Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SO SÁNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.66 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA LUẬT KINH TẾ
BÀI THUYẾT TRÌNH
SO SÁNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN HỮU
HÌNH VÀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
NGƯỜI THỰC HIỆN :
TRẦN THANH HOÀNG
NGUYỄN VĂN CƯỜNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2015

SO SÁNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN HỮU HÌNH
VÀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH
I- QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN HỮU HÌNH
1.1- Khái niệm về quyền sở hữu:
Quyền sở hữu là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản của chủ sở hữu
Mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền
năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong điều kiện nhất định
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
- Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản.
- Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản.
- Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ
quyền sở hữu đó.
1.2- Khái niệm chủ sở hữu:
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền


chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.
Chủ sở hữu là người được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với
tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
2- NỘI DUNG QUYỀN SỞ HỮU:
2.1 Quyền chiếm hữu
Quyền chiếm hữu là quyền năng của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý
tài sản thuộc sở hữu. Đó cũng là quyền kiểm soát, làm chủ và chi phối vật đó theo
ý chí của mình, không bị hạn chế và gián đoạn về thời gian.
Trong thực tế, chủ sở hữu thường tự mình thực hiện quyền chiếm hữu tài sản
hay còn gọi là quyền chiếm hữu thực tế. Trong một số trường hợp chủ sở hữu
chuyển giao quyền này cho người khác thông qua một hợp đồng dân sự theo ý chí
của họ hoặc không theo ý chí của họ như: bị đánh rơi, bỏ quên, thất lạc, chôn giấu
chưa tìm thấy,… thì chủ sở hữu vẫn có quyền chiếm hữu pháp lý đối với tài sản đó.
Nghĩa là pháp luật vẫn công nhận quyền chiếm hữu của chủ sở hữu, dù rằng người
đó không trực tiếp nắm giữ và chi phối. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu chỉ chấm
dứt hoàn toàn khi chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình; đã quyết định bán, trao
đổi, tặng cho,… hoặc theo các căn cứ được quy định .
2.1.1 Chiếm hữu hợp pháp
Là hình thức chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật. Sự chiếm hữu được coi
là hợp pháp, trước hết đó là sự chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu. Người không
phải là chủ sở hữu mà chiếm hữu thì được coi là chiếm hữu hợp pháp khi có
những căn cứ sau:
QUYỀN SỞ HỮU
QUYỀN CHIẾM HỮU QUYỀN ĐỊNH ĐOẠTQUYỀN SỬ DỤNG
CHIẾM HỮU BẤT HỢP
PHÁP
CHIẾM HỮU HỢP PHÁP
CHIẾM HỮU BẤT HỢP PHÁP
NGAY TÌNH

CHIẾM HỮU BẤT HỢP PHÁP
KHÔNG NGAY TÌNH
Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản : Khi chủ sở hữu uỷ quyền
quản lý tài sản cho người khác thì người được uỷ quyền thực hiện quyền chiếm
hữu tài sản đó trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định
Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù
hợp với ý chí của chủ sở hữu. Người được giao tài sản có quyền sử dụng tài sản
được giao, được chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đó cho người khác, nếu
được chủ sở hữu đồng ý.
Người phát hiện và giữ các tài sản vô chủ, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị
chôn dấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định.
Các trường hợp khác do pháp luật quy định như: Chiếm hữu trên cơ sở một
mệnh lệnh của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc do pháp luật quy định
có quyền đương nhiên chiếm hữu vật.
2.1.2 Chiếm hữu bất hợp pháp
Là việc chiếm hữu của một người đối với một tài sản mà không dựa trên
những cơ sở của pháp luật. Cụ thể là những trường hợp mà người chiếm hữu một
tài sản nhưng không phải là chủ sở hữu hoặc không chiếm hữu theo những căn cứ
do Bộ luật dân sự đã quy định cụ thể tại các điều luật nêu trên.
Trong việc chiếm hữu bất hợp pháp thường xảy ra hai khả năng sau đây:
Chiếm hữu bất hợp pháp ngay tình: là người chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật theo quy định của luật dân sự nhưng không biết và không thể biết việc
chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật . Tức là, luật không buộc người
đó phải biết tính bất hợp pháp trong việc chiếm hữu của mình.
Chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình: là người chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật biết đó là chiếm hữu bất hợp pháp hoặc tuy không biết nhưng cần phải
biết rằng, người chuyển dịch tài sản cho mình là người không có quyền chuyển
dịch.
Ngoài ra trong những điều kiện nhất định: liên tục, công khai và trong một
khoảng thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản,

thì người chiếu hữu bất hợp pháp nhưng ngay tình còn được hưởng quyền xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu. Họ có thể trở thành chủ sở hữu các tài sản dó kể từ
thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Quy định này không áp dụng nếu tài sản đó thuộc sở
hữu toàn dân
2.2- Quyền sử dụng:
Là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của tài sản
trong phạm vi cho phép. Nguyên tắc chung là “việc khai thác những giá trị sử dụng
của tài sản nhằm để thỏa mản những nhu cầu về sử dụng của tài sản nhằm để thỏa
mãn nhu cầu về sinh hoạt vật chất hoặc tinh thần cho bản thân mình”.
Như vậy, việc sử dụng một tài sản là một trong những quyền năng quan
trọng và có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tực của tài sản theo ý chí tùy nghi của mình. Thông
thường, chủ sở hữu trực tiếp sử dụng tài sản của mình nhưng cụ thể được chuyển
giao cho người khác trên cơ sở một hợp đồng hợp pháp của chủ sở hữu.
Quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu:
Quyền sử dụng tài sản có thể được chuyển giao cho người khác thông qua
hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Người không phải là chủ sở hữu có
quyền sử dụng tài sản đúng tính năng, công dụng, đúng phương thức.
Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền
sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật.
Tóm lại: Quyền sử dụng là một quyền năng mà pháp luật quy định cho chủ
sở hữu (hoặc người chiếm hữu hợp pháp) được phép sử dụng các tài sản của mình
nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hoặc sản xuất, kinh doanh. Nhưng việc sử
dụng đó không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, trái với đạo đức xã hội.
2.3- Quyền định đoạt
Là một quyền năng của chủ sở hữu để quy định về “số phận” của vật .Chủ
sở hữu thực hiện quyền định đoạt biểu hiện ở hai khía cạnh:
Định đoạt về số phận của các vật (tức là làm cho vật không còn trong thực tế
nữa) như: tiêu dùng hết, hủy bỏ, hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật .

Định đoạt về số phận pháp lý của vật là việc làm chuyển giao quyền sở hữu
đối với vật từ người này sang người khác . Thông thường định đoạt về số phận
pháp lý của vật phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu như
bán , trao đổi , tặng cho, cho vay, để thừa kế… thông qua việc định đoạt mà chủ sở
hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi
giữ); quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời hạn (trong
hợp đồng cho thuê , cho mượn) hoặc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản
cho người khác bằng hợp đồng bán , đổi, cho… Việc một người thực hiện quyền
định đoạt đối với vật sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên
quan đến vật đó .
Ngoài ra , vì lợi ích chung của xã hội và để đảm bảo ổn định giao lưu dân sự
trong những trường hợp nhất định Bộ luật dân sự còn quy định việc hạn chế quyền
định đoạt tài sản của chủ sở hữu . Đó là những trường hợp bị kê biên , hoặc tài sản
đã được đem đi làm vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ . Nếu các quan hệ đặt
cọc , thế chấp chấm dứt , quyết định kê biên tài sản cả cơ quan nhà nước cơ thẩm
quyền không còn hiệu lực, thì quyền định đoạt của chủ sở hữu lại được khôi phục .
3. XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU:
Căn cứ để xác lập quyền sở hữu là những sự kiện pháp lý do Bộ luật dân sự
quy định. Dựa vào nguồn gốc của những sự kiện pháp lý có thể chia thành ba
nhóm sau đây:
3.1 Xác lập theo hợp đồng hoặc giao dịch một bên
* Xác lập quyền sở hữu theo thoả thuận
* Xác lập quyền sở hữu do được thừa kế theo di chúc
3.2 Xác lập theo quy định của pháp luật
* Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do hoạt
động sản xuất, kinh doanh hợp pháp
* Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức
* Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp sáp nhập, trôn lẫn, chế biến.
* Xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được
chủ sở hữu

* Xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm
thấy
* Xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên
* Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị
* Xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế theo pháp luật.
3.3 Xác lập theo những căn cứ riêng biệt
* Xác lập quyền sở hữu theo bản án, quyết định của Toà án hoặc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
* Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
4. CHẤM DỨT QUYỀN SỞ HỮU
Về nguyên tắc chung, những căn cứ được xác lập quyền sở hữu cũng đồng
thời là những căn cứ chấm dứt quyền sở hữu. Việc chấm dứt quyền sở hữu cũng có
thể theo ý chí của chủ sở hữu hoặc do pháp luật quy định.
4.1 Chấm dứt quyền sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu.
* Chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác :
* Từ bỏ quyền sở hữu:
4.2 Chấm dứt quyền sở hữu theo những căn cứ do pháp luật quy định
* Xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu :
* Tài sản bị trưng mua:
* Tài sản bị tịch thu:
* Tài sản mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu:
Ngoài ra: Tài sản bị tiêu huỷ:
- Khi tài sản bị tiêu huỷ thì quyền sở hữu đối với tài sản đó chấm dứt.
5. PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở
hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy
định của pháp luật.
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc

thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bộ luận dân sự ghi nhận và phân biệt nhiều phương thức kiện dân sự khác
để bảo vệ quyền sở hữu. Vì vậy vấn đề là phải chọn phương thức nào cho phù hợp
với mức độ và những tình tiết cụ thể của vụ việc.
5.1 Kiện đòi tài sản:
Là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu toà án buộc người
có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình.
* Quyền đòi lại tài sản từ người không có căn cứ pháp luật và không ngay
tình
* Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người
* Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản
từ người chiếm hữu ngay tình
5.2- Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối
với việc thực hiện quyền sở hữu,quyền chiếm hữu hợp pháp:
- Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải
chấm dứt hành vi đó.
- Nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
- Phương thức kiện này nhằm bảo đảm chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp
pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.
5.3 Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại:
6. QUYỀN CỦA CHỦ THỂ KHÁC
Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề
• Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề
• Quyền mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản
liền kề
• Quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề
• Quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác
II- QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thuật ngữ Sở hữu trí tuệ và Quyền sở
hữu trí tuệ được chính thức sử dụng từ Bộ luật dân sự năm 1995 và các đạo luật
được ban hành sau đó. Mặc dù không được định nghĩa trực tiếp song cấu trúc và
nội dung phần thứ 6 Bộ luật dân sự cho thấy: Quyền sở hữu trí tuệ là một chế định
pháp lý gồm quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật quy định
và bảo hộ. Đó là một loại hình quyền sở hữu đặc biệt mà đối tượng là các sản phẩm
sáng tạo do lao động trí óc con người tạo ra, là sản phẩm trí tuệ con người. Bộ luật
dân sự năm 2005 đã bổ sung thêm đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là quyền đối
với giống cây trồng.
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009 đã đưa ra khái
niệm : Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ,
bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng , vậy quyền sở hữu trí tuệ gồm :
- Quyền tác giả (tác phẩm khoa học, văn học, nghệ thuật ).
- Quyền liên quan đến quyền tác giả (cuộc biểu diễn, bản ghi âm ghi hình,
chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa).
- Quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh
doanh,
- Quyền đối với giống cây trồng (vật liệu nhân giống, vật liệu thu hoạch)
Khái niệm quyền tác giả và các quyền liên quan
Quyền tác giả bao gồm một tập hợp quyền dành cho người sáng tạo đối với
các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ. Các tác giả, và người thừa kế của họ,
nắm giữ các độc quyền để sử dụng hoặc cấp phép cho người khác sử dụng tác
phẩm theo các điều kiện thỏa thuận. Người sáng tạo ra một tác phẩm có thể ngăn
cấm hoặc cho phép, ví dụ:
Sao chép lại tác phẩm dưới hình thức khác nhau, chẳng hạn như ấn phẩm
hoặc bản ghi âm;
Biểu diễn tác phẩm cho công chúng, như trong trường hợp một vở diễn hoặc
tác phẩm âm nhạc

Phát sóng tác phẩm, bao gồm phát thanh, truyền hình hoặc phát qua vệ tinh;
Dịch tác phẩm sang ngôn ngữ khác, hoặc phóng tác tác phẩm, chẳng hạn
như chuyển thể một tiểu thuyết thành phim.
Quyền tác giả áp dụng cho nhiều loại hình khác nhau của tác phẩm nghệ
thuật, bao gồm hội họa, âm nhạc, thơ, vở diễn, sách, kiến trúc và múa, đồng thời áp
dụng cho những tác phẩm thường không được coi là nghệ thuật như phần mềm
máy tính, bản đồ và bản vẽ kỹ thuật.
Các quyền liên quan đến quyền tác giả: là những quyền đã phát triển trong
khoảng chừng 50 năm gần đây, "xung quanh" quyền tác giả và bao gồm quyền của
người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của người đó, quyền của người chế tạo bản
ghi âm đối với bản ghi âm đó và quyền của tổ chức phát sóng đối với cuộc phát
sóng.
Quyền tác giả cũng có thể bao gồm quyền tinh thần, liên quan đến quyền
nhận danh nghĩa tác giả đối với một tác phẩm và quyền phản đối sự thay đổi tác
phẩm có thể gây hại cho uy tín của tác giả.
Quyền tác giả cùng với quyền sở hữu công nghiệp tạo thành hai bộ phận chính
của chế định quyền sở hữu trí tuệ là một chế định pháp luật quan trọng quy định về
các vấn đề thiết lập và bảo hộ quyền của những người sáng tạo ra các sản phẩm trí
tuệ, các sản phẩm vô hình, phi vật thể của con người. Sản phẩm trí tuệ của con
người có thể được chia thành hai loại: Sản phẩm phục vụ nhu cầu tinh thần, giải trí
(tác phẩm văn học, nghệ thuật, hội họa, sân khấu, điện ảnh…) và sản phẩm có tác
dụng về mặt công nghiệp, thương mại (phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp…). Loại sản phẩm đầu tiên được bảo hộ theo pháp luật về
quyền tác giả, còn loại sản phẩm thứ hai được bảo hộ theo pháp luật về quyền sở
hữu công nghiệp. Hai chế định pháp luật này là hai bộ phận chính cấu thành chế
định Quyền sở hữu trí tuệ.
Giữa hai quyền tác giả và sở hữu công nghiệp không có và không thể có
ranh giới tuyệt đối, bởi có những sản phẩm trí tuệ vừa có tác dụng về mặt công
nghiệp, thương mại nhưng vẫn có tác dụng phục vụ nhu cầu giải trí, tinh thần của
con người.

Đồng thời, có những sản phẩm trí tuệ không hoàn toàn mang tính giải trí hay
phục vụ nhu cầu tinh thần của con người cũng được bảo hộ theo luật về quyền tác
giả như các phần mềm máy tính. Cũng cần phải giải quyết mối quan hệ giữa quyền
tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đối với một số loại sản phẩm trí tuệ nhất định.
Như vậy, khái niệm "Quyền tác giả" được hiểu dưới hai góc độ:
Theo nghĩa rộng: Quyền tác giả là một chế định pháp luật là tổng thể các quy
phạm pháp luật xác định và bảo hộ các quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả,
chủ sở hữu tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; quy định việc bảo vệ, khôi phục
các quyền đó khi có hành vi xâm phạm. Như vậy, theo nghĩa rộng quyền tác giả
không chỉ quy định các quyền năng tác giả, người sáng tạo tác phẩm mà còn mở
rộng ra các vấn đề khác như đối tượng quyền tác giả, giới hạn quyền tác giả, thừa
kế quyền tác giả, hợp đồng sử dụng tác phẩm
Theo nghĩa hẹp: Quyền tác giả bao gồm tổng thể các quyền của tác giả đối
với tác phẩm mà mình đã sáng tạo ra.
Bản thân quyền tác giả cũng chứa đựng hai quyền: Quyền nhân thân và
quyền tài sản. Theo quy định tại Điều 738, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 (Phần
thứ sáu: Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ - Chương XXXIV: Quyền tác
giả và quyền liên quan - Mục 1: Quyền tác giả), tác giả có các quyền nhân thân
như: Đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; công bố,
phổ biến tác phẩm; cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình;
bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Các quyền tài sản của tác giả bao gồm: Được
hưởng nhuận bút; được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng; được hưởng các
lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác phẩm dưới các hình thức như
xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, cho
thuê
III- SO SÁNH QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN HỮU HÌNH VỚI QUYỀN
SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1- Quyền tác giả với quyền sở hữu tài sản hữu hình:
Quyền tác giả là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ, do vậy, quyền tác giả
có đầy đủ các đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ là một lĩnh

vực sở hữu đặc thù có đối tượng là các tài sản vô hình, tài sản phi vật thể hình
thành từ hoạt động sáng tạo của con người.
Chính điều này cho phép phân biệt giữa sở hữu trí tuệ (sở hữu tài sản
vô hình) và sở hữu tài sản thông thường (sở hữu tài sản hữu hình).
Sự khác biệt lớn nhất giữa hai loại sở hữu nói trên thể hiện ở chính đối
tượng sở hữu. Nếu như đối tượng của sở hữu tài sản thông thường là các tài sản
vật chất, hữu hình có thể tiếp cận về cơ học được, thì đối tượng của sở hữu trí tuệ
là các tài sản vô hình, phi vật thể, là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người,
con người không thể tiếp cận cơ học vào chúng, ví dụ như một phát minh, một giải
pháp hữu ích hay một bài thơ, một tác phẩm hội họa, một tác phẩm kiến trúc, mà
chỉ có thể tiếp cận được với chúng khi và chỉ khi chúng được thể hiện ra dưới một
hình thức vật chất nào đó: được in, vẽ trên giấy.
Chính sự khác biệt cơ bản đó đã dẫn đến sự khác nhau về khả năng chiếm
hữu đối tượng. Nếu như tài sản vật thể không được đặc định hóa thì việc chiếm
hữu có thể bằng cách khoanh vùng, cách ly nó khỏi những người khác thì với loại
đối tượng của quyền tác giả lại khác. Nếu tác giả sáng tác ra một tác phẩm và giữ
tuyệt đối bí mật không cho người khác biết, thì không nói làm gì. Nhưng một tác
phẩm cần phải đến được với công chúng, thì nó mới có sức sống. Khi mà nó đến
được với công chúng thì đây là một điểm khác biệt: ai cũng có thể được tiếp cận
với nó. Với quyền tác giả, không thể dùng phương pháp khoanh vùng, cách ly như
đối với tài sản vật thể. Chúng ta có thể thấy rằng vấn đề quan trọng nhất đặt ra trong
quyền sở hữu trí tuệ không còn là vấn đề chiếm hữu nữa, mà chính là vấn đề xác
định ai là người có quyền khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu.
Việc khai thác những đặc tính của đối tượng sở hữu do đó cũng khác
nhau. Với tài sản là vật thể, người ta có thể đánh giá được giá trị kinh tế của nó qua
một số tiêu chí như khả năng sinh lợi của nó trong tương lai do giá cả thị trường
lên xuống, do công năng của nó có thể vận hành đẻ ra lợi nhuận… tương đối chính
xác thì với quyền tác giả thì khía cạnh vật chất của nó không dễ dàng gì đánh giá
được. Nó có thể đem lại rất nhiều tiền, nhưng đồng thời có thể không mang lại
được đồng nào. Về khía cạnh này thì giữa hai loại đối tượng vật thể và phi vật thể

có sự tương đồng: hàng hóa nào cũng có nhóm đối tượng nhắm đến và khu vực địa
lý của mình, do có sự tương đồng trong mục đích thương mại của việc sử dụng.
Với quyền tác giả, ranh giới giữa người tiêu dùng và "tên kẻ cắp" tương đối mong
manh và còn phải có nhiều tranh cãi. Việc khai thác khía cạnh thương mại của
quyền tác giả nếu được sự cho phép của tác giả thì là hợp pháp, nhưng không được
cho phép là "ăn cắp".
Quyền tác giả, với tư cách là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ mang đầy
đủ hai đặc trưng: Có đối tượng sở hữu là các tài sản vô hình và quyền sử dụng,
khai thác đối tượng sở hữu có đặc tính thương mại. Đối tượng bảo hộ của quyền
tác giả chính là tác phẩm. Các tác phẩm này tồn tại dưới nhiều hình thức, thể loại
khác nhau: Tác phẩm viết, tác phẩm hội họa, tác phẩm sân khấu, tác phẩm âm
nhạc
Pháp luật không bảo hộ quyền tác giả tác phẩm khi nó mới chỉ là ý tưởng
sáng tạo. Để được bảo hộ, ý tưởng sáng tạo đó phải được thể hiện ra ngoài bằng
một hình thức cụ thể, bằng âm thanh, lời nói, chữ viết, hình khối, đường nét, màu
sắc, ký hiệu hoặc bất kỳ một phương tiện nào khác.
Ngoài ra, với tư cách là quyền dân sự, quyền tác giả có đặc trưng là một
quyền nhân thân gắn liền với tài sản. Là quyền nhân thân, quyền tác giả mang đầy
đủ các đặc tính pháp lý của các quyền nhân thân khác: Quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác. Bên cạnh đó, với đặc tính gắn
liền với tài sản, chủ thể quyền tác giả được hưởng các lợi ích vật chất phát sinh từ
đối tượng sở hữu của mình. Ở đây, quyền nhân thân chính là tiền đề, là cơ sở để
chủ thể hưởng quyền tài sản. Nói cách khác, quyền tài sản chính là hệ quả pháp lý
của quyền nhân thân.
Quyền tác giả là lĩnh vực pháp luật quy định sự bảo hộ đối với "tác phẩm
nguyên gốc do tác giả sáng tạo", bao gồm hội họa, điêu khắc, âm nhạc, tiểu thuyết,
thơ, kịch, kiến trúc, múa, tài liệu hướng dẫn, tư liệu kỹ thuật, phần mềm máy tính
và những tác phẩm khác. Sự bảo hộ pháp lý bắt nguồn từ việc một tác giả độc lập
sáng tạo ra tác phẩm và "sự thể hiện" của tác giả về một ý tưởng là sự thể hiện
nguyên gốc, thay vì nó được sao chép từ một người khác. Quyền tác giả có một

tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn tính mới trong bằng độc quyền sáng chế, tức là lĩnh
vực tập trung vào tính mới của ý tưởng hoặc khái niệm hữu ích, không tập trung
vào sự thể hiện ý tưởng. Khác với sáng chế, tác phẩm do tác giả sáng tạo không
cần mang tính hữu ích. Quyền tác giả chỉ dành cho sự thể hiện về ý tưởng hoặc
khái niệm, không dành cho bản thân ý tưởng hoặc khái niệm. Sự khác biệt giữa
quyền tác giả và bằng độc quyền sáng chế là "sự đối lập thể giữa sự hiện - ý
tưởng".
Không có một định nghĩa chung thế nào là tác phẩm thuộc phạm vi bảo hộ
của quyền tác giả. Thay thế người ta dùng một khái niệm bao quát là các "tác phẩm
văn học và nghệ thuật" - một tiêu chuẩn linh hoạt. Trên thực tế, bảo hộ quyền tác
giả đã được mở rộng tới cả những tác phẩm mà có thể người bình thường không
coi là tác phẩm văn học cũng không coi là tác phẩm nghệ thuật, chẳng hạn như
phần mềm máy tính hoặc tài liệu kỹ thuật.
Trên thực tế, cũng khó có được ranh giới rõ rệt giữa bảo hộ quyền tác giả và
bảo hộ các quyền khác thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Bảo hộ quyền tác giả có thể
phát sinh đối với cùng một sản phẩm hoặc công nghệ, đồng thời với những hình
thức khác của sở hữu trí tuệ; ví dụ, một sáng chế liên quan đến phần mềm máy tính
có thể được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế, đồng thời mã phần mềm có thể
được bảo hộ theo quyền tác giả. Tương tự như vậy, quyền tác giả có thể bảo hộ
một tác phẩm nghệ thuật trong khi tác phẩm nghệ thuật đó cũng được bảo hộ dưới
danh nghĩa một kiểu dáng công nghiệp, cũng như quyền tác giả có thể bảo hộ một
văn bản trong khi văn bản đó còn là một bí mật thương mại.
2- Quyền sở hữu công nghiệp với quyền sở hữu tài sản hữu hình:
Quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng là
một loại quyền tài sản, do đó nó có đầy đủ đặc tính của quyền tài sản nói chung đó
là : chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản của mình và không ai được sử dụng
tài sản đó nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xuất phát từ
tính chất đặc thù của các đối tượng sở hữu công nghiệp – tài sản trí tuệ, quyền sở
hữu công nghiệp có những đặc điểm riêng để phân biệt với quyền sở hữu tài sản
hữu hình.

Thứ nhất, tính vô hình của đối tượng sở hữu công nghiệp
Đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp mang đặc trưng của đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ đó là đặc tính vô hình. Đặc tính này hoàn toàn khác với đặc
tính hữu hình của sở hữu tài sản vật chất. Là sản phẩm của sáng tạo trí tuệ, mang
tính vô hình nên đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công
nghiệp nói riêng phải được vật chất hóa hoặc được thể hiện trên các vật mang tin
cụ thể. Nói cách khác, tài sản sở hữu trí tuệ vô hình phải được phản ánh, thể hiện
thông qua những vật thể hữu hình. Một vật thể hữu hình có thể vừa là đối tượng
của quyền sở hữu tài sản vật chất, lại vừa chứa đựng trong nó đối tượng của quyền
sở hữu trí tuệ. Đặc tính vô hình của sở hữu trí tuệ là đặc trưng quan trọng nhất.
Quyền sở hữu công nghiệp là một loại quyền tài sản và đối tượng của quyền sở
hữu công nghiệp mang tính phi vật chất. Bởi vì, bản thân quyền sở hữu công
nghiệp không thể tự nó đem lại các tiện ích hiện hữu cho người nắm giữ quyền mà
nó chỉ đem lại các lợi ích vật chất và tinh thần cũng như các lợi thế cho chủ sở hữu,
người sử dụng khi các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được áp dụng vào
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, phạm vi bảo hộ
Quyền sở hữu công nghiệp chỉ được thừa nhận và bảo hộ theo thủ tục pháp
lý. Chủ thể phải gửi đơn yêu cầu bảo hộ và được cấp văn bằng bảo hộ bởi cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Việc bảo hộ này là bảo hộ độc quyền khai thác, sử dụng
của chủ sở hữu đối với đối tượng được bảo hộ trong một thời gian nhất định theo
quy định của pháp luật. Chỉ chủ sở hữu mới có quyền sử dụng hoặc chuyển giao
cho người khác sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc sở hữu của mình.
Khác với quyền sở hữu tài sản hữu hình, quyền sở hữu công nghiệp bị giới
hạn bởi không gian và thời gian. Về không gian, việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp mang tính lãnh thổ triệt để. Điều này có nghĩa là quyền sở hữu công nghiệp
chỉ phát sinh trên cơ sở công nhận và cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ đã công nhận hoặc cấp
văn bằng đó. Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trên thế giới đều tuân thủ
nguyên tắc pháp luật quốc gia. Quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ đặc trưng

của đối tượng sở hữu công nghiệp – một tài sản vô hình được truyền bá bằng con
đường nhận thức nên rất dễ bị xâm phạm, khó kiểm soát. Hơn nữa, việc áp dụng
các đối tượng sở hữu công nghiệp chủ yếu gắn với quá trình sản xuất công nghiệp,
với mục đích thương mại và thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người nên thường
mang lại lợi ích lớn, có ảnh hưởng tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh
tế xã hội quốc gia. Vì vậy, quyền sở hữu công nghiệp mang tính lãnh thổ tuyệt đối.
Về mặt thời gian, quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ trong một khoảng
thời gian nhất định, vì đối tượng sở hữu công nghiệp là các sản phẩm trí tuệ thay
đổi nhanh chóng theo tiến bộ khoa học công nghệ, dễ lạc hậu so với yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước. Các đối tượng sở hữu công nghiệp, đặc biệt là
những đối tượng mang lại nhiều lợi ích kinh tế, giảm chi phí trong sản xuất hàng
hóa và dịch vụ (sáng chế, giải pháp hữu ích, ) thường được bảo hộ trong một
khoảng thời gian tương đối ngắn (tối đa là 20 năm). Hầu hết pháp luật về sở hữu
công nghiệp các nước đều quy định thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm, thời hạn
bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là 10 năm, có thể gia hạn nhiều lần, mỗi lần 10 năm.
Hết thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu sẽ mất độc quyền cũng như những quyền khác đối
với đối tượng được bảo hộ. Tuy nhiên, một số đối tượng sở hữu công nghiệp như
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu nổi tiếng, được bảo hộ vô thời hạn
nhưng các đối tượng đó cũng như chủ sở hữu các đối tượng đó phải đáp ứng một
số điều kiện do pháp luật quy định.
Thứ ba, quyền sử dụng
Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng của chủ sở hữu (chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu dường như là quyền cơ bản và quan trọng
nhất. Điều này xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu hình : trong hầu hết các
trường hợp, chủ sở hữu phải chiếm hữu tài sản thì mới có thể khai thác công dụng
của tài sản đó.
Trong khi đó, đối với quyền sở hữu công nghiệp, quyền sử dụng lại được
coi là quyền năng cơ bản nhất. Với tài sản là nhãn hiệu, quyền này được thể hiện
thông qua quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm người khác sử
dụng và định đoạt nhãn hiệu được bảo hộ nếu không được chủ sở hữu cho phép.

Điều này cũng xuất phát từ tính vô hình của các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Chủ sở hữu không thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản. Việc khai thác giá trị
quyền được thực hiện thông qua hành vi sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
Bản thân các đối tượng sở hữu công nghiệp không tạo ra giá trị mà chúng
phải được ứng dụng vào những loại vật chất hữu hình cụ thể và phát sinh giá trị
quá trình sử dụng, vận hành, khai thác các loại vật chất hữu hình này. Về bản chất,
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ độc quyền khai thác, sử dụng đối
tượng sở hữu công nghiệp.
Như vậy, quyền của chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ được thể hiện chủ
yếu và cơ bản nhất ở quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.

×