1
M U
1. p thit c
Trong TTHS nước ta, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan
trọng đối với cả tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Kết quả của giai đoạn điều tra
vụ án hình sự đóng vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động
buộc tội và là cơ sở, nền tảng để các chức năng TTHS khác trong các giai đoạn tố
tụng tiếp theo được tiến hành. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự với hoạt động tố
tụng chủ đạo là hoạt động của CQĐT, được đánh giá là giai đoạn tố tụng tiềm ẩn
nhiều nhất nguy cơ sai sót, vi phạm pháp luật, kể cả những sai sót, vi phạm pháp
luật nghiêm trọng dẫn đến việc truy cứu TNHS oan, sai.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có chức năng, nhiệm vụ
THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Với chức năng, nhiệm vụ đó, VKS
giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, đảm bảo tính pháp chế của hoạt động
điều tra, ngay từ khi khởi tố, bắt giữ người phạm tội, yêu cầu điều tra thu thập
chứng cứ cho đến khi kết thúc điều tra nhằm làm rõ toàn bộ sự thật khách quan của
vụ án, nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, chính xác, điều tra để truy tố mọi tội
phạm. Hoạt động THQCT và KSĐT của VKS hướng đến tính chính xác, khách
quan của quá trình chứng minh sự thật của vụ án hình sự thuộc phạm vi trách nhiệm
của CQĐT, bảo đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy ra
các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội.
Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từ khi có Nghị quyết
số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã
có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam,
phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, kiểm sát các hoạt động điều tra ngày
càng nâng cao, đưa tỷ lệ bắt giữ xử lý hình sự đạt 96%, tỷ lệ truy tố đạt 98-99%;
2
hạn chế đáng kể các trường hợp phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội và
tòa án tuyên bị cáo vô tội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động THQCT và KSHĐTP trong
giai đoạn điều tra cũng như các hoạt động tiến hành tố tụng khác như điều tra, truy
tố, xét xử, còn có những hạn chế, yếu kém chung là còn được tiến hành theo nếp
cũ, chưa kịp đổi mới tư duy; nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp làm cho quá
trình giải quyết vụ án chậm chạp, kéo dài, chi phí tiến hành tố tụng tốn kém; tình
trạng áp dụng BPNC bắt, tạm giam quá phổ biến; Chưa có sự phân định hợp lý
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; Cơ chế đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng còn bất cập, nhất là
quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Riêng đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra còn có những
những hạn chế, yếu kém, trì trệ đặc thù như: kém năng động trong việc thực thi
nhiệm vụ quyền hạn – THQCT và KSHĐTP, mà pháp luật giao cho, thể hiện qua
việc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can chưa đạt hiệu quả do hoạt động quản
lý tố giác, tin báo về tội phạm của VKS ở một số địa phương thụ động, lúng túng
về phương thức kiểm sát, dẫn đến nguy cơ bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; tình
trạng đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội còn xảy ra và có trường hợp rất
nghiêm trọng (theo Báo cáo Tổng kết công tác kiểm sát trong các năm 2004 –
2013, số vụ đình chỉ do bị can không phạm tội vẫn còn xảy ra, khoảng 0,14 %
tổng số án thụ lý khởi tố, điều tra hàng năm); chưa quản lý, chi phối chặt chẽ được
quá trình điều tra vụ án hình sự nên chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và
KSHĐTP còn thấp, thể hiện qua tình trạng: còn có những trường hợp truy tố
không đúng, tòa án tuyên không phạm tội hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung phải
đình chỉ vụ án (theo số liệu của Cục Thống kê VKSNDTC, trong 10 năm qua, số
trường hợp VKS truy tố, tòa án tuyên không phạm tội là 532 trường hợp, đạt tỷ lệ
0,05% tổng số bị can bị khởi tố, điều tra); tình trạng trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ
sung thời gian qua đã phản ánh chất lượng hoạt động của CQĐT và VKS, tuy từng
bước đã được hạn chế nhưng chuyển biến còn chậm, số lượng vụ bị trả hồ sơ
3
nhiều lần mà vẫn chưa đủ chứng cứ kết tội bị cáo còn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số
vụ án đã quyết định truy tố (trong 10 năm, tòa án các cấp trả hồ sơ cho VKS để
điều tra bổ sung là 22.262 vụ, chiếm tỷ lệ 3,8% trên tổng số 584.457 vụ VKS đã
truy tố. Số vụ án do tòa án cấp tỉnh các địa phương trả lại các đơn vị nghiệp vụ
của VKSND tối cao trong các năm 2008 và 2009 lên tới 44,5%); hiệu quả về mặt
xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của hoạt động thực thi chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong điều tra vụ án hình sự chưa cao, thể hiện qua thực tế:
hoạt động KSĐT ở một số đơn vị kiểm sát còn mang tính hình thức, nặng về phát
hiện vi phạm có tính thủ tục mà chưa phân tích sâu để làm rõ bản chất vi phạm
pháp luật đó đã ảnh hưởng như thế nào đến tính khách quan, tính toàn diện của vụ
án để có thể kiến nghị CQĐT có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục; công tác kiến
nghị phòng ngừa tội phạm ở cả ba cấp kiểm sát còn hạn chế, chưa gắn thống kê tội
phạm với việc phân tích tình hình tội phạm, các đặc điểm, đặc trưng, thủ đoạn của
từng loại tội phạm để tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc đề ra các biện
pháp phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả, gắn đấu tranh phòng, chống tội
phạm với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với những tồn tại, hạn chế nêu trên, hoạt động của VKS hiện nay
đang đứng trước nhiều thách thức lớn lao xuất phát từ những yếu cầu, đòi hỏi của
công cuộc đổi mới, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, xã hội của Việt Nam theo
hương hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hóa. Hệ lụy nghiêm trọng trước mắt
của những thách thức này là tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
tiên liệu, dự báo với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm
tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tội phạm tham nhũng, gian lận thương mại vẫn là
những vấn nạn lớn chưa được ngăn chặn có hiệu quả; tội phạm có tổ chức, tội
phạm xuyên biên giới, đa quốc gia và tội phạm có yếu tố nước ngoài có xu hướng
gia tăng. Trước đòi hỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với HĐTP, VKS
phải thực sự là chuẩn mực của việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, và là chỗ dựa
tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đấu tranh
phòng chống có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật.
4
Trước yêu cầu khách quan đó và do chính vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
của giai đoạn điều tra, của hoạt động điều tra đối với cả tiến trình TTHS, việc đổi
mới hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trở nên cấp thiết và
được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cải cách tư
pháp đều nhấn mạnh đến việc nâng cao trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/2/2002 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”, đã nhấn
mạnh “Hoạt động công tố phải được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự
và trong suốt quá trình tố tụng…”. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2010 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và
Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đều chỉ rõ: “Tăng cường trách
nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra; xây dựng cơ chế công tố gắn với hoạt
động điều tra”.
Để thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, khắc phục
những tồn tại, hạn chế các hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, về phương diện lý luận đã đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu như đổi mới việc
thực hiện hoạt động THQCT theo phương hướng gắn với hoạt động điều tra; đổi
mới phương thức KSĐT ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và
trong suốt quá trình điều tra, nhằm bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp
luật; góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ chức Việt Nam XHCN.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đấu tranh phòng, chống tội
phạm, của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tác
5
giả chọn vấn đề “Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
2. u
Đối tượng nghiên cứu
Từ thực tiễn công tác kiểm sát cho thấy số lượng vụ án thuộc thẩm quyền
thụ lý của TAND các cấp chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu thụ lý án hình sự chung
của các CQĐT. Điều này kéo theo hoạt động điều tra và hoạt động THQCT và
KSHĐTP trong giai đoạn điều tra do CQĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân và
VKSND thực hiện là chủ yếu trong thực trạng điều tra, truy tố nói chung. Nhằm
đạt được tính đại diện, tiêu biểu của kết quả và sự thuận lợi trong nghiên cứu, tác
giả luận án chọn đối tượng nghiên cứu là hoạt động của VKSND theo qui định của
BLTTHS năm 2003 trong điều tra vụ án hình sự. Đây là hoạt động nhằm thực hiện
chức năng THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn điều tra được tiến hành bởi người
tiến hành tố tụng của VKS.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận án nghiên cứu hoạt động của VKSND trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, từ khi vụ việc vi phạm pháp luật bị CQĐT trong lực lượng
Công an nhân dân hoặc bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khởi động
hoặc tái khởi động tiến trình điều tra vụ án hình sự bằng các quyết định khởi tố vụ
án, điều tra bổ sung, phục hồi điều tra, điều tra lại đến khi CQĐT hoàn thành
nhiệm vụ điều tra bằng việc kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình
chỉ điều tra vụ án.
Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng hoạt động của VKS trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm 2004 (năm BLTTHS năm 2003 có hiệu lực)
đến 2013 (thời điểm 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003), nhằm đảm bảo tính
sâu sắc, toàn diện cho việc nghiên cứu.
Về không gian, luận án nghiên cứu hoạt động của VKS trên địa bàn toàn quốc,
nhưng có chú trọng ở một số địa bàn trọng điểm, có số lượng án hình sự thụ lý hàng
năm lớn nhất Việt Nam, mang nhiều sắc thái tiêu biểu của tình hình đấu tranh phòng,
6
chống tội phạm như: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Đồng Nai.
3. n c tin ca lu
Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động của VKS trong điều tra
vụ án hình sự; từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức thống nhất về chức năng, nhiệm
vụ, vị trí, vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu
cải cách tư pháp.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu
của cán bộ giảng dạy, sinh viên trong các Trường đại học Luật, các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng các chức danh tư pháp như Học Viện tư pháp, Trường đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm sát hoặc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người
quan tâm, nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố Việt Nam trong
điều tra hình sự.
Những kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể dùng tham khảo trong
quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như Luật tổ chức VKS, BLTTHS,
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
4. Kt cu ca lu
Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan tình hình và kết quả nghiên cứu liên
quan đến luận án, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra
vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong điều tra vụ án hình sự.
Chương 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát
trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp.
7
TNG QUAN V
KT QU
Việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự để tăng cường khả năng phát hiện và xử lý hiệu quả các loại
tội phạm, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự luôn dành được sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước, và
được tranh luận ở nhiều diễn đàn khoa học.
1.
Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố trong hệ thống
pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như vấn để hoàn thiện nó không phải
là vấn đề mới. Tuy nhiên việc nghiên cứu thực tiễn và lý luận để nâng cao hiệu
quả hoạt động của cơ quan công tố, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giữ
vững trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh yếu tố quốc tế ngày càng trở nên quan
trọng và được mở rộng trong nền tư pháp của từng quốc gia như các mục tiêu: hợp
tác kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế; phòng chống tội phạm xuyên biên giới, mở
rộng dân chủ, đảm bảo tốt hơn quyền con người, chống nghèo đói,…là các vấn đề
được quan tâm, chú trọng thảo luận trong các diễn đàn pháp lý quốc tế. Chức
năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của cơ quan công tố trong TTHS của một số quốc
gia tiêu biểu cho những hệ thống pháp luật hiện đại đều được thể hiện một cách
tập trung, rõ ràng nhất tại các BLTTHS của các quốc gia này. Do vậy, việc nghiên
cứu về các cơ quan công tố nước ngoài nhằm tìm kiếm những giá trị tiến bộ, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam khi giải quyết các yêu cầu, đòi
hỏi của tiến trình cải cách tư pháp thì không thể không nghiên cứu BLTTHS nước
ngoài. Qua nghiên cứu BLTTHS của Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, có thể kết luận được rằng ở một số quốc gia có sự thay đổi chế độ chính
trị trong thập niên 1990 đặc biệt là Nga; hoặc ở một số quốc gia đã tiến hành cải
cách tư pháp để đẩy mạnh cải cách kinh tế, củng cố chính trị, trật tự an toàn xã hội
sau chiến tranh nhằm chấn hưng đất nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc,Trung Quốc,
8
Việt Nam,…việc cải cách các cơ quan công tố - một bộ phận của cải cách tư pháp,
đã làm xuất hiện một hình thức tổ chức và hoạt động mới của cơ quan công tố nói
riêng và mô hình TTHS nói chung đó là mô hình TTHS kết hợp. Đó là mô hình
TTHS có sự kết hợp các ưu điểm của hai mô hình TTHS tranh tụng và thẩm vấn
trên cơ sở điều kiện riêng biệt về địa lý, chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống
tiến hành TTHS và mục tiêu phát triển của từng quốc gia. Đây có thể xem là một
kinh nghiệm quí, một hướng cải cách tư pháp khả thi vì có thể phù hợp với các
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Các nghiên cứu về hoạt động của viện công tố/ VKS trong điều tra hình sự
ở nước ngoài, đặc biệt là việc nghiên cứu BLTTHS của một số nước cùng với việc
nghiên cứu các ý kiến đánh giá tổng quan của một số học giả nước ngoài thể hiện
qua các trang thông tin điện tử là hoạt động nghiên cứu có giá trị rất quan trọng
trong việc xây dựng và đề xuất các phương hướng, biện pháp hoàn thiện về pháp
luật, chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, các kinh nghiệm có
được từ việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài nói chung đều có điểm hạn chế là
tính tương thích, phù hợp đối với điều kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội,
truyền thống pháp luật của Nhà nước ta không phải ở khía cạnh, vấn đề nào cũng
đạt được mà đòi hỏi sự chọn lọc, biến đổi nhất định. Trên thế giới hiện nay, không
có nước nào có cơ quan công tố/ VKS với tư cách như là một hệ thống cơ quan
độc lập và phục vụ cho chính thể nhất nguyên như ở Việt nam; Hệ thống cơ quan
công tố, VKS ở một số nước tuy có nhiều điểm tương đồng hoặc về văn hóa, hoặc
về truyền thống pháp luật, hoặc về các mục tiêu chính trị, kinh tế, nhưng chỉ có giá
trị tham khảo khi nghiên cứu để chọn lọc những giá trị tốt đẹp nhằm tìm kiếm và
xây dựng các phương hướng và hoàn thiện theo yêu cầu cải cách tư pháp, như:
Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,…đã thực
hiện. Cũng cần chú ý hạn chế xu hướng trọng vọng các yếu tố nước ngoài trong
khoa học pháp lý, nên việc đề xuất sửa đổi chính sách, pháp luật cần phải thận
trọng và phải được đặt dưới tiêu chí đánh giá quan trọng, là sự phù hợp với điều
kiện chính trị, kinh tế xã hội và truyền thống pháp luật Việt Nam.
9
Tuy nhiên, với sự hạn chế thường thấy của việc nghiên cứu trong nước,
nghiên cứu sinh không có nhiều cơ hội tiếp cận trực tiếp với các công trình nghiên
cứu chuyên sâu ở nước ngoài liên quan đến đề tài. Cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu
trực tiếp với các nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài của nghiên cứu sinh là
việc tham dự khóa học ngắn hạn do United Nations Asia and Far East Institute
(UNAFEI) tổ chức tại Nhật bản trong năm 2009 về vấn đề "Luật và Đạo đức nghề
nghiệp của Thẩm phán, Công tố viên và các nhân viên thực thi pháp luật" (Ethics
and Codes of Conduct for Judges, Prosecutors and Law Enforcement Officers).
Kiến thức và kinh nghiệm có được từ các giảng viên đến từ Nhật, Pháp, Mỹ, Hàn
Quốc có giá trị tham khảo rất lớn khi nghiên cứu, đề xuất các phương hướng, giải
pháp nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của VKS, đặc biệt là các giải pháp
liên quan đến yếu tố con người; Việc tham gia các hội thảo khoa học về cải cách
tư pháp, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 do Viện khoa học kiểm sát tổ chức
dưới sự tài trợ của tổ chức SIDA trong năm 2012; tham gia hội thảo phòng, chống
tiêu cực trong HĐTP - Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới do Bộ tư pháp
tổ chức ngày 03/4/2014 dưới sự tài trợ của Chương trình đối tác tư pháp Liên
minh Châu Âu, cũng là nguồn tài liệu nghiên cứu rất có giá trị trong việc định
hình, xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học của tác giả đối với các vấn
đề nghiên cứu của đề tài.
2. t Nam
Về các công trình nghiên cứu lớn như đề tài khoa học cấp bộ của tập thể
các tác giả (Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học VKSND tối cao, Hà
Nội, 1999), đã đề cập đến các vấn đề lớn, cơ bản, nền tảng của không chỉ hoạt
động của VKS trong TTHS mà còn của tất cả các hoạt động TTHS khác. Công
trình nghiên cứu này đa dạng, phức tạp, đó là sự tổng hợp rất rộng các quan điểm
khoa học TTHS đối với chức năng, nhiệm vụ của VKS không chỉ trong giai đoạn
điều tra mà cả trong tiến trình TTHS với nhiều ý kiến mâu thuẫn, trái chiều, đòi
hỏi người đọc phải có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học nhất định mới có khả
năng có được nhận định, đánh giá, chính xác. Mặt khác, các quan điểm khoa học
10
TTHS này xuất hiện trên cơ sở sự kế thừa các quan điểm của nền khoa học pháp
lý ở các nước Đông Âu trước đây, được thể hiện qua lăng kính yêu cầu “đổi mới”
của Việt Nam thập niên 90 thế kỷ XX nên còn nhiều điểm chưa phù hợp với xu
hướng hội nhập và học hỏi lẫn nhau về ưu điểm giữa các truyền thống pháp luật
thể hiện khá phổ biến trong các quan điểm về cải cách, đổi mới trong khoa học
hình sự, TTHS hiện nay; Các công trình nghiên cứu có nhiều ảnh hưởng đến đề tài
như: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra của Lê Hữu Thể và các tác giả năm 2008; Tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học
cấp bộ, Hà Nội, 2008; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục
TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, 2011; Một số
vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nguyễn Hải Phong và
các tác giả. Đây là những nghiên cứu có tính toàn diện khái quát rất cao về lý luận
và thực tiễn của hoạt động của VKS không chỉ trong điều tra hình sự mà còn ở các
giai đoạn tố tụng khác (như Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học
VKSND tối cao, Hà Nội, 1999; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi
mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ,
2011). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này hoặc quá rộng, quá bao quát,
toàn diện nên không trùng lặp về phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp,
chuyên sâu, chi tiết, mang nặng tính mô phạm và thiên về diễn giải, hướng dẫn
thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với cán bộ kiểm sát (như Một số vấn
đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp). Các công trình nghiên cứu trên
chưa chỉ rõ sự bất cập, hạn chế của pháp luật thực định về hoạt động của VKS
trong điều tra vụ án hình sự. Điểm mà tác giả chưa tìm thấy trong các nghiên cứu
trên là sự nhìn nhận, đánh giá về ưu điểm, hạn chế cả về lý luận và thực tiễn hoạt
động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ góc độ thực tiễn. Trong đó, không
chỉ là những hạn chế của những quan điểm, lý luận hiện được công nhận một cách
11
rộng rãi, phổ biến về vị trí, vai trò của VKS và những hạn chế của pháp luật thực
định, đặc biệt là của BLTTHS năm 2003, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về
hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự, để từ đó có những đề xuất đổi
mới, cải cách khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật.
Nhiều bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như
tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Kiểm sát của các học giả nổi tiếng trong và
ngoài ngành kiểm sát, bàn về từng khía cạnh, từng hoạt động của VKS cũng như
của các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đây
là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với các vấn đề nghiên cứu của đề tài kể
cả hai khía cạnh ủng hộ và phản biện quan điểm nghiên cứu của tác giả. Ví dụ
như: Lý Văn Chính, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra”, tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 6/2005; Đỗ Văn Đương, “Cơ quan thực hành quyền công
tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
7/7/ 2006; Lê Văn Cảm, "Bàn về hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng và thi
hành án trong chiến lược cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 01/2009; Trần
Công Phàn, "Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp", tạp chí Kiểm sát 03/2012; Trịnh Tiến Việt, "Khái niệm và các tiêu chí đánh
giá hiệu quả kiểm soát xã hội đối với tội phạm", tạp chí Kiểm sát số 15/2012;
Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách tư
pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng
tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 16/2012; Nguyễn Hòa
Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012;
Nguyễn Thị Thủy, "Sửa đổi bổ sung BLTTHS nhằm thực hiện chủ trương của
Đảng - Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ
chế gắn công tố với điều tra”, tạp chí Kiểm sát 21/2012; Nguyễn Thái Phúc, "Sửa
12
đổi nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành kiểm sát nhân dân", tạp chí
Kiểm sát 17/2012; Trần Văn Độ, "Hoàn thiện các qui định của BLTTHS về biện
pháp tạm giam", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Trần Đình Nhã, "Chế định điều tra tội
phạm trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Đỗ Văn Đương, "Phân định rõ
thẩm quyển quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ
sung chế định chứng cứ trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 16/2012; Đào Trí Úc,
"Đề xuất đổi mới VKS ở Việt nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới", tạp
chí Kiểm sát số 12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, "Vai trò cơ quan công
tố các nước trên thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình sự", tạp chí Kiểm sát số
13/2013; Lê Thị Tuyết Hoa, "Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra", tạp chí Kiểm sát số 08/2014; Bên cạnh đó, tác giả còn tìm thấy một số tài
liệu có ý nghĩa là những đánh giá tổng kết, khái quát cao kết quả và những hạn
chế, yếu kém của công tác kiểm sát trong quá trình hình thành và phát triển (như
Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các công tác của ngành kiểm sát
nhân dân qua 50 tổ chức và hoạt động, Hà Nội, 2010; Báo cáo kết quả tổng kết 8
năm thi hành BLTTHS năm 2003, Hà Nội, 2012). Theo quan điểm của tác giả các
nghiên cứu này thiên về đúc kết kinh nghiệm, tổng hợp, đánh giá ưu, khuyết điểm
của hoạt động kiểm sát theo hai hướng hoặc quá bao quát, toàn diện đến toàn bộ
hoạt động nghiệp vụ kiểm sát hoặc quá tỉ mỉ đối với từng hoạt động kiểm sát cụ
thể nên không có cùng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, các bài báo
được đăng tải trong các tạp chí trong và ngoài ngành kiểm sát, đặc biệt là của
Lãnh đạo VKSND tối cao, trở thành nguồn tài liệu tham khảo có tính chất định
hướng nghiên cứu quan trọng đối với đề tài.
Trong những năm gần đây, các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối
cao đã triển khai nghiên cứu nhiều chuyên đề nghiệp vụ nhằm phân tích, đánh giá
thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các loại án
hình sự; cụ thể như: “Một số kinh nghiệm về Công tác THQCT và KSĐT án xâm
phạm an ninh quốc gia từ năm 2005 đến năm 2007” của Vụ THQCT và KSĐT án
13
an ninh năm 2007; chuyên đề “Nâng cao chất lượng THQCT, KSĐT và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng” của Vụ THQCT và KSĐT án ma túy năm
2008; chuyên đề “Nâng cao năng lực của Kiểm sát viên trong công tác KSĐT án
giết người” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự về trật tự xã hội năm 2008;
chuyên đề “Tổ chức bộ máy và tình hình hoạt động THQCT và KSĐT án tham
nhũng của ngành Kiểm sát trong hai năm 2007-2008” của Vụ THQCT và KSĐT
án tham nhũng năm 2009; chuyên đề “Thực trạng công tác KSĐT tội phạm công
nghệ cao - Một số giải pháp và kiến nghị” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự
về kinh tế và chức vụ năm 2009; chuyên đề “Tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra” của Vụ THQCT và KSĐT án trật tự xã hội” năm 2011.
Đây là các nghiên cứu chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm sát trong giới hạn không
gian và thời gian xác định nên kết quả nghiên cứu nêu trên có giá trị tham khảo
quan trọng đối với việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra.
Đặc biệt, Viện khoa học kiểm sát với sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp
lý Nhật Bản và Cộng đồng Châu Âu thực hiện một số đề án, đề tài nghiên cứu
khoa học TTHS có qui mô lớn nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp trong
ngành kiểm sát (như: Mô hình TTHS thế giới; Mô hình TTHS Việt nam; Nghiên
cứu về một số cơ quan công tố trên thế giới; So sánh pháp luật TTHS Việt nam và
một số nước trên thế giới; Chỉ dẫn về công tác công tố; Định hướng sửa đổi luật
tổ chức VKSND năm 2002 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; ), cũng là nguồn
tài liệu đảm bảo tính phong phú, đa dạng của đề tài khi đề xuất phương hướng,
biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS.
Các nghiên cứu học thuật về VKS nói chung và các nghiên cứu về hoạt
động của VKS trong điều tra hình sự nói riêng không nhiều. Luận văn thạc sĩ luật
học điển hình là: Vũ Thị Xuân Nhuệ "Một số hoạt động KSĐT án kinh tế tại
TP.Hồ Chí Minh 1991-1996"; Đoàn Tạ Cửu Long "Công tác KSĐT án trị an tại
Thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 -2000 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"; Võ
14
Phước Long "Chức năng của VKSND trong TTHS" năm 2007; Đoàn Tấn Minh
"Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự mà bị can là
người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Tiền giang" năm 2008; Nguyễn Văn Tấn
"Hoạt động KSĐT các tội phạm về ma túy tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay" năm 2008. Công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ, có: Nguyễn Thị
Mai Nga "Cơ sở lý luận và thực trạng của điều tra và truy tố các tội phạm về ma
túy", Nhà xuất bản thông tin và truyền thông năm 2012; Đào Hữu Dân Mối quan
hệ giữa cơ quan cảnh sát điều tra với VKS trong điều tra vụ án hình sự, Luận án
tiến sĩ luật học Trường Đại học cảnh sát nhân dân năm 2006; Các kết quả nghiên
cứu thể hiện trong các Luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, tuy có một số vấn đề
thuộc cơ sở lý luận có quan điểm, đánh giá khá tương đồng với đề tài, như các vấn
đề về Công tố; THQCT; KSHĐTP;… Tuy nhiên, các nghiên cứu này, so với đề
tài, có nhiều quan điểm khác biệt và khác về phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
Các nghiên cứu khoa học về VKS nói chung là khá hiếm, hiện chưa có công trình
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ về hoạt động của
VKS trong điều tra vụ án hình sự.
Về hoạt động nghiên cứu riêng của nghiên cứu sinh nhằm thực hiện đề tài,
gồm có: chuyên đề "Cơ sở khoa học của hoạt động THQCT và KSHĐTP trong
điều tra hình sự" năm 2010; chuyên đề "Chức năng, nhiệm vụ và phương hướng
hoàn thiện hoạt động THQCT, KSHĐTP trong điều tra hình sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp" năm 2011; chuyên đề "Thực trạng hoạt động của VKS trong điều
tra hình sự" năm 2011; tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra đối với Kiểm sát
viên, Luật sư, Lãnh đạo VKS hai cấp tại một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải
Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Long An; Các kết quả nghiên cứu
trên đều được trình bày thành các nội dung của luận án.
3. Gi thuyt, mu
Các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài có giá trị định hướng và
tham khảo nhất định đến việc nghiên cứu của đề tài, nhưng ít hoặc không trùng
lắp với mục tiêu, phạm vi, cách tiếp cận trong nghiên cứu của đề tài. Để giải quyết
15
các vấn đề đặt ra của đề tài “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp”, giả thuyết rằng pháp luật hiện hành kể cả trong lý luận
và thực tiễn áp dụng tồn tại một số vấn đề sau đây:
Trong nhận thức chung về quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về nhiệm
vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của VKS trong từng lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ nói
chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng còn khác nhau, tồn tại nhiều luận điểm khác
biệt, mâu thuẫn. Nguyên nhân cốt lõi là do còn tồn tại sự khác biệt về nhận thức lý luận
về các vấn đề khoa học mang tính sơ sở, nền tảng cho hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, như: QCT, HĐTP, THQCT, KSHĐTP, mối quan hệ
giữa THQCT và KSHĐTP, cũng như tính đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Từ sự nhận thức khác biệt về nhận
thức này kéo theo hệ quả là việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức, hoạt
động chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS chưa được hợp lý nên tất yếu chưa
đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tế công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm.
Sự chưa hoàn thiện này còn là một trong những nguyên nhân tạo ra nguy cơ hiểu và
vận dụng khác nhau trên thực tế các qui định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong TTHS. Điều này càng làm trầm trọng thêm hạn chế, thiếu
hiệu quả của hoạt động tác nghiệp kiểm sát trong TTHS.
Để góp phần xác định được những cơ sở cần thiết cho việc cải cách, nâng cao
hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự thì trước hết những vấn đề
trong nhận thức chung và thực tiễn của hoạt động THQCT, KSHĐTP phải được xác
định rõ. Tiếp đến, cần làm việc làm rõ các yếu tố của yêu cầu cải cách tư pháp đối với
hoạt động của VKS trong TTHS cũng như những kinh nghiệm tiến bộ, phù hợp với
điều kiện, hoàn cải cải cách tư pháp thực tế của Việt Nam để xây dựng cơ sở cho việc
đề xuất phương hướng, biện pháp mang tính cấp thiết, toàn diện, khả thi nhằm nâng
cao chất, lượng hiệu quả cho hoạt động của VKS trong TTHS.
Để hoàn thành đề tài "Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", mục tiêu nghiên cứu của đề tài, kết quả
nghiên cứu phải trả lời được những câu hỏi:
16
- Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của VKS trong điều tra vụ án
hình, có những vấn đề gì cần nghiên cứu để đảm bảo tính nhất quán trong nhận
thức và thực hiện?
- Ưu điểm và hạn chế của truyền thống tổ chức, hoạt động của VKSND
Việt Nam là gì và những kinh nghiệm quí của thế giới có tính khả thi đối với Việt
nam trong việc tổ chức, hoạt động của cơ quan công tố nhằm thực hiện cải cách để
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự
như thế nào?
- Mục đích, yêu cầu, nội dung của công cuộc cải cách tư pháp đối với nền
tư pháp nói chung và đối với VKS trong điều tra vụ án hình sự là gì?
- Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, hoạt động THQCT và KSĐT vụ án
hình sự có những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nào?
- Những phương hướng, nội dung, giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới, nâng
cao hiệu quả hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp là gì?
Giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, kết quả mà luận văn
hướng tới là: trở thành nguồn tài liệu tham khảo kể trên cả hai phương diện lý luận
và thực tiễn đối với những ai quan tâm nghiên cứu về một loạt hoạt động TTHS
đặc biệt - hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự; và cao hơn nữa hướng
tới sự đóng góp nhất định đối với công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta
hiện nay, thông qua việc đề xuất hoàn thiện BLTTHS năm 2003.
4. u
Phương pháp luận thực hiện đề tài dựa trên nền tảng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng,
chống tội phạm, về vị trí, vai trò của VKS trong bộ máy nhà nước và trong TTHS;
và các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân
chủ của công dân.
17
Để chứng minh giả thuyết và trả lời câu hỏi nghiên cứu, tác giả sử dụng
chủ yếu hai phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tài liệu tham khảo và điều tra xã
hội học, để nghiên cứu, làm rõ các vấn đề thuộc phạm vi các câu hỏi nghiên cứu,
qua đó xác định hoặc bác bỏ các giả thuyết nghiên cứu. Hai phương pháp này
được sử dụng dưới các hình thức phân tích, nhằm định tính và định lượng các vấn
đề nghiên cứu trên cơ sở đó, thông tin được tổng hợp, đánh giá để kết luận vấn đề
nghiên cứu.
Đối với các vấn đề lý luận, cách tiếp cận là từ vấn đề tổng quan đến cụ thể,
từ chung đến riêng, nghiên cứu vấn đề thông qua các yếu tố của một quan hệ pháp
luật (khái niệm, đặc điểm, tính chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung). Đối
với các vấn đề thực tiễn, cách tiếp cận là việc đi từ khía cạnh cụ thể đến khía cạnh
tổng quan, chú trọng đến yếu tố pháp lý, vai trò, hiệu quả tố tụng của chúng. Một
số vấn đề quan trọng, phức tạp được kết hợp cả hai cách tiếp cận nêu trên nhằm
làm rõ được vấn đề nghiên cứu một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tác giải không
lựa chọn pháp pháp nghiên cứu, luận giải các vấn đề của luận án như các công
trình nghiên cứu về hoạt động của VKS thường sử dụng. Đó là hoặc qua thiên về
khía cạnh học thuật hoặc quá thiên về khía cạnh thực tiễn khi nghiên cứu các vấn
đề lý luận. Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn thì thiên về khía cạnh mô tả, giải
thích mang tính mô phạm cho người đọc hiểu về thực tiễn tác nghiệp kiểm sát.
Tác giả lựa chọn cách nhìn nhận, nghiên cứu, đánh giá vấn đề về nhận thức và
thực tiễn hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn, thông qua
các yếu tố của một quan hệ pháp luật (khái niệm, mục đích, chủ thể, đối tượng,
phạm vi, nội dung, hình thức thể hiện) mà không phân tích sâu vào việc diễn giải
thực tiễn công tác kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự, nhằm đạt được kết quả
nghiên cứu có giá trị.
18
C
NHN THC CHUNG V HONG CA
VIN KIU TRA V
1.1. iu tra v
1.1.1 Khái niệm điều tra vụ án hình sự
Để hiểu rõ khái niệm điều tra vụ án hình sự, trước hết cần phải nghiên cứu,
làm rõ các khái niệm liên quan, đó là: Điều tra và điều tra vụ án hình sự.
Theo từ điển tiếng Việt [53], điều tra là hoạt động tìm hỏi, xem xét để biết
rõ sự thật. Với ý nghĩa là một loại hoạt động nhận thức của con người, điều tra
được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, để nghiên cứu, tìm
hiểu, thu thập thông tin, xác định mức độ kiến thức, hiểu biết về một vấn đề, lĩnh
vực nào đó mà con người quan tâm. Có thể thấy, khái niệm điều tra đã trở nên phổ
biến trong đời sống chính trị, khoa học, kinh tế, xã hội, như: điều tra dân số, điều
tra về nhà ở, điều tra mức độ tiêu thụ sản phẩm, điều tra thị hiếu tiêu dùng, điều
tra xã hội học,…
Trong khoa học hình sự, khái niệm điều tra đã được nhiều tác giả nghiên
cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Có ý kiến cho rằng “Điều tra là công tác trong TTHS được tiến hành nhằm
xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”[49].
Ý kiến khác cho rằng “Điều tra là một giai đoạn của quá trình TTHS, trong
đó CQĐT áp dụng các biện pháp do Luật TTHS quy định để xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội, VKS kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định
truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của tòa án” [12]; hoặc, “Điều tra vụ án
hình sự là một giai đoạn TTHS, trong giai đoạn này CQĐT áp dụng mọi biện
pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”[16]. Quan
điểm này, hoàn toàn trùng lắp về mặt nội dung khái niệm điều tra vụ án hình sự
theo qui định của khoản 1, Điều 65 BLTTHS năm 2003.
19
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005 thì điều
tra được hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình phản ánh sự thật
về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực
phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều tra do cơ quan Công an tiến hành
có thể dưới hai hình thức: Điều tra công khai do CQĐT hoặc một số cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành một cách công
khai theo quy định của luật TTHS. Điều tra bí mật (điều tra trinh sát) do lực lượng
trinh sát tiến hành, thường diễn ra trước khi khởi tố vụ án hình sự, phải tuân theo
trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà các văn bản của ngành Công an quy định. Mỗi
hình thức điều tra có sự khác nhau cơ bản về chủ thể, thời hạn, hình thức cũng như
trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra.
Theo từ điển tiếng Việt [64, tr: 05, 1090], nghĩa chung nhất của vụ án hình
sự được hiểu là sự việc vi phạm pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định cần được xét xử trước tòa án. Do vậy, chỉ khi nào một hành vi vi phạm
pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc truy cứu TNHS
(điều tra, truy tố, xét xử) đối với chủ thể thực hiện hành vi đó thì việc truy cứu
trách nhiệm đó mới trở thành vụ án hình sự.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của TTHS, trong đó CQĐT và
những cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng mọi
biện pháp điều tra do pháp luật TTHS quy định nhằm thu thập chứng cứ chứng
minh làm rõ vụ án hình sự. So với khái niệm điều tra hình sự, khái niệm, điều tra
vụ án hình sự có phạm vi hẹp hơn điều tra hình sự về không gian và thời gian.
Như vậy, để làm rõ khái niệm điều tra, cần tiếp cận ở hai giác độ: Điều tra
với nghĩa là một giai đoạn tố tụng và điều tra với nghĩa là hoạt động tố tụng.
Khi phân tích điều tra với nghĩa là một giai đoạn tố tụng, cần phải đề cập
đến các khía cạnh sau: Thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc, thời hạn, chủ thể
tiến hành, chủ thể tham gia tố tụng, nhiệm vụ của giai đoạn này.
20
- Thứ nhất, về thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc và thời hạn điều tra.
Đối với tất cả các vụ án hình sự, thời điểm bắt đầu của giai đoạn điều tra là
khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi hoàn thành nhiệm vụ điều tra. Tuy
nhiên, trách nhiệm điều tra chủ yếu nhưng không chỉ bắt đầu tại thời điểm ban
hành quyết định khởi tố vụ án mà còn được tiếp tục duy trì khi xuất hiện một số
quyết định tố tụng có hiệu lực, như: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết
định hủy bản án để điều tra lại của tòa án cấp phúc thẩm và của tòa án xét xử theo
thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm; quyết định phục hồi điều tra. Tương tự, trách
nhiệm điều tra vụ án hình sự không chỉ kết thúc khi CQĐT kết luận điều tra và đề
nghị truy tố mà còn chấm dứt hay tạm dừng khi vụ án được đình chỉ điều tra hay
tạm đình chỉ điều tra.
Thời hạn điều tra các vụ án hình sự tùy từng trường hợp được luật xác định
cụ thể. Trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn theo quy định của pháp luật
Về phương diện lý luận, khi có dấu hiệu tội phạm xuất hiện, Nhà nước, với
hệ thống pháp luật của mình, đặt ra yêu cầu điều tra làm rõ hành vi và người phạm
tội. Tuy nhiên, trong TTHS, việc điều tra hình sự này được chia nhiều giai đoạn
với chủ thể, nhiệm vụ khác nhau. Khi nghiên cứu, cần phân biệt giai đoạn điều tra
vụ án hình sự với giai đoạn khởi tố vụ án – phạm vi mà hoạt động điều tra ban đầu
được thực hiện.
Giai đoạn khởi tố vụ án bắt đầu từ khi có thông tin về tội phạm và kết thúc
khi ra quyết định khởi tố vụ án với thời hạn được Bộ luật TTHS quy định. Như
vậy, điều tra vụ án hình sự là giai đoạn kế tiếp giai đoạn khởi tố vụ án. Trong giai
đoạn khởi tố vụ án cũng có hoạt động điều tra, tức là hoạt động thu thập chứng cứ,
tài liệu. Tuy vậy hai giai đoạn này khác nhau về nhiệm vụ, chủ thể tiến hành tố
tụng, chủ thể tham gia tố tụng v.v… Việc thu thập chứng cứ, tài liệu trong giai
đoạn khởi tố vụ án có nhiệm vụ là phục vụ cho việc xác định căn cứ khởi tố vụ án,
còn nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rộng hơn. Nói cách khác, hoạt động điều tra
vụ án hình sự chính là hoạt động của CQĐT trong giai đoạn điều tra theo qui định
của BLTTHS năm 2003.
21
Điều tra ban đầu là khái niệm mà nội hàm của nó trong trong khoa học luật
TTHS có sự khác biệt so với cách hiểu trong khoa học điều tra hình sự.
Theo cơ cấu qui định của BLTTHS năm 2003, có thể thấy rằng điều tra ban
đầu được bắt đầu từ khi tiếp nhận, tố giác, tin báo về tội phạm đến khi khởi tố vụ
án hoặc không khởi tố vụ án, thời hạn điều tra ban đầu rất ngắn. Chủ thể tiến hành
tố tụng trong điều tra ban đầu là các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra. Điều tra ban đầu được tiến hành trong một số trường hợp khi mà
thông tin về tội phạm chưa rõ ràng và chưa đầy đủ để có thể quyết định khởi tố vụ
án hình sự.
Trong khoa học điều tra hình sự, giai đoạn điều tra được nhiều giáo trình,
tài liệu chia ra: “điều tra ban đầu” và “điều tra tiếp theo” - điều tra vụ án hình sự.
Tuy vậy, về phương diện lý luận, điều tra ban đầu với ý nghĩa là một giai đoạn
điều tra trong khoa học điều tra hình sự vẫn còn là vấn đề cần phải trao đổi. Một
xu hướng được nhiều sự đồng tình của cả học giả lẫn cán bộ thực tiễn pháp lý là
xây dựng và phát triển các hoạt động quan trọng, then chốt trong TTHS thành các
giai đoạn tố tụng cụ thể để đẩm bảo hiệu quả của từng hoạt động chức năng tố
tụng lẫn cả quá trình tố tụng và điều tra ban đầu cũng nằm trong xu hướng đó.
Mặc dù chưa được xác định rõ ràng nhưng thuật ngữ “điều tra ban đầu” cho
phép được hiểu đây là một giai đoạn. Sau điều tra ban đầu là giai đoạn “điều tra
tiếp theo”. Tuy vậy sự khác nhau, căn cứ để phân biệt “điều tra ban đầu” và “điều
tra tiếp theo” trong khoa học điều tra hình sự chưa được làm rõ. Về phương diện
lý luận và thực tiễn, việc phân chia quá trình thực hiện hoạt động điều tra thành
các giai đoạn khác nhau là vấn đề phức tạp, cần phải tiếp tục nghiên cứu. Mặt
khác, phạm vi đề tài này không cho phép đề cập sâu về khái niệm điều tra ban đầu
trong khoa học điều tra hình sự nên tác giả chỉ nêu ra mà không làm rõ nội hàm
của khái niệm này.
- Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra
So với giai đoạn khởi tố vụ án, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rộng hơn và
phức tạp hơn.
22
Các giáo trình, tài liệu về TTHS và về khoa học điều tra hình sự trình bày
về nhiệm vụ của giai đoạn điều tra còn có sự khác nhau. Theo giáo trình Luật
TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra có 04
nhiệm vụ là: Xác định tội phạm và người phạm tội; Xác định tội phạm do người
phạm tội gây ra, tạo điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án; Lập hồ sơ, đề
nghị truy tố bị can; Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ
quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn chặn.
Tuy nhiên, qua tổng hợp các tài liệu và từ thực tiễn hoạt động điều tra, có
thể khái quát nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là:
- Xác định diện bị can
Xác định diện bị can là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong điều tra các vụ
án hình sự. Khi khởi tố vụ án, có thể khởi tố một số bị can, nhưng thông thường
qua quá trình điều tra việc khởi tố ai, khởi tố bao nhiêu người mới được xác định
cụ thể. Không phải bất cứ ai tham gia vụ án đều bị khởi tố mà việc xác định diện
khởi tố cần phải tính toán cụ thể, phải xem xét các yêu cầu chính trị, nghiệp vụ.
- Thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh làm rõ toàn bộ vụ án
Làm rõ toàn bộ vụ án là làm rõ tất cả những vấn đề cần phải chứng minh
trong vụ án, gồm: Các dấu hiệu định tội; các tình tiết định khung hình phạt; các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và các tình tiết khác (các tình tiết là cơ sở cho
việc miễn TNHS, miễn giảm hình phạt, cơ sở loại trừ TNHS,…).
Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn, phức tạp nhất. Chất lượng,
hiệu quả của giai đoạn điều tra cao hay thấp phụ thuộc vào việc thực hiện nhiệm
vụ này như thế nào.
- Xác định diện bị can cần truy tố và đề nghị VKS truy tố
Khởi tố bị can và đề nghị truy tố là hai vấn đề có quan hệ chặt chẽ nhưng
không phải là một.
Qua kết quả điều tra, nếu thấy rằng có căn cứ miễn TNHS hay tạm đình
chỉ, đình chỉ điều tra thì CQĐT không đề nghị VKS truy tố. Việc đề nghị hay
23
không đề nghị truy tố bị can nào đó trong vụ án phải có căn cứ pháp lý và phải
được xem xét một cách cẩn trọng.
- Xây dựng kết luận điều tra và hoàn thiện hồ sơ vụ án
- Tiến hành các biện pháp cần thiết phục vụ cho việc điều tra, xử lý người
phạm tội (áp dụng BPNC, áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác như
khám xét, kê biên tài sản…)
Hoạt động của CQĐT bao gồm hoạt động điều tra và các hoạt động khác.
Hoạt động điều tra là các hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm làm rõ vụ án.
Hoạt động khác là những hoạt động phục vụ cho công tác điều tra làm rõ vụ án và
truy cứu TNHS đối với bị can, bảo đảm quyền cho bị can và những người tham
gia TTHS. Mặc dù cũng do Điều tra viên tiến hành nhưng theo nghĩa hẹp đây
không phải là hoạt động điều tra vì không nhằm thu thập chứng cứ.
- Thứ ba, chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra
Chủ thể chính của hoạt động điều tra là CQĐT có thẩm quyền theo qui định
của BLTTHS năm 2003. Mặc dù theo qui định của pháp luật, tiến hành hoạt động
điều tra còn có VKS có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui
định của Điều 112 BLTTHS năm 2003 và một số cơ quan khác được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra ban đầu theo qui định của BLTTHS năm 2003 và
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Tuy nhiên, chỉ có CQĐT có thẩm quyền mới là
chủ thể chính của hoạt động điều tra vụ án hình sự.
Xét về chức năng tố tụng hoạt động của CQĐT và VKS là hoạt động của
Cơ quan tiến hành tố tụng, có cùng chức năng buộc tội nhưng mỗi cơ quan có
chức năng nghiệp vụ khác nhau.
Tham gia tố tụng vào giai đoạn điều tra có thể bao gồm tất cả các diện
người tham gia tố tụng theo qui định của BLTTHS năm 2003, tùy theo phạm vi và
tính chất của từng vụ án. Tuy nhiên, hai dạng người tham gia tố tụng là bị can, bị
hại là hai dạng người tham gia tố tụng chính, và đều phải được xác định khi tiến
hành điều tra của tất cả các vụ án.
24
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động điều tra vụ án hình sự
Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng phức tạp, phong phú
và đa dạng như đã được phân tích ở phần trên. Sự phức tạp, đa dạng của hoạt động
điều tra vụ án hình sự hàm chứa trong các đặc điểm nổi bật sau đây:
- Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện công khai theo
trình tự, thủ tục TTHS
Hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến hành công khai theo các trình
tự, thủ tục và theo những biện pháp do pháp luật TTHS quy định. Tính công khai
của hoạt động điều tra thể hiện chỉ được tiến hành các biện pháp điều tra với sự có
mặt của những người mà luật quy định và ký vào biên bản các hoạt động điều tra
(như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,
người bị hại ). Tính công khai ở đây là công khai tiến hành các thủ tục tố tụng
điều tra, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải giữ bí mật. Việc giữ bí mật điều tra
có ý nghĩa quan trọng, có tính nguyên tắc quyết định sự thành công hay thất bại
của cuộc điều tra, khám phá sự thật khách quan của vụ án.
Đặc điểm này để phân biệt với những biện pháp điều tra khác như điều tra
trinh sát là dạng hoạt động nghiệp vụ được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí
mật để thu thập tin tức về hoạt động tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn và nhanh chóng khám phá vụ án.
Phạm vi chứng minh trong hoạt động điều tra vụ án hình sự rộng hơn phạm
vi những vấn đề phải chứng minh do BLTTHS qui định.
Để xác định được một tình tiết do luật định, CQĐT phải làm rõ nhiều nội
dung, chứng cứ có liên quan, phải thu thập đầy đủ các tài liệu chứng cứ để chứng
minh tính xác thực, tính liên quan của từng tình tiết cấu thành tội phạm và các tình
tiết khác để giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan, toàn diện chứ không đơn giản
là chứng minh các vấn đề được qui định tại các Điều 63, 302 BLTTHS năm 2003.
Chẳng hạn, để xác định người nào đó trực tiếp thực hiện tội phạm, trước tiên phải
có chứng cứ khẳng định người đó có mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ
án; Do đó, CQĐT phải truy tìm dấu vết con người, lấy lời khai người bị hại, lời
25
khai người làm chứng khẳng định chính mắt mình nhìn thấy người này thực hiện
tội phạm Phạm vi chứng minh những vấn đề thực tế của vụ án trong giai đoạn
điều tra rộng hơn phạm vi những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do
pháp luật TTHS quy định.
Khi thực hiện hoạt động điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng các
biện pháp cưỡng chế TTHS
Để kịp thời ngăn chặn người phạm tội tiếp tục gây án hoặc gây cản trở cho
việc thu thập chứng cứ vụ án, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thường phải
áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét chỗ ở,
khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; tiến hành các hoạt động điều tra khác
liên quan đến quyền cơ bản của công dân như triệu tập để lấy lời khai những
người có liên quan, hỏi cung bị can. Do đó, hoạt động điều tra thường tiềm ẩn
nguy cơ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người đối với
người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội.
Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thu thập chứng cứ phục vụ
cho hoạt động buộc tội
Trong tố tụng theo truyền thống thẩm vấn cũng như trong tố tụng theo
truyền thống tranh tụng, hoạt động điều tra nói chung bao giờ cũng là bộ phận hợp
thành chức năng buộc tội của Nhà nước nhưng về bản chất, THQCT là chức năng
của cơ quan công tố (VKS) giữ vai trò quyết định, còn điều tra là hỗ trợ, thu thập
chứng cứ, mở đường cho cơ quan công tố đưa người phạm tội ra tòa và thực hiện
việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa xét xử. Tùy theo từng truyền thống tố
tụng mà vị trí, vai trò của cơ quan công tố (VKS) và quan hệ tố tụng với CQĐT
trong giai đoạn điều tra có khác nhau, mang nét đặc thù riêng thích ứng với hoàn
cảnh, đặc điểm của mỗi quốc gia.
- Đối với hoạt động điều tra vụ án hình sự, VKS vừa THQCT vừa KSĐT
Khác với cơ quan công tố nhiều nước, VKS Việt Nam vừa THQCT, vừa
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra. Ở giai đoạn này, pháp
luật hiện hành quy định VKS có quyền năng rất lớn, chi phối các nhiệm vụ, hoạt