Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Dạy học theo dự án và khả năng vận dụng trong đào tạo giáo viên tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.14 KB, 9 trang )

DẠY HỌC THEO DỰ ÁN VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG
TRONG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC
Trần Vũ Khánh
1


Dạy học theo dự án là một chiến lược dạy học được sử dụng rất phổ biến
trong các trường phổ thông và đại học trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển.
Kiểu dạy học này có nhiều ưu thế trong việc đào tạo năng lực của người lao động
trong thế giới hiện đại như: năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải
quyết các vấn đề phức hợp, năng lực cộng tác Việc vận dụng dạy học theo dự án vào
quá trình đào tạo giáo viên tiểu học ở Việt Nam có nhiều điểm thích hợp, nhưng chưa
có những nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề này. Bài viết này góp phần xác định rõ hơn
khái niệm dạy học theo dự án, những đặc điểm, chức năng sư phạm, đồng thời đưa ra
một số khả năng vận dụng trong đào tạo giáo viên tiểu học.

1. Vấn đề và phương pháp nghiên cứu
Dạy học theo dự án (DHTDA) là một trong những chiến lược và kiểu dạy học dựa vào người học và
các quá trình hợp tác, chia sẻ của họ. DHTDA góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành
động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác của người học.
DHTDA ngày nay được sử dụng rất phổ biến trong các trường phổ thông và đại học trên thế giới, đặc biệt
ở những nước phát triển. Việc vận dụng DHTDA vào quá trình đào tạo giáo viên tiểu học ở Việt Nam có
nhiều điểm rất thích hợp. Tuy nhiên chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu vấn đề này.
Trong khuôn khổ một số dự án giáo dục, các kĩ thuật của DHTDA đã được tiếp thu và triển khai ở
một số trường. Tuy nhiên, ngay từ quan niệm cho đến lí thuyết về kiểu dạy học này còn chưa thực sự rõ
ràng, và được giải thích rất khác nhau. Hàng loạt vấn đề nảy sinh quanh sự kiện này, chẳng hạn:
- DHTDA là phương pháp dạy học? Vậy thì tiêu chí hay căn cứ nào cho phép khẳng định như vậy?
Nếu phương pháp dạy học là cách thức mà người dạy sử dụng để tác động đến người học và quá trình học
tập, thì việc sử dụng dự án để dạy mới là phương pháp dạy học. Khi đó bản thân DHTDA vẫn chỉ là dạy
học, một kiểu, một chiến lược, một cách làm, chứ không phải là phương pháp dạy học.


- Khi không phải là phương pháp dạy học thì dự án ở đây nghĩa là gì? Chưa có nhiều lời giải đáp
thuyết phục. Dự án ở đây dùng để làm gì?
- Cuối cùng ngay cả bản chất lí luận của DHTDA cũng chưa thực sự được làm rõ, kể cả trong
những tài liệu kĩ thuật. Vậy thì còn có những khía cạnh lí luận nào cần phải làm sáng tỏ?

1
ThS, trường ĐHSP Hà Nội 2
Qua kết quả tổng quan và nghiên cứu so sánh về lí thuyết cũng như tổng kết kinh nghiệm triển khai
DHTDA ở một số trường, đặc biệt là phân tích lí luận, chúng tôi mong muốn góp phần xác định rõ hơn
khái niệm DHTDA và những đặc điểm, chức năng sư phạm và khả năng vận dụng trong đào tạo giáo viên
tiểu học của kiểu dạy học này.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm dự án học tập và DHTDA
Thuật ngữ dự án (Project), có nguồn gốc từ tiếng latinh và ngày nay được hiểu theo nghĩa phổ
thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch, trong đó đề án, dự thảo hay kế hoạch này cần được
thực hiện nhằm đạt mục đích đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực
kinh tế - xã hội: trong sản xuất, doanh nghiệp, trong nghiên cứu khoa học cũng như trong quản lí xã hội.
Việc sử dụng dự án trong phát triển kinh tế-xã hội được xem là một phương pháp quản lí hiện đại, hơn
nữa nó là phương pháp của quản lí sự thay đổi, quản lí phát triển. Vì vậy có thể cho rằng phương pháp dự
án vốn là phương pháp quản lí.
Khái niệm Project được sử dụng trong các trường dạy kiến trúc - xây dựng ở Ý cuối thế kỉ thứ 16.
Từ đó tư tưởng dạy học theo dự án lan sang Pháp cũng như một số nước châu Âu khác và Mỹ, trước hết
là trong các trường đại học và chuyên nghiệp. Đầu thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lý
luận cho kiểu dạy học mang tính xã hội hóa cao xuất phát từ triết lí giáo dục của J. Dewey (Giáo dục
hướng vào người học - Learner-centered Education) gọi là phương pháp dự án (The Project Method). Từ
đây phương pháp dự án trong giáo dục được xem như một chiến lược hay một kiểu dạy học hiệu quả,
mang tính chất thực tiễn rõ rệt.
Gắn liền với phương pháp dự án trong giáo dục chính là các dự án học tập. Đó là những dự án được
thiết kế và thực hiện nhằm mục đích dạy học và đáp ứng nhu cầu học tập. Ban đầu, phương pháp dự án
được sử dụng trong dạy học thực hành các môn kỹ thuật, về sau được dùng trong hầu hết các môn học

khác, kể cả các môn khoa học xã hội. Sau một thời gian phần nào bị lãng quên, hiện nay phương pháp dự
án được sử dụng phổ biến trong các trường phổ thông và đại học trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát
triển.
K. Frey định nghĩa: “Phương pháp dự án là một con đường giáo dục. Đó là một hình thức của hoạt
động học tập, có tác dụng giáo dục. Quyết định là ở chỗ: nhóm người học xác định một chủ đề làm việc,
thống nhất về nội dung làm việc, tự lực lập kế hoạch và tiến hành công việc để dẫn đến một sự kết thúc có
ý nghĩa, thường xuất hiện một sản phẩm có thể trình ra được”. Với định nghĩa này, phương pháp (PP) dự
án là con đường giáo dục, đồng thời là một hình thức của hoạt động học tập.
Khác với Frey, đa số các tác giả Đức hiện nay không sử dụng khái niệm PP dự án mà dùng khái
niệm dạy học (theo) dự án (Projektunterricht) và hiểu như một hình thức dạy. Khái niệm dạy học “Định
hướng dự án” cũng được sử dụng để chỉ DHTDA theo nghĩa rộng, trong đó việc vận dụng có thể ở các
mức độ khác nhau.
Trong các tài liệu giảng dạy, Nguyễn Văn Cường định nghĩa “Dạy học Project hay dạy học theo dự
án là một hình thức dạy học, trong đó học sinh dưới sự điều khiển và giúp đỡ của giáo viên tự lực giải
quyết một nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành,
thông qua đó tạo ra các sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được”. Định nghĩa này chứa
những đặc điểm quyết định của DHTDA: tính phức hợp của nhiệm vụ học tập, tính tự lực của học sinh,
kết hợp lý thuyết và thực hành, định hướng sản phẩm.
Tài liệu bồi dưỡng theo chương trình “Đưa kỹ năng công nghệ thông tin (ICT) vào dạy và học” của
Microsoft sử dụng khái niệm “Học tập dựa vào dự án” (Project Based Learning), coi DHTDA là một mô
hình dạy học và mô tả: “đó là các hoạt động học tập được thiết kế một cách cẩn thận, mang tính lâu dài,
liên quan đến nhiều lĩnh vực học thuật, lấy học sinh làm trung tâm và hoà nhập với những vấn đề và thực
tiễn của thế giới thực tại”.
Theo chúng tôi Dạy học theo dự án là một chiến lược hay kiểu tổ chức dạy học mà đặc trưng cơ
bản là tạo ra môi trường học tập năng động, hợp tác, thân thiện, trong đó người học thực hiện một nhiệm
vụ học tập phức hợp, mang tính mở, có sự kết hợp trực tiếp lý thuyết và thực tiễn, đòi hỏi tính tự lực và
trách nhiệm cá nhân cao của người học trong toàn bộ quá trình học tập, và dẫn đến những sản phẩm có
thể trình bày, giới thiệu.
2.2. Đặc điểm của DHTDA
Trên cơ sở phân tích các tài liệu hiện có về DHTDA, chúng tôi hệ thống hóa DHTDA gồm có 7 đặc

điểm cơ bản, các đặc điểm này không hoàn toàn tách biệt mà có mối quan hệ biện chứng với nhau:
- Định hướng thực tiễn.
- Định hướng hứng thú người học.
- Mang tính phức hợp, liên môn.
- Định hướng hành động.
- Tính tự lực của người học.
- Cộng tác làm việc.
- Định hướng sản phẩm.
Do những đặc điểm này mà DHTDA mang những ưu thế và cả những bất lợi nhất định cho quá
trình học tập. Những ưu thế là:
- Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
- Kích thích động cơ, hứng thú của người học.
- Phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm.
- Phát triển khả năng sáng tạo.
- Rèn luyện năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
- Rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn.
- Rèn luyện năng lực cộng tác làm việc.
- Phát triển năng lực đánh giá.
và những bất lợi hay thách thức có thể gặp là:
- DHTDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lí thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống
cũng như rèn luyện hệ thống kĩ năng cơ bản.
- DHTDA đòi hỏi nhiều thời gian, nên không thể thay thế cho phương pháp dạy học thuyết trình
và luyện tập mà là sự bổ sung cần thiết cho các phương pháp dạy học truyền thống.
2.3. Quy trình DHTDA
Dựa trên cấu trúc phổ biến của quy trình dự án trong lĩnh vực KT-XH, có thể phân chia cấu trúc của
DHTDA theo 5 giai đoạn sau: xác định chủ đề, mục tiêu dự án; lập kế hoạch dự án; thực hiện dự án; đánh
giá dự án. Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người ta có thể chia cấu trúc của DHTDA làm
nhiều giai đoạn nhỏ hơn. Sau đây trình bày một cách phân chia các giai đoạn của DHTDA theo 5 giai
đoạn:
- Lựa chọn và xử lí nội dung học tập.

- Thiết kế dự án học tập và kế hoạch thực hiện.
- Tổ chức nhóm học tập và thực hiện dự án.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm.
- Đánh giá dự án và đánh giá kết quả học tập.
2.4. Phân loại dự án học tập
2.4.1. Phân loại theo chuyên môn
- Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong môn học.
- Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau.
- Dự án ngoài chuyên môn: là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn học.
2.4.2. Phân loại theo sự tham gia của người học
- Dự án cho nhóm học sinh
- Dự án cá nhân.
Trong đó dự án cho nhóm học sinh là chủ yếu.
2.4.3. Phân loại theo sự tham gia của giáo viên:
- Dự án dưới sự hướng dẫn của một giáo viên.
- Dự án với sự cộng tác hướng dẫn của nhiều giáo viên.
2.4.4. Phân loại theo quỹ thời gian
- Dự án nhỏ: Thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2 đến 6 giờ học.
- Dự án trung bình: Dự án thực hiện trong một số ngày (ngày dự án), nhưng giới hạn là dưới một
tuần hoặc 40 giờ học.
- Dự án lớn: Là dự án được thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần (hay 40 giờ học),
có thể kéo dài nhiều tuần (tuần dự án).
Cách phân chia theo thời gian này của Frey thường được áp dụng ở trường phổ thông. Trong đào
tạo đại học, quỹ thời gian thường lớn và các dự án thường được quy định thời gian theo số đơn vị học
trình hoặc tín chỉ.
2.4.5. Phân loại theo nhiệm vụ học tập
- Dự án tìm hiểu: Là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.
- Dự án nghiên cứu: Nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng, quá trình.
- Dự án kiến tạo: Trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện các động thực
tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.

2.4.6. Phân loại theo mức độ phức hợp của nội dung học tập
- Dự án mang tính thực hành (gọi tắt là dự án thực hành): Là dự án có trọng tâm là việc thực hiện
một nhiệm vụ thực hành mang tính phức hợp trên cơ sở vận dụng kiến thức, kỹ năng cơ bản đã học nhằm
tạo ra một sản phẩm vật chất.
- Dự án mang tính tích hợp (gọi tắt là dự án tích hợp): Là dự án mang nội dung tích hợp nhiều nội
dung hoạt động như tìm hiểu thực tiễn, nghiên cứu lý thuyết, giải quyết vấn đề, thực hiện các hoạt động
thực hành, thực tiễn.
2.5. DHTDA trong đào tạo giáo viên tiểu học trình độ đại học
2.5.1. DHTDA là một chiến lược tổ chức dạy học có nhiều ưu thế trong đào tạo dựa vào chuẩn ở
ngành Sư phạm Giáo dục tiểu học
Chuẩn đào tạo ngành Sư phạm Giáo dục tiểu học của Trường ĐHSP Hà Nội 2 ban hành năm 2011
đã quy định sinh viên khi tốt nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu như sau:
Yêu cầu về kiến thức
Có hiểu biết về các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, về hiến pháp pháp luật của nhà nước, có hiểu biết chung về các
vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa và môi trường của Việt Nam và thế giới. Nắm vững kiến thức chuyên
môn (bao gồm kiến thức cơ sở, kiến thức chuyên ngành), kiến thức nghiệp vụ sư phạm để thực hiện
nhiệm vụ dạy học các môn văn hóa và giáo dục học sinh ở tiểu học, hình thành những cơ sở ban đầu và
lâu dài về đạo đức, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ cho học sinh. Có ngoại ngữ (tiếng Anh) tương đương trình
độ B, bước đầu sử dụng được trong nghiên cứu tài liệu chuyên ngành. Có kiến thức tin học tương đương
trình độ B.
Yêu cầu về kĩ năng
Đã được rèn luyện đạt mức độ thạo các kĩ năng cơ bản trong việc tổ chức hoạt động dạy học và
giáo dục học sinh: Kĩ năng tổ chức dạy học các môn văn hóa (phân tích chương trình, thiết kế bài giảng,
tổ chức dạy học, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh), Kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục
(giáo dục đạo đức qua môn học và qua các hoạt động giáo dục, chủ nhiệm lớp, công tác đội, tổ chức hoạt
động tập thể cho học sinh). Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt): đọc, viết, nói, nghe đúng chuẩn. Sử
dụng thành thạo các phương tiện dạy học. Có kĩ năng làm việc nhóm; khả năng tự học, tự nghiên cứu; khả
năng thích ứng với yêu cầu nghề nghiệp và làm việc độc lập.
Yêu cầu về phẩm chất

Có ý thức trách nhiệm công dân, thái độ và đạo đức nghề nghiệp nhà giáo. Tận tụy với nghề; có ý
thức phấn đấu vươn lên trong nghề nghiệp. Tác phong làm việc khoa học, có ý thức tiếp cận với phương
pháp giáo dục hiện đại.
Phân tích chuẩn đào tạo và đối chiếu với những đặc điểm của DHTDA đã nêu trên, chúng tôi nhận
thấy DHTDA rất nhiều ưu thế trong việc đáp ứng chuẩn chuyên ngành:
- Do DHTDA có các đặc điểm định hướng thực tiễn, định hướng hành động nên rất thuận lợi trong
việc bồi dưỡng các kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên. Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa
nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm
tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn
của người học.
- Thực tiễn dạy học và giáo dục luôn đặt ra những vấn đề phức hợp, để có thể thích nghi và giải
quyết tốt những vấn đề đó, người giáo viên tiểu học ngay từ khi ngồi trên ghế giảng đường phải được học
và rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề này. Các chủ đề dự án được xây dựng từ các vấn đề của thực tiễn
và mang tính phức hợp, để thực hiện dự án đòi hỏi phải sử dụng kiến thức từ nhiều nguồn, từ nhiều môn
học. Như vậy, có thể khẳng định DHTDA là một phương pháp quan trọng để hình thành nơi người học
khả năng giải quyết vấn đề dạy học và giáo dục mang tính phức hợp.
- Trong DHTDA, người học cần tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy
học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu
đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả
năng của sinh viên và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Đặc điểm này tạo ra nhiều cơ hội để sinh viên thể
hiện năng lực nghiên cứu độc lập và trải nghiệm những thách thức trên con đường vào nghề nghiệp.
- Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân
công công việc giữa các thành viên trong nhóm. DHTDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng
cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa SV và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác
tham gia trong dự án. Qua đó, phát triển nhân cách người học, hình thành các năng lực giao tiếp, ứng xử,
năng lực cộng tác làm việc, năng lực đánh giá.
Từ việc so sánh đặc điểm của DHTDA với chuẩn đào tạo giáo viên tiểu học, có thể thấy DHTDA
rất phù hợp trong việc thực hiện chuẩn đào tạo, thể hiện ở việc giúp người học phát triển tư duy bậc cao,
hình thành và rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp, tạo ra hứng thú sáng tạo và năng lực giao tiếp ứng xử trong
cộng đồng. Đây là những mục tiêu mà những phương pháp dạy học truyền thống khác có nhiều hạn chế.

2.5.2. DHTDA có thể mang lại hiệu quả cao trong các học phần thực hành
Trong chương trình đào tạo, thời lượng dành cho phần thực hành ở khối kiến thức nghiệp vụ và các
môn thuộc kiến thức chuyên ngành tự chọn chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Những môn học này có tiềm năng
rất lớn trong việc vận dụng hiệu quả DHTDA.
Hiện nay, nội dung đào tạo thực hành được bố trí tiếp sau nội dung lý thuyết. Nội dung thực hành
chủ yếu là các bài luyện tập kỹ năng cơ bản. Trong loại bài này, SV nhận nhiệm vụ do GV qui định, thực
hiện theo qui trình, thao tác do GV hướng dẫn, làm mẫu nhằm rèn luyện kỹ năng cơ bản. Việc luyện tập
tổng hợp các kỹ năng để giải quyết nhiệm vụ thực hành mang tính phức hợp và đòi hỏi sự sáng tạo chưa
được chú ý. Ngoài ra, trong khi dạy thực hành, giáo viên ít liên hệ vận dụng lý thuyết đã học, sinh viên
chỉ làm theo các quy trình có sẵn. Tuy đây là những bài thực hành, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ rèn luyện
kỹ năng cơ bản.
Các bài thực hành có thể được thiết kế thành các dự án học tập theo lí thuyết và kĩ thuật thiết kế dự
án. Dự án mang tính thực hành (gọi tắt là dự án thực hành) trong đào tạo giáo viên là những dự án học
tập, trong đó sinh viên cần thực hiện một nhiệm vụ thực hành mang tính phức hợp với trọng tâm là hoàn
thành một sản phẩm có thể giới thiệu, trên cơ sở vận dụng kiến thức, kỹ năng đã có. Mặc dù trọng tâm
chủ yếu là hoạt động thực hành kíến tạo một sản phẩm nhưng tính chất phức hợp của dự án thể hiện ở chỗ
khi thực hiện dự án, sinh viên cần vận dụng nhiều tri thức, kỹ năng riêng lẻ khác nhau, sản phẩm mang
tính phức hợp, nó đòi hỏi tính tự lực, sáng tạo và khả năng hợp tác của người học.
Như vậy, ngay cả với nội dung thực hành vẫn có thể thiết kế các dự án học tập có nội dung tích hợp
và các hoạt động phát triển tri thức, tư duy lí thuyết và kĩ năng. Tuy nhiên, khi đó phải xử lí nội dung học
tập thật tốt để nhiệm vụ học tập thực hành gắn kết được với lí thuyết và các hoạt động mang lại nhiều giá
trị.
2.5.3. DHTDA có thể thực hiện được qua việc cải tiến bài tập lớn, tiểu luận trong học phần lý
thuyết
DHTDA cũng có thể được thực hiện trong phạm vi các học phần lý thuyết trong những điều kiện
phù hợp nhằm kết hợp học tập với nghiên cứu, lý thuyết với thực tiễn. Khi đó các dự án học tập này có
thể thay thế các hình thức như bài tập lớn, tiểu luận. Các đề tài bài tập lớn, tiểu luận thường chỉ nằm trong
khuôn khổ một học phần, tuy nhiên nó có thể liên quan đến nhiều kiến thức ở các phương diện khác nhau.
Các đề tài tiểu luận nhìn chung phù hợp với DHTDA, nhưng chưa là các dự án học tập. Các tiểu
luận thể hiện tính tự lực của SV trong chọn đề tài, lập kế hoạch và quá trình thực hiện, tuy nhiên, nội

dung nghiên cứu thường chỉ giới hạn trong việc tổng hợp các tài liệu lý thuyết về một chủ đề thuộc một
môn học, không có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và hoạt động thực hành, thực tiễn. Tính chất
phức hợp, liên môn trong các đề tài tiểu luận cũng ít thể hiện. Các tiểu luận hiện nay chủ yếu cũng là các
đề tài cá nhân, chưa chú ý hình thức làm việc nhóm. Tình trạng trên đây hạn chế hiệu quả của tiểu luận
trong việc rèn luyện năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn
cũng như năng lực cộng tác làm việc của SV.
Khi chuyển các tiểu luận thành dự án học tập, có thể khắc phục các nhược điểm hiện nay của tiểu
luận. Trước hết là chú ý thể hiện các đặc điểm của dự án học tập và DHTDA ở mức độ phù hợp với điều
kiện cho phép, đặc biệt là tăng cường tính phức hợp, liên môn của đề tài nghiên cứu, tăng cường gắn việc
nghiên cứu lý thuyết với hoạt động thực tiễn, tăng cường làm việc nhóm thông qua các đề tài do nhóm
sinh viên hợp tác thực hiện
2.6. Một số phương hướng nghiên cứu và phát triển DHTDA trong đào tạo giáo viên tiểu học
trình độ đại học
Từ các kết quả nghiên cứu của lí luận dạy học về DHTDA và xác định sự phù hợp của DHTDA
trong đào tạo giáo viên tiểu học, chúng tôi nhận thấy để có thể phát triển kiểu tổ chức dạy học này trong
đào tạo giáo viên tiểu học trình độ đại học trên cơ sở những nghiên cứu khoa học chuyên sâu ở các hướng
sau đây:
- Tìm hiểu các nguyên nhân chủ quan và khách quan của việc hạn chế sử dụng DHTDA trong đào
tạo giáo viên tiểu học.
- Phân tích, tổng hợp các thành tựu nghiên cứu về DHTDA nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lí luận
cho việc thiết kế các dự án học tập và các biện pháp thực hiện DHTDA trong đào tạo giáo viên tiểu học.
- Phân tích nội dung chi tiết các môn học trong chương trình đào tạo giáo viên tiểu học để làm rõ
các nguyên tắc, tiêu chí và kĩ thuật tiến hành DHTDA.
- Xác định các phương án DHTDA áp dụng được trong đào tạo giáo viên tiểu học.
- Xác định các nguyên tắc cơ bản của quản lí đào tạo khi thực hiện DHTDA.
- Xây dựng các tài liệu và phương tiện hướng dẫn phương pháp, kĩ năng và kĩ thuật DHTDA.
3. Kết luận
- Về nhận thức lí luận có thể thừa nhận DHTDA là một kiểu hay chiến lược tổ chức dạy học. Bản
chất của phương pháp dự án chính là phương pháp quản lí giảng dạy và học tập. Nó có những ưu thế rõ
rệt nhưng cũng chứa đựng những thách thức nhất định trong đào tạo giáo viên.

- Chỗ yếu nhất trong tay nghề của giáo viên tiểu học là kĩ năng nghề nghiệp. DHTDA ngoài những
ưu thế sư phạm như gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích
cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề phức hợp, tinh thần
trách nhiệm và khả năng cộng tác của người học, thì còn có tác dụng to lớn khắc phục điểm yếu này.
- DHTDA tất nhiên phải dựa vào các dự án học tập được thiết kế thích hợp với mục tiêu, chuẩn, nội
dung và điều kiện đào tạo. Điều đó đòi hỏi phải thực hiện nhiều nghiên cứu lí luận và thực nghiệm về vấn
đề này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Benrnd Meier, Nguyễn Văn Cường, Lí luận dạy học hiện đại, Tài liệu học tập cho học viên cao
học, 2009.
2. Frey K., Die Projektmethode, Weinheim und Basel, 2005.
3. Đặng Thành Hưng, Dạy học hiện đại: Lí luận - Biện pháp - Kĩ thuật, Nxb Đại học Quốc gia, H.,
2002.
4. Microsoft và Hiệp hội Quốc tế về Công nghệ trong Giáo dục, Partners in learning, Tài liệu tập
huấn đưa kĩ năng ICT vào dạy và học, ISTE, Tp Hồ Chí Minh, 2005.
5. Nguyễn Thị Diệu Thảo, Dạy học theo dự án và vận dụng trong đào tạo giáo viên môn công nghệ
phần kinh tế gia đình, Luận án tiến sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội, 2007.

PROJECT - BASED LEARNING AND THE APPLICABILITY IN
THE PRIMARY TEACHER TRAINING
Tran Vu Khanh
Abstract
Project-based learning is a teaching strategy which is commonly used at schools and universities
all around the world, especially in developing countries. This strategy of teaching has many advantages of
the capacity training of workers in the modern society: capacity of independence, creativity, solving
complex problems and collaboration The use of project-based learning in the primary school teacher
training in Vietnam has many appropiate points, but there has been no specific studies on this issue. This
article contributes a better clarification of the concept, the characteristics and the functions of this strategy
teaching and also gives the possibility of applying in training primary school teachers.


×