Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Giải pháp giải quyết khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 114 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM







VŨ THỊ PHƯỢNG



GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN VỀ ĐẤT ĐAI
Ở HUYỆN YÊN KHÁNH, TỈNH NINH BÌNH






LUẬN VĂN THẠC SĨ










HÀ NỘI - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM







VŨ THỊ PHƯỢNG



GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN VỀ ĐẤT ĐAI
Ở HUYỆN YÊN KHÁNH, TỈNH NINH BÌNH





Chuyên ngành : KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã số : 60.62.01.15




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH VĂN ĐÃN



HÀ NỘI - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.

Tác giả



Vũ Thị Phượng



















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ của nhiều tập thể và cá nhân. Tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc
nhất tới tất cả các tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết, với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi
lời cảm ơn tới thầy giáo – TS. Đinh Văn Đãn - người đã trực tiếp hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy giáo, cô giáo Bộ môn Kinh tế Nông
nghiệp và chính sách; các thầy, cô giáo Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn;
Ban Quản lý đào tạo Sau đại học Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi mọi mặt trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo và cán bộ UBND huyện
Yên Khánh, UBND xã Khánh Hòa, Khánh Phú, Khánh Hồng và Thị trấn Yên
Ninh cùng các hộ nhân dân trên địa bàn huyện Yên Khánh đã tạo điều kiện và
hỗ trợ tôi trong quá trình thu thập số liệu.

Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn những người thân trong gia đình
và bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để
hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả


Vũ Thị Phượng


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt v
Danh mục bảng vi
Danh mục biểu đồ vii
Danh mục hộp viii
1 MỞ ĐẦU 1
1.1 Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1 Mục tiêu chung 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3
1.3 Đối tượng, nội dung, phạm vi nghiên cứu đề tài 3
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 3
1.3.2 Nội dung nghiên cứu 3

1.3.3 Phạm vi nghiên cứu của đề tài 4
2 CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU
KIỆN VỀ ĐẤT ĐAI 5
2.1 Một số lý luận về khiếu kiện, giải quyết khiếu kiện về đất đai 5
2.1.1 Một số khái niệm 5
2.1.2 Đặc điểm khiếu kiện về đất đai 6
2.1.3 Phân loại khiếu kiện về đất đai 7
2.1.4 Nguyên nhân phát sinh khiếu kiện về đất đai 10
2.1.5 Các nguyên tắc giải quyết khiếu kiện về đất đai 12
2.1.6 Những tác động của khiếu kiện về đất đai đối với đời sống kinh tế xã hội 14
2.1.7 Nội dung giải quyết khiếu kiện về đất đai 15
2.1.8 Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết khiếu kiện về đất đai 16
2.2 Cơ sở thực tiễn về giải quyết khiếu kiện về đất đai 18
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

2.2.1 Tình hình và kinh nghiệm giải quyết khiếu kiện về đất đai của một số
nước phát triển 18
2.2.2 Thực tiễn công tác giải quyết khiếu kiện về đất đai ở Việt Nam 23
3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 27
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 27
3.1.2 Các nguồn tài nguyên 30
3.1.3 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 32
3.2 Phương pháp nghiên cứu 35
3.2.1 Phương pháp tiếp cận 35
3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin 36
3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu 38
3.2.4 Phương pháp phân tích 38
3.2.5 Phương pháp chuyên gia 39

3.2.6 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 39
4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
4.1 Thực trạng giải quyết khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh 40
4.1.1 Thực trạng khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh 40
4.1.2 Thực trạng giải quyết khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh 54
4.1.3 Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giải quyết khiếu kiện
về đất đai ở huyện Yên Khánh 74
4.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện về đất đai giai
đoạn 2015 - 2020 82
4.2.1 Căn cứ đưa ra giải pháp 82
4.2.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện về đất đai 84
5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 93
5.1 Kết luận 93
5.2 Kiến nghị 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 98
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Diễn giải nội dung
BQ : Bình quân
CC : Cơ cấu
GCN : Giấy chứng nhận
GCNQSDĐ : GCNQSDĐ
GPMB : Giải phóng mặt bằng
KN : Khiếu nại
KKĐĐ : Khiếu kiện đất đai
LĐ : Lao động

QLĐĐ : Quản lý đất đai
QLNN : Quản lý Nhà nước
TCĐĐ : Tranh chấp đất đai
TĐC : Tái định cư
TT Yên Ninh : Thị trấn Yên Ninh
UBND : Uỷ ban nhân dân











Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

DANH MỤC BẢNG


STT Tên bảng Trang

3.1 Tình hình phân bố, sử dụng đất huyện Yên Khánh 2011 -2013 31
3.2 Cơ cấu các ngành kinh tế từ năm 2011 – 2013 33
3.3 Tình hình dân số, lao động huyện Yên Khánh 2011 – 2013 35
3.4 Số hộ tiến hành điều tra ở các xã, thị trấn 37
4.3 Tổng hợp tình hình khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh 40

4.4 Tổng hợp số vụ khiếu kiện về tranh chấp đất đai ở huyện Yên Khánh từ
năm 2011 – 2013 43
4.5 Nhóm chủ thể tham gia khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh từ
năm 2011 – 2013 45
4.6 Nguyên nhân phát sinh các vụ khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên
Khánh 50
4.7 Kết quả giải quyết khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh từ năm
2011 – 2013 55
4.8 Ý kiến của người dân về nguyên nhân hoà giải chiếm tỷ lệ cao 57
4.9 Nguyên nhân hòa giải cơ sở không đạt được kết quả cao 63
4.10 Đánh giá mức độ hài lòng của người dân đối với việc giải quyết khiếu
kiện đất đai thông qua hòa giải 64
4.11 Đánh giá về công tác giải quyết khiếu kiện đất đai của cơ quan có thẩm
quyền ở huyện Yên Khánh 68
4.12 Ý kiến của cán bộ về những khó khăn trong công tác giải quyết khiếu
kiện về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư 70
4.13. Ý kiến của người dân, cán bộ về nguyên nhân công tác cấp GCNQSDĐ
chậm 72
4.14 Đánh giá của người dân về những hạn chế của đội ngũ cán bộ trực tiếp
giải quyết khiếu kiện đất đai ở huyện Yên Khánh 77
4.15 Ý kiến của người dân về công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
pháp luật
81
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

STT Tên biểu đồ Trang


4.1 Tổng hợp loại đất phát sinh khiếu kiện ở huyện Yên Khánh 48

4.2 Kết quả giải quyết khiếu kiện đất đai thông qua hòa giải ở huyện
Yên Khánh từ năm 2011 – 2013 59

4.3 Tình hình giải quyết khiếu kiện đất đai ở huyện Yên Khánh 67













Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

DANH MỤC HỘP


STT Tên hộp Trang

4.1 Ngày nay, bọn trẻ thường nghĩ đến lợi ích bản thân…. 46
4.2 Giá trị đạo đức bị đảo lộn… 47
4.3 Khiếu kiện đất đai phát sinh nhiều theo từng đơn vị xã 49

4.4 Không ai chịu thừa nhận mình sai 49
4.5 Giá đền bù như thế thì chúng tôi làm sao chấp nhận được… 52
4.6 Ngày xưa, các quy định không như vậy… 53
4.7 Hoà giải khiếu kiện đất đai giúp giảm tải áp lực cho UBND huyện 61
4.8 Bao giờ có tiền thì kiện tiếp…. 65
4.9 Càng ngày, các khiếu kiện đất đai ngày càng phức tạp …. 66
4.10 Giải quyết khiếu kiện về đất đai rất mất thời gian… 73
4.11 Hiếm khi thấy Nhà nước xin lỗi dân… 73
4.12 Khó đến đâu, xin ý kiến đến đó… 75
4.13 Bức xúc lắm, nhưng cơ chế như vậy… 75
4.14 Giải quyết có tình, có lý thì khó lắm…. 78


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

1. MỞ ĐẦU

1.1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là tư liệu sản xuất
đặc biệt không thể thay thế được, không có đất đai là không có bất kỳ một ngành
sản xuất nào, không có quá trình lao động nào diễn ra và không có sự tồn tại của xã
hội loài người. Không những vậy, đất đai còn có vai trò rất quan trọng đi đôi với sự
phát triển của xã hội, xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu sử dụng đất ngày càng
lớn trong khi đất đai lại có hạn, điều đó đã làm cho quan hệ giữa người với người và
với đất đai ngày càng trở nên phức tạp.
Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là những năm
gần đây tình hình khiếu kiện về đất đai ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp
về tính chất, nhất là ở những vùng đang đô thị hóa nhanh. Các dạng khiếu kiện về
đất đai phổ biến trong thực tế là: khiếu kiện về bồi thường, hỗ trợ tái định cư; về

việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; về quyết định xử phạt vi
phạm hành chính về vi phạm chế độ quản lý, sử dụng đất đai, và đặc biệt là các
khiếu kiện về tranh chấp về đất đai như: tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất; tranh chấp do lấn, chiếm
đất; tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; tranh chấp đất đai
trong các vụ án ly hôn,
Các khiếu kiện đất đai diễn ra gay gắt và phát sinh ở hầu hết các địa phương
và luôn là vấn đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Nguyên nhân
cơ bản do sự biến động các mối quan hệ trong quản lý và sử dụng đất đai đã tác
động đến quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, do các thế lực thù địch,
phản động và một số phần tử cơ hội chính trị lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân đã kích động, lôi kéo người khiếu nại, tố cao tập trung đông, vượt cấp.
Mặt khác, việc giải quyết khiếu kiện còn nhiếu bất hợp lý, thiếu những quy định cụ
thể, rõ ràng, mâu thuẫn, chồng chéo, đường lối xử lý chưa thống nhất, cơ quan nhà
nước đôi khi còn buông lỏng công tác quản lý, đã làm tăng tính chất gay gắt của
vụ việc và có nơi trở thành “điểm nóng” ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống
các quy định của pháp luật về đất đai, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đất đai;
thực trạng khiếu kiện đất đai của các cơ quan có thẩm quyền trong những năm gần
đây, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp giải quyết có hiệu quả các khiếu kiện đất
đai nhằm nâng cao hiện quả công tác quản lý Nhà nước về đất đai, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho công dân là vấn đề có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn.
Yên Khánh là một huyện nông nghiệp thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, nằm
ở phía Nam, cách trung tâm thành phố Ninh Bình 5 km theo đường Quốc lộ 10. Phía
Bắc giáp khu công nghiệp, khu dịch vụ tổng hợp, trung tâm văn hoá tỉnh Ninh Bình.
Do đó, Yên Khánh có nhiều tiềm năng cho việc thúc đẩy kinh tế. Sau 20 năm tái lập
huyện (từ 01/09/1994 đến nay), cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

tỉnh và cả nước, huyện Yên Khánh đã có những bước phát triển đáng kể ở hầu hết
các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, cùng với tốc độ phát triển kinh tế, những
vấn đề bất cập xảy ra trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn huyện
cũng diến biến ngày càng phức tạp.
Sau khi có Luật đất đai năm 2003, việc giải quyết khiếu kiện đất đai ở
huyện Yên Khánh có nhiều chuyển biến tích cực, đi vào nề nếp. Các vụ khiếu kiện
kéo dài giảm rõ rệt, công tác giải phóng mặt bằng các công trình được đảm bảo
tiến độ. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết các khiếu kiện đất đai vẫn còn nhiều
bất cập, tình khiếu kiện diễn ra ngày càng tăng, nhiều sai phạm trong giải quyết
khiếu kiện đặc biệt là khiếu kiện về tranh chấp đất đai chưa được khắc phục, hiệu
quả giải quyết chưa cao, nhiều vụ việc vẫn còn tồn đọng,
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Giải pháp
giải quyết khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình".
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên
Khánh, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện
về đất đai ở huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về khiếu kiện về đất đai.
- Đánh giá thực trạng giải quyết khiếu kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh, tỉnh
Ninh Bình.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giải quyết khiếu kiện đất đai
trên địa bàn huyện Yên Khánh;
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện về đất đai
ở huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

1.3 Đối tượng, nội dung, phạm vi nghiên cứu đề tài
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến khiếu kiện về đất
đai ở huyện Yên Khánh.
Chủ thể đề tài hướng vào nghiên cứu bao gồm:
+ Nhóm chủ thể trong khiếu kiện về đất đai: Hộ gia đình, cá nhân, các tổ
chức kinh tế như hợp tác xã, trang trại, doanh nghiệp, và cơ quan có thẩm quyền
về Quản lý trong lĩnh vực đất đai ở huyện Yên Khánh.
+ Nhóm chủ thể giải quyết khiếu kiện về đất đai: UBND cấp xã (cơ quan giải
quyết các khiếu kiện về đất đai hoặc tổ chức hoà giải các khiếu kiện về tranh chấp
về đất đai); UBND cấp huyện (cơ quan giải quyết khiếu kiện ở cấp huyện), Toà án
nhân dân huyện;
1.3.2 Nội dung nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
về khiếu kiện về đất đai. Trong đó, tập trung ở các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất: Công tác quản lý và sử dụng đất đai ở huyện Yên Khánh;
Thứ hai: Nghiên cứu thực trạng giải quyết khiếu kiện về đất đai ở Yên
Khánh;
Thứ ba: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả giải quyết khiếu
kiện về đất đai ở huyện Yên Khánh;
Thứ tư: Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi áp dụng tại huyện Yên
Khánh nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện về đất đai.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

1.3.3 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung liên quan đến
giải quyết khiếu kiện về đất đai trong đó tập trung nghiên cứu sâu các khiếu kiện về
tranh chấp đất đai.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu vấn đề giải quyết khiếu kiện về đất đai tại

huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Tập trung nghiên cứu điểm tại 3 xã và 1 thị trấn.
Bao gồm: xã Khánh Hòa, xã Khánh Phú, xã Khánh Hồng và Thị trấn Yên Ninh.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu từ năm 2011 đến năm 2013. Số liệu điều tra
tại 4 điểm nghiên cứu tập trung chủ yếu vào năm 2013. Phần giải pháp định hướng
đến năm 2020.
- Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 8/2013 đến tháng 10/2014.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

2. CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢI QUYẾT
KHIẾU KIỆN VỀ ĐẤT ĐAI

2.1 Một số lý luận về khiếu kiện, giải quyết khiếu kiện về đất đai
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khiếu kiện
Thực tế, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào định nghĩa rõ ràng về
khái niệm khiếu kiện là gì. Thuật ngữ khiếu kiện được ghi nhận ở Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, theo đó, “Khiếu kiện” là một từ ghép để
nói lên quyền của cá nhân, tổ chức ở nước ta có quyền khiếu nại và khởi kiện về
một quyết định hành chính hay hành vi hành chính nào đó mà người khiếu kiện cho
rằng trái pháp luật, xâm hại hoặc đe dọa đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thông qua việc sử dụng thuật ngữ này tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính năm 1996 và việc sử dụng của các nhà nghiên cứu thì nó được hiểu
theo hai cách:
Thứ nhất, theo nghĩa hẹp thì “khiếu kiện” được hiểu là việc cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị
cá nhân, tổ chức khác xâm phạm. Với ý nghĩa này thì khái niệm khiếu kiện đồng
nhất với khái niệm khởi kiện. (Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, 2000)
Thứ hai, theo nghĩa rộng, “khiếu kiện” là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức
khiếu nại đến cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa

án yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị các nhân, cơ quan, tổ
chức khác xâm phạm. (Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, 2000)
Khái niệm khiếu kiện trong đề tài nghiên cứu này được hiểu theo nghĩa rộng.
2.1.1.2 Khiếu kiện về đất đai, giải quyết khiếu kiện về đất đai
 Khiếu kiện về đất đai
Khiếu kiện về đất đai là một khái niệm dùng để chỉ việc các cá nhân, cơ
quan, tổ chức đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc Tòa án nhân dân bảo
vệ quyền lợi, lợi ích của họ trong lĩnh vực đất đai.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

 Giải quyết khiếu kiện về đất đai
Giải quyết khiếu kiện về đất đai là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
hoặc Tòa án nhân dân tiến hành giải quyết bất đồng, mâu thuẫn của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong lĩnh vực đất đai;
2.1.2 Đặc điểm khiếu kiện về đất đai
Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự nên bên cạnh
những đặc điểm chung của một khiếu kiện hành chính, khiếu kiện về đất đai còn
mang những đặc điểm đặc trưng riêng khác biệt. Sự khác biệt đó thể hiện ở những
điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đối tượng của khiếu kiện về đất đai là quyền quản lý, quyền sử
dụng và những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng tài sản đặc biệt đó. Đất đai là
loại tài sản đặc biệt, thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
Thứ hai, chủ thể của khiếu kiện về đất đai chỉ có thể là chủ thể của quyền
quản lý và quyền sử dụng đất mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai.
Quyền sử dụng đất của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho
thuê đất của Nhà nước hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các
chủ thể khác hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với
diện tích đất đang sử dụng. Như vậy, việc các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thực
hiện khiếu kiện của mình với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoặc cơ quan có thẩm

quyền (Nhà nước) với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất.
Thứ ba, nội dung của khiếu kiện về đất đai rất đa dạng và phức tạp. Hoạt
động quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong
phú với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử
dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất không
đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất. Đất đai đã trở thành
một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại, giá đất lại biến động theo quy luật
cung cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử dụng nó không đơn thuần chỉ là
việc khai thác giá trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất (thông qua
các hành vi kinh doanh quyền sử dụng đất). Tất nhiên, khi nội dung quản lý và sử
dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh
việc quản lý và sử dụng đất đai cũng trở nên gay gắt và trầm trọng hơn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

Thứ tư, khiếu kiện về đất đai phát sinh gây hậu quả xấu về nhiều mặt như:
Có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất, ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp mà còn
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.
2.1.3 Phân loại khiếu kiện về đất đai
Phân loại khiếu kiện là việc làm cần thiết để hiểu rõ các loại khiếu kiện, là
cách thức để tìm kiếm sự trùng lập, chồng chéo của từng loại khiếu kiện, đảm bảo
cho quá trình nghiên cứu tiếp cận một cách bao quát, trọn vẹn, hoàn chỉnh, cơ sở
khách quan cho việc xác định mô hình giải quyết khiếu kiện tương ứng, trách sự
chồng chéo, đổ lỗi cho nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu
kiện. Việc phân loại có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau:
Theo chủ thể giải quyết khiếu kiện về đất đai bao gồm hai loại: khiếu nại
đến các cơ quan hành chính Nhà nước (UBND các cấp) và khởi kiện tại Tòa án có
thẩm quyền;

Theo lĩnh vực liên quan đến quá trình quản lý và sử dụng đất đai thì
khiếu kiện bao gồm:
- Khiếu kiện về bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB), hỗ trợ, tái định cư
(TĐC): Nhà nước đã tiến hành thu hồi đất, GPMB phục vụ cho các dự án phát triển.
Tuy nhiên vấn đề bồi thường và hỗ trợ và tiến hành TĐC cho những diện tích bị thu
hồi đất ở nhiều địa phương gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Một số dự án chưa
có khu TĐC hoặc chưa giải quyết TĐC đã quyết định thu hồi đất ở. Những trường
hợp bị thu hồi đất ở thì tiền bồi thường không đủ để mua nhà ở mới tại khu TĐC.
Giá đất bồi thường thấp hơn giá đất cùng loại trên thị trường, đặc biệt là đối với đất
nông nghiệp trong khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn. Tiền bồi thường đất nông
nghiệp thường không đủ để nhận chuyển nhượng diện tích đất nông nghiệp tương tự
hoặc không đủ để nhận chuyển nhượng đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp để
chuyển sang làm ngành nghề khác…. dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài;
- Khiếu kiện về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ): Đây là dạng khiếu kiện rất phổ biến hiện nay. Dạng này phát sinh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

một phần từ sai sót của cơ quan có thẩm quyền, như: Cấp GCNQSDĐ sai sót về tên
chủ sử dụng, sơ đồ thửa đất, diện tích Có những trường hợp, không cấp
GCNQSDĐ mà không có lý do chính đáng hoặc lý do không rõ ràng. Các cơ quan
có thẩm quyền trong quá trình giải quyết lại không giải thích rõ cho dân hiểu lý do
tại sao không cấp giấy. Quá trình giải quyết hồ sơ diễn ra chậm, gây phiền hà, sách
nhiễu gây khó khăn cho người sử dụng đất. Một nguyên nhân khác là do quy
hoạch treo hoặc do người dân không chấp nhận dù lý do không cấp GCNQSDĐ là
chính đáng.
- Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm chế độ quản
lý, sử dụng đất đai: Nội dung khiếu kiện này cũng có nhiều dạng, một số người dân
không nắm rõ về Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, Tố cáo nên phát sinh tình trạng vi
phạm pháp luật hoặc các trường hợp lấn chiếm, vi phạm quy tắc xây dựng. Một số

người mặc dù khá am hiểu pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm, khi bị phát hiện và
xử phạt thì ngoan cố khiếu nại. Bên cạnh đó, cũng có phần trách nhiệm của các cơ
quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết như ra quyết định xử phạt sai đối
tượng, bị nhầm lẫn, sai tên chủ sử dụng, việc thi hành quyết định xử phạt có sai sót
hoặc sai pháp luật, việc ra quyết định không đúng căn cứ pháp luật, việc ra quyết
định quá nhẹ hoặc quá nặng hoặc thiếu trách nhiệm, thiếu khách quan;
- Khiếu kiện về tranh chấp đất đai: Đây là loại khiếu kiện chiếm tỷ lệ lớn
nhất hiện nay tại các địa phương. Dạng này liên quan nhiều đến việc sử dụng đất đai
của các hộ, gia đình, cá nhân. Trên thực tế, thường xuất hiện các dạng tranh chấp về
đất đai phổ biến sau:
 Tranh chấp về quyền sử dụng đất:
Đây là loại tranh chấp luôn có sự tham gia của hai hay nhiều bên. Các bên
tranh chấp với nhau về quyền quản lý và quyền sử dụng đất. Trong loại tranh chấp
này có thể chia nhỏ thành các dạng tranh chấp sau:
(1)Tranh chấp giữa những người sử dụng đất với nhau về ranh giới giữa
những vùng đất được phép sử dụng và quản lý.
Loại tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới sử dụng hoặc
do các bên không xác định được với nhau, nó thường xảy ra với các trường hợp đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

đai được chuyển nhượng qua tay nhiều người hoặc do sai sót từ phía cơ quan nhà
nước trong quá trình đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ);
(2) Tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ
thừa kế
Đây có thể là trường hợp người có quyền sử dụng đất chết không để lại di
chúc và những người thừa kế theo pháp luật không thỏa thuận được với nhau về
việc phân chia di sản thừa kế hoặc không hiểu biết về các qui định của pháp luật
thừa kế nên dẫn đến việc phát sinh tranh chấp hoặc cũng có thể người có quyền sử
dụng đất trước khi chết có lập di chúc để lại thừa kế quyền sử dụng đất nhưng di

chúc đó trái pháp luật;
(3) Tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ
li hôn giữa vợ và chồng.
Đây là trường hợp khi ly hôn, hai vợ chồng không tự thỏa thuận được việc phân
chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất nên yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chia theo công sức đóng góp của mỗi người;
(4) Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của người
thân trong những giai đoạn trước đây mà qua các cuộc điều chỉnh ruộng đất đã được
chia, cấp cho người khác;
(5) Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của dòng
họ, nhà thờ tổ, thánh thất, chùa chiền…do hoàn cảnh đất nước, do yếu tố lịch sử để
lại, các cơ sở này được Nhà nước mượn, trưng dụng, sử dụng vào các mục đích
khác nhau nay họ đòi lại;
(6) Tranh chấp giữa đồng bào dân tộc ở địa phương với đồng bào đi xây
dựng vùng kinh tế mới; giữa đồng bào địa phương với các nông trường, lâm trường
và các tổ chức sử dụng đất khác;
(7) Tranh chấp giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã với nhau. Đây
là những tranh chấp diễn ra ở các khu vực có vị trí thuận lợi cho phát triển kinh tế
nhưng sự phân chia ranh giới hành chính chưa rõ ràng dẫn đến tranh chấp phát sinh.
 Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử
dụng đất:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

Đây là loại tranh chấp mà một bên trong quan hệ đất đai vi phạm, làm cản
trở tới việc thực hiện đến quyền của bên kia hoặc một bên không thực hiện đúng
và đầy đủ nghĩa vụ của mình. Tranh chấp này có một số dạng như: Tranh chấp
trong quá trình thực hiện hợp đồng về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
đất. Hiện nay đây là loại tranh chấp phổ biến và có số lượng, mức độ phức tạp lớn

nhất, đặc biệt là các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
 Tranh chấp về mục đích sử dụng đất
Các tranh chấp này hiện nay cũng diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là tranh chấp
trong nhóm đất nông nghiệp, đó là tranh chấp giữa đất trồng lúa và đất nuôi tôm, giữa
đất trồng cây hàng năm với đất trồng cây lâu năm, giữa đất nông nghiệp với đất thổ
cư… trong quá trình phân bổ và qui hoạch sử dụng đất
Các KKĐĐ trên đây phát sinh giữa những chủ thể sau:
Thứ nhất, phát sinh giữa những người sử dụng đất với nhau (bao gồm giữa
hộ gia đình, cá nhân với nhau giữa hộ gia đình, cá nhân với tổ chức; giữa tổ chức
với tổ chức) liên quan đến quyền và nghĩa vụ sử dụng đất.
Thứ hai, phát sinh giữa những người sử dụng đất với cơ quan nhà nước (cơ
quan công quyền) liên quan đến việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai;
2.1.4 Nguyên nhân phát sinh khiếu kiện về đất đai
Mỗi khiếu kiện về đất đai đều có nguyên nhân, tuy tính chất, mức độ, phạm
vi khác nhau nhưng nhìn chung các khiếu kiện về đất đai đều gây ra những hậu quả
làm ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Do đó, cần phải tìm ra nguyên nhân để đề xuất
những biện pháp hiệu quả nhằm giải quyết, ngăn ngừa và hạn chế tối đa những
tranh chấp có thể xảy ra. Từ thực tế của hiện tượng khiếu kiện về đất đai có thể chỉ
ra một số nguyên nhân chủ yếu sau:
 Nguyên nhân khách quan
Do sự thay đổi cơ chế quản lý đất đai theo cơ chế thị trường làm cho đất đai
ngày càng trở nên có giá. Mặt khác, do sự gia tăng dân số trong khi diện tích đất có
hạn; do sửa đổi Luật cư trú với các điều kiện nới lỏng cho phép công dân được tự
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

do cư trú; khuyến khích, tạo điều kiện cho người nước ngoài, Việt kiều được mua
nhà tại Việt Nam đã làm góp phần phát sinh tranh chấp, khiếu kiện về đất đai.
 Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, chính sách, pháp luật đất đai và các chính sách, pháp luật liên quan
đến đất đai thiếu tính thống nhất, không đồng bộ qua các thời kỳ; Luật Đất đai, Bộ
Luật Tố tụng dân sự, Luật Khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính còn chồng chéo, mâu thuẫn, không thống nhất. Chính sách, pháp luật
về đất đai chưa theo kịp cơ chế kinh tế thị trường, đặc biệt là chính sách tài chính
đất đai chưa điều tiết hoặc đã điều tiết, phân phối nhưng chưa hợp lý phần giá trị
tăng thêm mang lại từ đất khi sử dụng đất cho các dự án đầu tư như trong công tác
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, TĐC cho người có đất bị thu hồi
Thứ hai, do nhận thức của người dân về sở hữu đất đai không đồng nhất với
các quy định của Pháp luật; vẫn còn tồn tại các phong tục, tập quán truyền thống,
hương ước, luật tục với những quy định lạc hậu về sở hữu đất đai chưa được loại bỏ
đã "ăn sâu, bám rễ" trong tiềm thức của một bộ phận dân chúng vốn ít có điều kiện
tiếp xúc với pháp luật. Trong tiềm thức của một bộ phận dân chúng (đặc biệt là
những người dân sống ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa hoặc người dân có
trình độ học vấn thấp) vẫn tồn tại quan niệm đất đai là của ông cha, tổ tiên để lại.
Hoặc cũng có một số người dân quan niệm rằng đất đai là của Nhà nước nhưng khi
Nhà nước đã giao cho sử dụng ổn định lâu dài và cấp GCNQSDĐ thì là của họ.
Chính vì nhận thức không đúng này nên trong điều kiện kinh tế thị trường, đất đai
ngày càng trở lên có giá thì tình trạng KKĐĐ ngày càng tăng.
Ngoài ra, còn do các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ có nhiều biến đổi,
anh em, con cháu,… không đoàn kết, mâu thuẫn về quyền lợi, lợi ích, …phát sinh
khiếu kiện về đất đai.
Thứ ba, do cơ chế quản lý, sử dụng đất đai lỏng lẻo, chưa đầy đủ và phù
hợp. Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương cải cách hành chính nhưng kết quả thu
được chưa tích cực. Có thể thấy công tác quản lý đất đai còn bộc lộ nhiều yếu kém.
Sự phân công, phân cấp cho quá nhiều ngành làm cho việc quản lí thiếu thống nhất,
chặt chẽ. Công tác phân vùng qui hoạch làm chậm, thiếu đồng bộ. Việc giải quyết
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12


tranh chấp, khiếu nại, tố cáo còn yếu và chưa nghiêm túc. Việc giao đất, cho thuê
đất, thu hồi đất… ở nhiều điều phương vẫn thể hiện sự tùy tiện, việc lơi lỏng trong
thanh kiểm tra về đất đai, việc chậm trễ trong cấp GCNQSDĐ là lý do của rất nhiều
KKĐĐ nảy sinh và lan rộng. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức thực hiện công vụ liên quan đến đất đai còn thiếu gương mẫu, tùy tiện trong
quản lý, vi phạm chế độ quản lý và sử dụng đất đai.
Thứ tư, do công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về đất đai còn dựa vào
cảm tính chủ quan, nể nang, chưa đúng pháp luật và thiếu công bằng;
Công tác xét xử các vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa án còn
bộc lộ những hạn chế, lúng túng nhất định khi áp dụng pháp luật về đất đai, pháp
luật dân sự, đường lối chính sách của Nhà nước về đất đai trong từng giai đoạn lịch
sử dẫn đến một số bản án, quyết định của Tòa án còn chưa thật sự chính xác thiếu
khách quan. Chất lượng xét xử của Tòa án trong một số vụ chưa cao, có vụ án phải
xét xử đi xét xử lại nhiều lần, kéo dài; có những vụ án có sai lầm trong áp dụng
pháp luật, cấp trên phải sửa đổi hoặc hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. .
Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai ở các địa phương
nhìn chung hiệu quả chưa cao, thiếu kịp thời, chưa dứt điểm còn để tồn đọng nhiều
đơn thư chưa giải quyết.
Thứ năm, do việc thực thi chính sách pháp luật đất đai nói chung và pháp
luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng, công tác cấp GCNQSDĐ nói riêng còn
nhiều tồn tại, thiếu sót;
Thứ sáu, công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật chưa thực sự
được coi trọng, vẫn mang nặng tính hình thức, chưa hiệu quả.
Tuy nhiên, việc khiếu kiện ở mỗi địa phương khác nhau còn có những
nguyên nhân đặc thù và việc tìm ra những nguyên nhân đó phải căn cứ vào thực tế sử
dụng đất, và phong tục tập quán của từng địa phương để xây dựng được những giải
pháp tốt nhất nhằm giải quyết có hiệu quả từng vụ tranh chấp.
2.1.5 Các nguyên tắc giải quyết khiếu kiện về đất đai
Giải quyết KKĐĐ là mong muốn của các bên khiếu kiện vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của họ đồng thời cũng là trách nhiệm của Nhà nước bởi Nhà

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

nước là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai. Khi KKĐĐ không được giải quyết hoặc
giải quyết không thỏa đáng sẽ tác động đến sự ổn định xã hội, quá trình phát triển
đất nước. Bởi vậy khi giải quyết khiếu kiện về đất đai, đòi hỏi phải tuân thủ triệt để
hệ thống các nguyên tắc sau:
1) Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn, Nhà nước thực hiện vai trò là
người đại diện cho chủ sở hữu.
Cơ sở của nguyên tắc này được xây dựng dựa trên vị trí, vai trò quan trọng
của đất đai. Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất không thể
thiếu. Đất đai gắn liền với chủ quyền quốc gia. Bởi vậy sở hữu đất đai không chỉ có
ý nghĩa kinh tế mà còn bao hàm ý nghĩa chính trị - pháp lí.
Đây là nguyên tắc rất cơ bản trong hoạt động giải quyết KKĐĐ, đòi hỏi khi
xem xét, giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong quan hệ pháp luật đất đai đều phải
thực hiện trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân, bảo vệ quyền lợi cho người đại
diện của chủ sở hữu, bảo vệ thành quả cách mạng về ruộng đất, không thừa nhận
việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách
đất đai qua các thời kỳ.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân nghĩa là đất đai không thuộc sở hữu riêng của
bất cứ tổ chức, cá nhân nào. Các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư, hộ gia đình
chỉ là chủ thể có quyền quản lý và quyền sử dụng đất. Việc sử dụng đất của họ phải
đảm bảo đúng qui hoạch, kế hoạch, mục đích sử dụng đất, sử dụng tiết kiệm, hiệu
quả, bảo vệ môi trường.
2) Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất nhất là lợi ích kinh tế,
khuyến khích việc tự hòa giải, thương lượng trong nội bộ quần chúng nhân dân.
Đây là nguyên tắc thể hiện tư tưởng đổi mới trong quá trình Nhà nước điều
hành các quan hệ xã hội về đất đai. Xét cả về lý luận và thực tiễn, khi quyết định tham
gia vào một quan hệ nào đó, cái mà người ta mong muốn đạt được nhất chính là một
lợi ích nào đó. Trong quan hệ đất đai cũng vậy, lợi ích là mối quan tâm hàng đầu của

các bên. Nếu lợi ích của người sử dụng đất không được bảo đảm thì việc giải quyết
khiếu kiện cũng không mang lại hiệu quả như mong muốn. Do đó khi giải quyết cần
phải hài hòa lợi ích kinh tế của các bên.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

Mặt khác nguyên tắc này cũng đòi hỏi khi giải quyết khiếu kiện, cần khuyến
khích các bên tự hòa giải, thương lượng với nhau, nhất là các khiếu kiện về TCĐĐ.
Đây là cơ sở quan trọng đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự, tiết kiệm thời
gian và làm giảm áp lực lên các cơ quan giải quyết cấp trên.
3) Nguyên tắc giải quyết KKĐĐ phải nhằm mục đích ổn định tình hình kinh tế, xã
hội, gắn việc giải quyết KKĐĐ với việc tổ chức lại sản xuất, tạo điều kiện cho lao động ở
nông thôn có việc làm phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Vì KKĐĐ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội nên khi giải quyết tốt
KKĐĐ sẽ góp phần làm cho tình hình kinh tế - xã hội được ổn định, phát triển sản
xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống nhân dân. Khi giải quyết khiếu kiện cần căn cứ
vào hiện trạng sử dụng đất, bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng đất ổn định lâu dài.
Mặt khác, vì giải quyết KKĐĐ là một nội dung của QLNN do đó mà các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết khiếu kiện phải chú ý gắn liền với việc tổ
chức lại sản xuất, tạo điều kiện cho lao động ở nông thôn có việc làm phù hợp với
quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cơ cấu kinh tế vì thế cũng cần chú ý đến
đặc điểm của từng vùng để có hướng giải quyết phù hợp.
2.1.6 Những tác động của khiếu kiện về đất đai đối với đời sống kinh tế xã hội
Hiện nay, KKĐĐ diễn ra phổ biến với số lượng ngày càng tăng, tính chất,
mức độ càng phức tạp và phạm vi ngày càng rộng. Điều này đã gây áp lực lớn đến
các mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Về phương diện chính trị: các KKĐĐ phát sinh nếu không giải quyết kịp
thời, triệt để thì có thể gây mất lòng tin trong nhân dân từ đó làm giảm hiệu quả
trong việc thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước.
Về phương diện kinh tế: khi các khiếu kiện xảy ra trước hết nó ảnh hưởng
trực tiếp đến tâm lý, thời gian, tiền bạc của các bên sau đó làm ảnh hưởng đến hoạt
động của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó nó có thể làm ngưng trệ, đình đốn các
hoạt động sản xuất kinh doanh, gây thiệt hại đến lợi ích của các bên, lợi ích của nhà
nước và xã hội.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

Về phương diện xã hội: Các KKĐĐ là một trong nguyên nhân gây nên rạn
nứt trong mối quan hệ tình cảm giữa cha mẹ, vợ chồng, anh chị em… từ đó phá vỡ
các chuẩn mực đạo đức xã hội, trong nhiều trường hợp còn dẫn đến việc vi phạm
hình sự kéo theo hàng loạt phức tạp khác tác động tiêu cực đến tình hình an ninh
trật tự xã hội.
Như vậy khi xem xét tác động của KKĐĐ đối với các mặt của đời sống xã
hội, chúng ta thấy được mức độ nguy hại cũng như tính cấp bách trong việc tìm ra
các giải pháp hiệu quả để giải quyết các khiếu kiện này nhằm ổn định xã hội, tạo đà
cho phát triển kinh tế đất nước.
2.1.7 Nội dung giải quyết khiếu kiện về đất đai
Nghiên cứu nội dung giải quyết khiếu kiện về đất đai chúng tôi tập trung vào
nghiên cứu phương thức giải quyết khiếu kiện về đất đai. Trước hết, về thực trạng
giải quyết KKĐĐ ở huyện Yên Khánh chúng tôi phân biệt rõ mối quan hệ chủ thể
tham gia quan hệ đất đai.
Một là, khiếu kiện thể hiện mối quan hệ giữa người sử dụng đất với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền về quản lý trong lĩnh vực đất đai. Bao gồm các loại khiếu
kiện sau: khiếu kiện về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, khiếu kiện về việc cấp, thu
hồi GCNQSDĐ, khiếu kiện về quyết định xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm
chế độ quản lý, sử dụng đất đai;
Hai là, khiếu kiện thể hiện mối quan hệ giữa các các nhân, tổ chức bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ trong việc sử dụng đất bao gồm tất cả các khiếu kiện về tranh

chấp đất đai.
Theo Luật Đất đai năm 2003 quy định các KKĐĐ được giải quyết theo các
phương thức sau: (1) Hoà giải; (2) Giải quyết bởi cơ quan hành chính; (3) Giải
quyết thông qua Toà án.
Về hoà giải KKĐĐ: Theo Quy định của Luật đất đai năm 2003 và Điều 159
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, hoà giải KKĐĐ được thực hiện
theo ba bước sau đây:
(1) Các bên tự thương lượng
(2) Hoà giải cơ sở
(3) Hoà giải tại UBND cấp xã nơi có KKĐĐ

×