Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý cấp sở tại tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.21 KB, 110 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN THỊ TÂM



GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN
BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP SỞ TẠI TỈNH BẮC GIANG




CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS BÙI BẰNG ĐOÀN




HÀ NỘI, NĂM 2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi.

Những số
liệu, thông tin và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực


chưa được sử dụng để bảo vệ bất cứ một luận văn nào.
Tôi cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 04 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Tâm













Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo
trong khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, những người đã truyền đạt cho tôi
những kiến thức bổ ích và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS. Bùi Bằng
Đoàn, người đã giành thời gian tận tình chỉ bảo giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi trân trọng cảm ơn lãnh đạo và các phòng, ban chuyên môn của Ban
Tổ chức Tỉnh ủy, các sở, ban, ngành của tỉnh
Bắc Giang
đã tạo điều kiện,
cung cấp tài liệu giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức Ban
Nội chính Tỉnh ủy nơi tôi đang công tác đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện tốt nhất để tôi học tập và thực hiện luận văn này.
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn, tôi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, động viên của gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ và ghi nhận những tình cảm
quý báu đó.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn và xin kính chúc các thầy cô

giáo, người thân và bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp mạnh khỏe, gia đình hạnh
phúc và thành đạt.


Hà Nội, ngày 04 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Tâm


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii


MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt vi
Danh mục bảng vii
Danh mục hình viii
1 MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4
2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 5
2.1 Một số vấn đề chung về cán bộ lãnh đạo cấp sở 5

2.1.1 Một số khái niệm 5
2.1.2 Vai trò của cán bộ lãnh đạo cấp sở 6
2.1.3 Đặc điểm chủ yếu của cán bộ lãnh đạo cấp sở 7
2.2 Một số vấn đề chung về công tác quy hoạch cán bộ 9
2.2.1 Khái niệm về công tác quy hoạch cán bộ 9
2.2.2 Vai trò công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở 13
2.2.3 Nội dung, quy trình quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở 15
2.2.4 Các tiêu chí đánh giá chất lượng công tác quy hoạch 23
2.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quy hoạch cán bộ 24
2.3 Cơ sở thực tiễn của đề tài nghiên cứu 25
2.3.1 Các quy định về công tác quy hoạch cán bộ cấp sở 25
2.3.2 Kinh nghiệm công tác quy hoạch cán bộ ở nước ngoài và Việt Nam 25
2.3.3 Một số công trình nghiên cứu liên quan 27
3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHUƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30
3.1 Khái quát chung tỉnh hình tỉnh Bắc Giang 30

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv


3.1.1 Đặc điểm chung 30
3.1.2 Đặc điểm tự nhiên 32
3.1.3 Đặc điểm kinh tế - xã hội 33
3.1.4 Khái quát tình hình kinh tế - xã hội 36
3.2 Phương pháp nghiên cứu 38
3.2.1 Xây dựng khung phân tích 38
3.2.2 Phương pháp thu thập tài liệu 38
3.2.3 Phương pháp thu thập tài liệu 39
3.2.4 Phương pháp thống kê phân tích 40
3.2.5 Phương pháp so sánh 40

3.2.6 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 40
4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 41
4.1 Thực trạng cán bộ lãnh đạo cấp sở 41
4.1.1 Tình hình về số lượng đội ngũ cán bộ cấp sở của tỉnh 41
4.1.2 Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp sở của tỉnh 41
4.2 Thực trạng công tác quy hoạch cán bộ cấp sở 44
4.2.1 Thực hiện quy trình quy hoạch cán bộ cấp sở 44
4.2.2 Tổ chức triển khai quy hoạch cán bộ cấp sở 47
4.2.3 Chất lượng công tác quy hoạch cán bộ cấp sở 49
4.2.4 Kết quả công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở 52
4.3 Bài học kinh nghiệm 64
4.4 Dự báo tình hình và mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ quy
hoạch cán bộ cấp sở thuộc diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý
giai đoạn từ nay đến 2020 67
4.4.1 Dự báo những thuận lợi khó khăn 67
4.4.2 Mục tiêu, phương hướng quy hoạch cán bộ cấp sở 70
4.4.3 Nhiệm vụ chủ yếu của quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở 71
4.5 Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ lãnh
đạo cấp sở 71

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v


4.5.1 Nâng cao nhận thức về công tác quy hoạch cán bộ 71
4.5.2 Cụ thể hóa tiêu chuẩn quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở 72
4.5.3 Rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ cấp sở, xác định nguồn cán bộ
quy hoạch 74
4.5.4 Thực hiện đúng quy trình trong công tác quy hoạch cán bộ 77
4.5.5 Nâng cao chất lượng công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

trong quy hoạch 81
4.5.6 Nâng cao chất lượng công tác luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ 83
4.5.7 Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu cơ
quan, đơn vị, bộ phận tham mưu về công tác tổ chức cán bộ ở các
sở, ban, ngành 88
5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 90
5.1 Kết luận 90
5.2 Một số kiến nghị 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC 98


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BTV Ban Thường vụ
BCH Ban Chấp hành
BCHTW Ban Chấp hành Trung ương
BTCTU Ban Tổ chức Tỉnh ủy
GDP Tốc độ tăng trưởng kinh tế
HĐND Hội đồng nhân dân
KH Kế hoạch
LLCT Lý luận chính trị
MTTQ Mặt trận tổ quốc
QHCB Quy hoạch cán bộ
QLKT Quản lý kinh tế
QLNN Quản lý nhà nước

THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TW Trung ương
UBND Ủy ban nhân dân
XDCB Xây dựng cơ bản

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii


DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

3.1 Thống kê diện tích và địa hình tỉnh Bắc Giang 33
3.2 Tăng trưởng GDP và cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Giang. 37
4.1 Số lượng cán bộ cấp sở tỉnh Bắc Giang 41
4.2 Một số chỉ tiêu chất lượng cán bộ cấp sở tỉnh Bắc Giang 42
4.3 Kết quả quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở của tỉnh Bắc Giang 53
4.4 So sánh một số chỉ tiêu quy hoạch cán bộ cấp sở giai đoạn 2010-
2015 với chỉ tiêu Trung ương quy định 57
4.5 Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ năm 2000 đến 2013 58


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii


DANH MỤC HÌNH


STT Tên hình Trang

3.1 Thống kê tỷ lệ dân số sống ở thành thị và nông thôn 34
4.1 Kết quả đánh giá chất lượng cán bộ lãnh đạo cấp sở của tỉnh Bắc
Giang 43
4.2 Kết quả khảo sát đánh giá chất lượng quy hoạch cán bộ cấp sở
của tỉnh Bắc Giang hiện nay 52
4.3 So sánh một số chỉ tiêu quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở giai
đoạn 2000-2005 với 2010-2015 56



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1


1. MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cán bộ và công tác cán bộ là một vấn đề hệ trọng, đã được các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập tới trong các tác phẩm của
mình. V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào". Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Công việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ
mà nhiều văn kiện quan trọng của Đảng đã đề cập đến vấn đề này. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VII) đã chỉ rõ: “cán bộ có vai trò

cực kỳ quan trọng, hoặc kìm hãm hoặc thúc đẩy tiến trình đổi mới”. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) về chiến lược cán bộ, khẳng
định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng đảng”.
Để làm tốt công tác cán bộ, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều
nội dung, nhiều khâu; trong đó có nội dung đặc biệt quan trọng là công tác
quy hoạch cán bộ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) nêu
rõ: “Công tác quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán
bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động có tầm nhìn xa,
đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài”. Lý luận và thực tiễn khẳng
định: Có làm tốt quy hoạch cán bộ mới từng bước nâng cao được chất
lượng, đảm bảo số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ; đảm bảo tính liên tục, kế
thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá và không

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2


đồng bộ trong công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ sẽ tạo
cơ sở, điều kiện, tiền đề để làm tốt các khâu khác trong công tác cán bộ
như: Đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới
thiệu cán bộ ứng cử và thực hiện chính sách cán bộ. Khắc phục tình trạng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tràn lan, không có trọng tâm, trọng điểm; lúng
túng trong lựa chọn, phân công, bố trí, sử dụng cán bộ.
Quy hoạch cán bộ là một chủ trương lớn và được Đảng ta thường
xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW
(khoá VIII) đề ra yêu cầu: “Cán bộ chủ trì phải điều hành, thực hiện quy
hoạch chung về công tác cán bộ, đồng thời trực tiếp bồi dưỡng người kế
cận thay mình. Trong một năm phải có ít nhất một lần kiểm điểm việc thực

hiện quy hoạch của mình và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch của cấp
dưới để kịp thời bổ sung, điều chỉnh”. Ngày 30/11/2004, Bộ Chính trị có
Nghị quyết số 42-NQ/TW “về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; từ khi có Nghị
quyết của Bộ Chính trị, công tác quy hoạch cán bộ trong Đảng bộ tỉnh đã
có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần đổi mới từng bước công tác cán
bộ. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn
biến phức tạp, yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì
công tác quy hoạch cán bộ vẫn là một khâu yếu, chất lượng và hiệu quả còn
hạn chế. Hội nghị lần thứ ba, BCHTW (khoá VIII) cũng đã nghiêm khắc
đánh giá: “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo chưa chủ động
xây dựng quy hoạch cán bộ, không tích cực chuẩn bị người kế nhiệm”;
đồng thời nhấn mạnh: “Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn
cán bộ, định kỳ kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác quy
hoạch cán bộ”.
Thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương; trong những
năm qua Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang thường xuyên chú trọng đến

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3


công tác quy hoạch cán bộ, đã ban hành nhiều văn bản, như: Kế hoạch số
07-KH/TU ngày 06/9/1998, Kế hoạch số 05-KH/TU ngày 09/5/2006 và các
nghị quyết, quyết định xác nhận quy hoạch cán bộ của các cấp uỷ trực
thuộc theo phân cấp để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
công tác quy hoạch cán bộ ở tỉnh; do vậy, công tác quy hoạch cán bộ đã
bước đầu đi vào nền nếp, đạt được kết quả nhất định, góp phần làm tốt
công tác cán bộ của tỉnh. Tuy vậy công tác quy hoạch cán bộ trong thời
gian qua cũng bộc lộ không ít những thiếu sót, khuyết điểm cần sớm được

khắc phục như: Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về công tác quy
hoạch cán bộ chưa thật sự đầy đủ và sâu sắc; việc thực hiện các bước trong
quy trình xây dựng quy hoạch ở một số cơ quan đơn vị còn lúng túng; nhận
xét, đánh giá cán bộ phục vụ quy hoạch chưa được chặt chẽ, chưa thật sự
dân chủ, khách quan; số lượng, chất lượng, cơ cấu cán bộ đưa vào quy
hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý hiện nay còn nhiều mặt hạn chế, tỷ
lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số còn thấp; tình
trạng cục bộ, kép kín vẫn còn tồn tại ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ cán bộ cấp sở
của tỉnh; đồng thời cần chú trọng thực hiện tốt công tác quy hoạch, nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
công tác trong thời kỳ mới. Từ thực tế nêu trên, tác giả chọn đề tài “Giải
pháp nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở
tại tỉnh Bắc Giang” làm luận văn thạc sĩ.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu nội dung trong công tác quy hoạch cán bộ cấp sở; đánh
giá thực trạng công tác quy hoạch và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở tại tỉnh Bắc Giang.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4


1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quy hoạch
và chất lượng công tác cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở tại tỉnh hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng chất lượng công tác quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở ở tỉnh Bắc Giang hiện nay; chỉ ra được ưu
điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm.

- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở của tỉnh Bắc Giang.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng công tác quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở của tỉnh. Trên cơ sở nghiên cứu tại các sở,
đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác này, đáp ứng yêu cầu cán bộ
lãnh đạo, quản lý hiện nay; đối tượng khảo sát là 22 sở, ban, ngành trong
khối quản lý Nhà nước với các chức danh trưởng, phó; giám đốc, phó giám
đốc các sở, ban, ngành tỉnh (sau đây gọi tắt là cán bộ lãnh đạo cấp sở).
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận
và thực tiễn; thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở đối với các sở, ban, ngành, thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước.
- Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tại tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi về thời gian: Thời gian liên quan đến nghiên cứu đề tài:
thu thập số liệu và thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài tập trung vào kết
quả quy hoạch cán bộ cấp sở nhiệm kỳ 2000-2005; 2005-2010; 2010-2015.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

2.1. Một số vấn đề chung về cán bộ lãnh đạo cấp sở
2.1.1. Một số khái niệm
Từ trước đến nay khái niệm cán bộ thường được dùng phổ biến
trong các nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức thuộc phong trào cộng sản và

công nhân quốc tế, còn ở các nước phương Tây như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức
thường dùng khái niệm công chức, ở Nhật dùng khái niệm quan chức.
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt (2002), từ cán bộ có hai nghĩa:
1- Người làm công có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà
nước. Cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị.
2- Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người thường không có chức vụ.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra khái niệm: ”Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tinh
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng”.
Pháp lệnh cán bộ, công chức (1998) đã xác định đối tượng là cán
bộ, công chức bao gồm những người: trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; những người được bầu cử, được tuyển dụng, bổ nhiệm
hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước, các
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và trong các cơ quan, đơn vị
quân đội nhân dân và công an nhân dân.
Theo Luật cán bộ, công chức (2008) thì cán bộ là khái niệm dùng để
chỉ những người công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6


và cả cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Có đội ngũ cán bộ, tất yếu phải có công tác quản lý cán bộ. Công
tác quản lý cán bộ bao giờ cũng được phân công, phân cấp giữa Trung

ương và các cấp ủy, tổ chức đảng ở các cơ quan, đơn vị, địa phương. Tùy
thuộc vào tình hình và điều kiện cụ thể trong từng thời kỳ mà Bộ Chính trị
có những quy định cụ thể về phân cấp quản lý cán bộ. Ngày 4/7/2007, Bộ
Chính trị ban hành Quyết định số 67-QĐ/TW; theo đó, đối tượng cán bộ
lãnh đạo sở, ban, ngành ở tỉnh gồm các chức danh: trưởng, phó; giám đốc,
phó giám đốc các sở, ban, ngành và tương đương của tỉnh.
Như vậy, có thể khái niệm: Cán bộ lãnh đạo cấp sở là những người
đứng đầu, cấp phó người đứng đầu các cơ quan trong bộ máy tổ chức chính
quyền ở cấp tỉnh.
2.1.2. Vai trò của cán bộ lãnh đạo cấp sở
Trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh thì cán bộ
lãnh đạo cấp sở là những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu một
sở, một ngành, một đơn vị trong khối quản lý nhà nước ở tỉnh, nên họ có
vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, vai trò đó thể hiện ở
những điểm chủ yếu sau:
Một là, cán bộ lãnh đạo cấp sở là những người đi đầu, nòng cốt
trong việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt, triển khai các đường lối, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách pháp luật của Nhà nước ở
cơ quan, đơn vị mình.
Hai là, cán bộ lãnh đạo cấp sở là những người có vai trò quan
trọng trong việc quan tâm chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng về tinh thần và vật chất của cán bộ, đảng viên và mọi người dân, phát
huy dân chủ trong Đảng, tinh thần làm chủ của nhân dân; động viên cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua
yêu nước, hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao năng lực lãnh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7



đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, cán bộ lãnh đạo cấp sở đóng vai trò nòng cốt trong việc xây
dựng hệ thống chính trị của tỉnh vững mạnh. Vì họ là những người đứng
đầu, cấp phó người đứng đầu các cơ quan cấp tỉnh; chịu trách nhiệm chính
trong việc tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động của
cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh. Họ là những người trực tiếp lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức; xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ và đề ra các chủ trương, giải pháp
nhằm không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan,
đơn vị mình.
Bốn là, cán bộ lãnh đạo cấp sở là những người có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng và giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng,
trong đội ngũ cán bộ, công chức của cơ quan, đơn vị mình. Trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ này phải là tấm gương trong
rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức; trong học tập, công tác và sinh
hoạt để những người dưới quyền và quần chúng nhân dân noi theo.
Năm là, cán bộ lãnh đạo cấp sở là nguồn bổ sung cán bộ cho các
cơ quan, bộ, ban, ngành ở Trung ương. Bởi vì hầu hết cán bộ trong đó đã
trưởng thành từ các phong trào cách mạng ở địa phương, được đào tạo cơ
bản về các mặt, thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, trải
qua quá trình công tác ở địa phương đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
thực tiễn, nhiều đồng chí có độ tuổi trẻ, có triển vọng, có thể đảm đương
được những chức vụ cao hơn.
2.1.3. Đặc điểm chủ yếu của cán bộ lãnh đạo cấp sở
Cán bộ lãnh đạo cấp sở là do tập thể ban thường vụ tỉnh ủy xem xét
ra nghị quyết, quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc giới thiệu ứng cử,
chịu sự lãnh đạo, chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp của ban thường vụ tỉnh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 8


ủy, đồng thời phải chịu sự giám sát, kiểm tra đánh giá của các cơ quan, tổ
chức có liên quan và quần chúng nhân dân nơi công tác và nơi cư trú.
Đội ngũ cán bộ này giữ chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị
ở tỉnh, đa số họ đều kiêm nhiệm một hoặc một số chức vụ khác trong công
tác đảng, chính quyền, đoàn thể, do đó họ có ảnh hưởng lớn đối với cán bộ,
công chức của tỉnh.
Đây là đội ngũ cán bộ có hiểu biết sâu, rộng về đường lối, chủ
trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
am hiểu tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở
trong nước và ở địa phương; có kiến thức, kinh nghiệm hoạt động trong
công tác xây dựng đảng, đoàn thể, vận động quần chúng, quản lý kinh tế,
quản lý nhà nước; có năng lực tổ chức, quản lý, chỉ đạo, tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn; có khả năng nghiên cứu khoa học, chủ trì xây dựng hoặc
thẩm định các đề án chuyên đề công tác liên quan đến lĩnh vực được phân
công phụ trách.
Số lượng cán bộ này không nhiều, thường từ 80 đến 90 người, chỉ
chiếm hơn 1% tổng số cán bộ công chức, viên chức của tỉnh, song lại có
vai trong rất quan trọng trong việc hoạch định các chủ trương, đề ra các
nghị quyết, quyết định để lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của
tỉnh trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Cán bộ lãnh đạo cấp sở chủ yếu được hình thành từ nguồn cán bộ
trong quy hoạch tại chỗ, một số được điều động, luân chuyển từ nơi khác
đến, song vẫn trong nội bộ giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh.
Xuất phát từ những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
phương mà đội ngũ cán bộ này luôn có truyền thống yêu quê hương, đất
nước, tận tụy, trách nhiệm với công việc, đoàn kết gắn bó với công đồng,
gần gũi với quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm.

Tuổi đời bình quân của cán bộ cấp sở trong quy hoạch đã có sự trẻ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9


hóa, phần lớn trên 45 tuổi, bước đầu có sự chuyển biến tích cực về năng lực
công tác. Là tỉnh miền núi có nhiều dân tộc anh em chung sống, nhưng số
cán bộ là người dân tộc thiểu số còn ít, tỷ lệ nữ chưa cao. Vì thế trong quy
hoạch cán bộ cần quan tâm đến vấn đề này.
Trong số cán bộ lãnh đạo cấp sở, có nhiều đồng chí đã trải qua thời
gian công tác trong quân đội, tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc hoặc
điều kiện kinh tế gặp khó khăn, nên ít có điều kiện học tập chính quy mà
chủ yếu học tập các hệ đào tạo, bồi dưỡng không chính quy trong thời gian
tại chức sau này và tích lũy kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, nên
năng lực lãnh đạo, điều hành công việc có phần hạn chế. Trình độ ngoại
ngữ, tin học cũng còn bất cập trước yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ hội
nhập quốc tế về kinh tế. Điều đó đòi hỏi trong những năm tới phải làm tốt
công tác quy hoạch, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về mọi mặt,
từng bước bố trí sắp xếp cán bộ cho hợp lý.
2.2. Một số vấn đề chung về công tác quy hoạch cán bộ
2.2.1. Khái niệm về công tác quy hoạch cán bộ
Trong Đại từ điển Tiếng Việt (1999) hai từ "quy hoạch" được định
nghĩa như sau:
"1. Bố trí sắp xếp kế hoạch dài hạn;
2. Kế hoạch tổng thể trong thời gian dài".
Từ đây có thể hiểu quy hoạch theo nghĩa thông thường là bố trí,
sắp xếp toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho
việc lập các kế hoạch cụ thể, dài hạn và ngắn hạn. Trong đời sống hàng
ngày, khi nói về quy hoạch thường hay sử dụng quy hoạch đô thị, quy

hoạch giao thông, quy hoạch đồng ruộng, quy hoạch các khu công nghiệp
Khác với các quy hoạch trên, quy hoạch cán bộ là loại quy hoạch đặc biệt,
đối tượng của nó không phải là cơ sở vật chất, công trình mà là con người;
họ vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quy hoạch. Quy hoạch cán bộ là

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10


khái niệm tương đối rộng có quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức và quy
hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Ở đây, đề tài chủ yếu đi sâu nghiên
cứu về quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp sở.
Cụm từ ”quy hoạch cán bộ” xuất hiện ở nước ta sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và được dùng nhiều trong công tác án bộ của Đảng
từ thời kỳ đổi mới đến nay. Hiện tại, quy hoạch cán bộ đã trở thành một
thuật ngữ chuyên ngành trong công tác tổ chức – cán bộ của Đảng và trong
môn khoa học tổ chức được hình thành dựa trên sự tổng kết thực tiễn công
tác này.
Quy hoạch cán bộ là một chủ trương lớn của tỉnh, được cấp ủy,
chính quyền thường xuyên quan tâm. Vấn đề quy hoạch cán bộ đã được đề
cập đến trong nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết định, thông tri của Đảng về
công tác quy hoạch cán bộ như: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội IV của Đảng, Chỉ thị số 45-CT/TW,
ngày 2/6/1978 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IV) về ”Khẩn trương
đẩy mạnh việc xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý”;
Thông tri số 31-TT/TW ngày 12/11/1983 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa V) về việc ”Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo
và cán bộ quản lý ở các ngành, các cấp”; Quyết số 55-QĐ/TW ngày
26/5/1988 của Bộ Chính trị (khóa VI) về ” Công tác quy hoạch cán bộ lãnh
đạo lãnh đạo các cấp từ nay đến năm 1990” ; Nghị quyết số 42-NQ/TW

ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Theo quan điểm của Đảng ta thể hiện trong các văn bản đã ban
hành thì quy hoạch cán bộ là một công việc cơ bản trong công tác cán bộ,
thuộc trách nhiệm của chủ thể lãnh đạo, trước hết là tập thể ban thường vụ
cấp ủy và cá nhân người đứng đầu tổ chức, nhằm chủ động nguồn nhân sự
trẻ, tập hợp được nhiều nhân tài; làm cơ sở cho việc đào tạo, bố trí sử dụng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11


và phát triển đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị bảo đảo đảm về số
lượng và chất lượng, có cơ cấu hợp lý và sự chuyển biến vững vàng giữa
các thế hệ. Thực chất của quy hoạch cán bộ là việc lập dự án thiết kế về đội
ngũ cán bộ, chủ yếu là đội ngũ lãnh đạo quản lý trong tương lai gần, là tạo
nguồn cán bộ, là phát hiện bồi dưỡng nhân tài trong Đảng và ngoài Đảng,
là tạo ra những điều kiện, những cơ hội để để cán bộ phấn đấu, trưởng
thành, trở thành những người đi tiên phong trong sự nghiệp cách mạng của
dân tộc. Với ý nghĩa đó, quy hoạch cán bộ là nền tảng của công tác cán bộ.
Qua đó, có thể khái niệm một cách chung nhất: quy hoạch cán bộ
là việc lập dự án thiết kế xây dựng đội ngũ cán bộ, chủ yếu là đội ngũ cán
bộ lãnh đạo quản lý các cấp, các ngành, các lĩnh vực của hệ thống chính
trị; dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ với một tình tự hợp lý,
theo một mục tiêu nhất định, trong một thời gian nhất định, làm cơ sở cho
việc lập các kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm cho công tác cán
bộ đi vào nền nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước
mắt và lâu dài.
Quy hoạch cán bộ khác với chiến lược cán bộ và kế hoạch về công
tác cán bộ, song chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau:

Chiến lược cán bộ thường đề cập đến những quan điểm chủ
trương, phương pháp, phương châm, có tính chất tổng thể, xác định mục
tiêu chủ yếu và sự sắp xếp lực lượng trong suốt cả thời kỳ cách mạng.
Chiến lược cán bộ bộ đề cập những vấn đề lớn có tính bao quát, định
hướng chung trong một khoảng thời gian dài, nội hàm của nó rộng hơn quy
hoạch cán bộ. Chiến lược cán bộ là cơ sở vững chắc để tiến hành xây dựng
quy hoạch cán bộ.
Kế hoạch công tác cán bộ là toàn bộ những nội dung về công tác
cán bộ dự định thực hiện trong một thời gian nhất định, được vạch ra theo
một hệ thống với những cách thức, trình tự, thời gian tiến hành cụ thể. So

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12


với quy hoạch cán bộ thì kế hoạch về công tác cán bộ có nội hàm hẹp hơn.
Thường thì dựa trên cơ sở quy hoạch cán bộ, người ta tiến hành xây dựng
về các kế hoạch về công tác cán bộ như: Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, kế hoạch luân chuyển cán bộ, kế hoạch tuyển chọn cán bộ
Như vậy, giữa chiến lược cán bộ, quy hoạch cán bộ và kế hoạch
cán bộ có mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ với nhau, chất lượng của
công tác cán bộ phụ thuộc vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến
lược cán bộ, quy hoạch cán bộ và kế hoạch về công tác cán bộ.
Quy hoạch cán bộ trước hết là công việc phân tích, dự báo và dự
trù sắp xếp nguồn tài nguyên nhân sự cán bộ để sử dụng trước mắt và lâu
dài trong hệ thống chính trị.
Xét về mặt nghiệp vụ - kỹ thuật, mục đích của quy hoạch cán bộ là
tìm đúng người, bố trí họ đúng nơi, đúng lúc, đúng chỗ để phát huy được cả
năng lực của từng cá nhân và tập thể; để tổ chức hiệu quả cao và phát triển
bền vững qua nhiều thế hệ.

Nội dung lập dự án thiết kế xây dựng đội ngũ cán bộ của quy
hoạch cán bộ rất gần với chiến lược cán bộ, cụ thể hóa những quan điểm,
phương châm, nguyên tắc, mục tiêu và giải pháp trong chiến lược cán bộ.
Nội dung này phải xác định:
Một là, mục tiêu của quy hoạch: tuy theo phạm vi tính chất của
quy hoạch cán bộ mà mục tiêu sẽ khác nhau. Ví dụ: quy hoạch cán bộ cấp
tỉnh có mục tiêu khác cấp huyện, quy hoạch cán bộ cấp ngành, huyện này
có mục tiêu khác với ngành, huyện kia.
Hai là, quán triệt cơ cấu cán bộ trong quy hoạch: Trong quy hoạch
phải xác định cơ cấu, tỷ lệ ba độ tuổi, bảo đảm tính đồng bộ, tính kế thừa
và phát triển, tránh tình trạng ”hẫng hụt” cán bộ. Quy hoạch còn phải chú
trọng cơ cấu lĩnh vực, dân tộc, giới tính hợp lý.
Ba là, xác định rõ tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ lãnh đạo cấp

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13


sở, lấy đó làm cơ sở thực hiện đánh giá cán bộ, lựa chọn đúng cán bộ đưa
vào quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo tiêu chuẩn.
Bốn là, xác định đúng nguồn cán bộ, phạm vi và đối tượng quy hoạch.
Nội dung thứ 2 của quy hoạch cán bộ là dự kiến bố trí, sắp xếp
tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ nhất định với một trình tự hợp lý,
trong một thời gian nhất định, đó là:
- Các chức danh trong quy hoạch phải được xác định rõ ràng, cụ
thể như: Cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền hay cán bộ đoàn thể, cán bộ cấp
trưởng hay cấp phó, do bầu cử hay bổ nhiệm.
- Việc lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch phải tính đến việc phục
vụ nhu cầu trước mắt hay để đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu lâu dài.
- Cần đặt quy hoạch cán bộ trong mối quan hệ hữu cơ với các

khâu của công tác cán bộ, như khâu đánh giá cán bộ để làm cơ sở cho việc
lựa chọn cán bộ quy hoạch; khâu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, luân chuyển,
đề bạt, bổ nhiệm cán bộ để từng bước đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức
danh đã quy hoạch.
Về công tác quy hoạch cán bộ cấp sở có thể khái niệm: Đó là hệ
thống, tổng thể các công việc của ban thường vụ tỉnh ủy và tập thể cấp ủy,
tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức các cơ quan, đơn vị cấp sở, nhằm lập
dự án thiết kế xây dựng đội ngũ cán bộ; dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội
ngũ cán bộ lãnh đạo cấp sở với một trình tự hợp lý, theo một mục tiêu nhất
định, trong một thời gian nhất định, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảm bảo cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ
động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
2.2.2. Vai trò công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở
Một là, làm tốt công tác quy hoạch cán bộ sẽ tạo ra nguồn cán bộ
dồi dào, chuẩn bị cán bộ lãnh đạo, quản lý các chức danh lãnh đạo cấp sở
một cách chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14


và lâu dài.
Nếu không có quy hoạch cán bộ, không chủ động nguồn cán bộ thì
khi cần thay thế, bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo cấp sở sẽ gặp khó khăn, bị
động lúng túng, đội ngũ cán bộ sẽ bị hụt hẫng, chắp vá, không đảm bảo tính
liên tục, tính kế thừa và phát triển, cơ cấu cũng thiếu tính đồng bộ. Thực tế
những năm qua không ít những cơ quan, đơn vị trong tỉnh khi cần thay thế
cán bộ hay mỗi khi chuẩn bị nhân sự đại hội đảng, đoàn thể, nhân sự bầu cử
hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân thì không biết lấy nguồn ở đâu, không
thể lựa chọn được những người có đủ tiêu chuẩn theo quy định, dẫn đến đội

ngũ cán bộ có thế nào thì dùng thế đó, bố trí cán bộ một cách gượng ép, bị
động, như một giải pháp tình thế.
Khác với công tác nhân sự, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp
sở không chỉ tạo nguồn cán bộ kế cận các chức danh lãnh đạo thuộc diện
ban thường vụ quản lý đáp ứng yêu cầu thay thế, bố trí cán bộ khi cần thiết,
mà quan trọng hơn là chuẩn bị cho cán bộ dự nguồn từ xa, phục vụ công
tác nhân sự cho những nhiệm kỳ tiếp theo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lâu
dài của các cơ quan, đơn vị trong tỉnh.
Hai là, góp phần đảm bảo công tác cán bộ của tỉnh đi vào nền nếp,
theo quy trình chặt chẽ có tính khoa học, tính chất ngày càng nâng cao.
Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở sẽ tạo cơ sở, điều
kiện, tiền đề vững chắc để phục vụ các khâu trong công tác cán bộ như: đào
tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại,
giới thiệu cán bộ ứng cử và thực hiện chính sách đối với chức danh cán bộ
lãnh đạo cấp sở. Khắc phục tình trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tràn lan,
không có trọng tâm, trọng điểm; đề bạt, bổ nhiệm, phân công, bố trí cán bộ
tuỳ tiện, không đúng người, đúng việc
Ba là, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở góp phần phát huy
dân chủ, đề cao trí tuệ của tập thể trong công tác cán bộ.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15


Nó tạo điều kiện để nhiều cán bộ, đảng viên và nhân dân được tham
gia xây dựng đội ngũ cán bộ cấp sở ở tỉnh ngày càng vững vàng về chính
trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, chủ động
về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bốn là, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở hiện nay còn là

một động lực mạnh mẽ, thúc đẩy đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và
cán bộ dự nguồn trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý nói
riêng ở tỉnh không ngừng phấn đấu vươn lên về mọi mặt.
Thông qua công tác quy hoạch cán bộ, mọi cán bộ, công chức có dịp
nhìn nhận lại mình, thấy rõ tiêu chuẩn cán bộ đưa vào quy hoạch, tiêu
chuẩn cán bộ chức danh được quy hoạch, từ đó tích cực tu dưỡng, rèn
luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, giữ gìn lối sống lành mạnh, giản dị,
hăng hái học tập, công tác, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, để
sớm xem xét đưa vào quy hoạch và từng bước đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn
chức danh cán bộ quy hoạch.
2.2.3. Nội dung, quy trình quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở
2.2.3.1. Các quy định và quan điểm chỉ đạo
Quán triệt Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính
trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày
22/01/2002 của Bộ Chính trị về bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ; Hướng
dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05/11/2012 của Ban Tổ chức Trung ương thì
công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp sở ở tỉnh hiện nay phải xuất phát từ
những quan điểm sau:
- Phải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh và của từng cơ
quan, sở, ban, ngành tỉnh theo từng giai đoạn.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16


Thực tế chứng minh rằng, ở những cơ quan, đơn vị xác định rõ
nhiệm vụ của mình thì sẽ có giải pháp đúng để lựa chọn những cán bộ có
đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng nhiệm vụ đó. Từ yêu cầu nhiệm vụ của
tỉnh và của mỗi cơ quan, đơn vị trong tỉnh từng giai đoạn có thể xác định

mô hình tổ chức bộ máy các cơ quan, số lượng, tiêu chuẩn cụ thể của từng
chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý và do đó tính toán nhu cầu cán bộ, số
lượng, chất lượng cán bộ đưa vào quy hoạch. Khi nhiệm vụ có thay đổi, thì
mô hình tổ chức, bộ máy cũng có thể thay đổi, quy hoạch cán bộ phải nhất
quán tránh phiến diện, nhảy từ cực này sang cực khác, phải vận dụng khéo
léo phù hợp, không thể giữ nguyên cán bộ cũ để thực hiện nhiệm vụ mới,
song cũng cần đảm bảo sự kế thừa sử dụng có hiệu quả số cán bộ hiện có,
từng bước đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho những năm tiếp theo.
Mặt khác, thông qua việc thực hiện vụ của các cơ quan, đơn vị trong
từng thời kỳ, qua thực tiễn của sự nghiệp đổi mới, phong trào thi đua yêu
nước của quần chúng nhân dân để phát hiện những người có phẩm chất và
năng lực, nhất là năng lực chỉ đạo thực tiễn tốt, làm việc năng động, sáng
tạo, có hiệu quả, cũng như các những nhân tố mới có nhiều triển vọng phát
triển để đưa vào quy hoạch cán bộ các chức danh lãnh đạo cấp sở.
- Phải dựa trên quan điểm lập trường giai cấp công nhân, chú ý phát
hiện, bồi dưỡng cán bộ trưởng thành từ thực tế sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Chủ động và sớm phát hiện cán bộ có triển vọng, các tài năng trẻ để
đưa vào quy hoạch dự nguồn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp sở, để có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho tỉnh và đất nước; quan tâm đào tạo
nguồn để tăng tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ, xuất thân từ công nhân,
nông dân, con em các gia đình có công với cách mạng, cán bộ dân tộc thiểu
số, cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần chúng ngoài đảng.

×