lao động, đối tượng lao động và tư
liệu lao động. Theo C. Mác: ‘Sức lao động chính là toàn bộ năng lực, thể chất
và tinh thần tồn tại trong một con người đang sống và được người đó đem ra
vận dụng để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [15, tr. 251]. Trong quá
trình phát triển của nền sản xuất xã hội, sức lao động của con người cũng
không ngừng được hoàn thiện, phát triển và nhận thức về vai trò của nguồn
lực này cũng ngày càng đầy đủ hơn. Nếu trước đây, sức lao động chỉ đơn
thuần được coi là phương tiện, là một dạng chi phí khi sử dụng vào quá trình
sản xuất, thì ngày nay nguồn lực này còn được xác định là mục tiêu của sự
phát triển. Theo đó, NNL là nhân tố quan trọng nhất trong hệ thống các nguồn
lực để phát triển kinh tế - xã hội. Việc phát triển con người, phát triển NNL
trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển nguồn lực.
Trên phương diện nghiên cứu khoa học, NNL là một phạm trù để các chuyên
ngành khoa học khác nhau khai thác phục vụ cho việc nghiên cứu phát triển
con người; chuẩn bị phát triển NNL cho các lĩnh vực, ngành nghề cụ thể;
nghiên cứu đề xuất các chế độ, chính sách phát triển con người, chăm lo đến
con người, đáp ứng nhu cầu sức sản xuất xã hội ngày càng cao. Nghiên cứu,
có giải pháp hữu hiệu phát triển NNL chính là bảo đảm chắc chắn nhất cho sự
23

×