Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học lịch sử lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.48 KB, 29 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hiện nay nghành giáo dục đang tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, người thầy giữ
vai trò tổ chức hướng dẫn học sinh tích cực chủ động lĩnh hội kiến thức mới.
Vì vậy việc sử dụng
phương tiện
đồ dùng trực quan phục vụ cho việc đổi mới
phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất.
Trong phương pháp dạy học mới thì đồ dùng dạy học nói chung và hệ thống kênh
hình trong SGK lớp 9 nói riêng, không chỉ dừng lại ở giá trị minh hoạ cho hệ
thống kênh chữ, mà chính các thiết bị, đồ dùng dạy học này còn là công cụ, là
phương tiện cung cấp kiến thức, bởi chính nó cũng là nguồn kiến thức cần phải
khai thác.
Nhưng trong thực tế hiện nay, việc dạy và học môn Lịch sử ở trường
THCS chưa hoàn thành tốt vai trò của mình, nhiều giáo viên vẫn dạy học hoàn
toàn bằng phương pháp truyền thống, chưa phát huy được tính tích cực, chủ
động học tập của học sinh, nhiều em vẫn cho rằng môn lịch sử thật khô khan,
nhàm chán với những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Muốn khắc phục được
vấn đề này thì việc kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực
với việc sử dụng thường xuyên các thiết bị đồ dùng dạy học trực quan
như bản
đồ ,lược đồ, tranh ảnh…
vào giảng dạy là vô cùng cần thiết, để
tạo ra những hình
ảnh cụ thể sinh động, chính xác, g
iúp học sinh dễ hình thành khái niệm lịch sử,
hứng thú học tập, nhớ lâu, nhớ kĩ nội dung bài học.
Xuất phát từ tình hình thực tế và những điều kiện sẵn có của nhà trường,
tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm " Kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan
điện tử trong dạy học Lịch sử lớp 9".


II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích:
Sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học lịch sử lớp 9 rất phong
phú, đa dạng và sinh động. Từ hệ thống hình ảnh, sơ đồ, lược đồ, băng hình
người thầy phải giúp học sinh khai thác đúng nội dung, tạo hứng thú trong học
tập và phát huy được tính sáng tạo, phát triển khả năng tư duy, hình thành các
kỹ năng và bồi dưỡng tình cảm cho các em thông qua việc nắm bắt các sự kiện,
hiện tượng lịch sử nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
2. Nhiệm vụ:
Nghiên cứu một số vấn đề liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài:
tìm hiểu chức năng, phương pháp, vị trí, nhiệm vụ của bộ môn, thái độ tư
tưởng của học sinh đối với bộ môn…
Đề xuất một số giải pháp góp phần gây hứng thú học tập cho học sinh
khi sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học Lịch sử lớp 9, nâng cao
chất lượng dạy và học bộ môn.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Sáng kiến kinh nghiệm tập trung nghiên cứu và đưa ra một số kinh
nghiệm trong tổ chức dạy học lịch sử lớp 9 có sử dụng đồ dùng trực quan điện
tử nhằm tái hiện sự kiện, cung cấp kiến thức, tạo hứng thú học tập bộ môn lịch
sử cho học sinh.
Sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học lịch sử ở các lớp 9K,
9A trường THCS Tân Lập.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Khi nghiên cứu đề tài này tôi áp dụng phương pháp thực nghiệm qua thực tế
áp dụng vào quá trình học tập kết hợp với, phân tích, nhận xét.
Phương pháp quan sát: Tự tìm tòi nghiên cứu, tiến hành dự giờ thăm lớp của
đồng nghiệp.
Phương pháp trao đổi, thảo luận: Sau khi dự giờ của đồng nghiệp, có thực
hiện
sử dụng đồ dùng trực quan điện tử

trong giờ giảng để tiến hành trao đổi,
thảo luận để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho tiết dạy.
Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành dạy thực nghiệm theo mục đích yêu
cầu của một số tiết học.
Phương pháp điều tra: Tiến hành kiểm tra việc tiếp thu kiến thức của học
sinh qua giờ học để có những điều chỉnh phù hợp.
V. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Thực hiện thường xuyên trong quá trình giảng dạy (
Từ tháng 9/2012 –
tháng 3/2013),
đặc biệt là những bài cần nhiều kênh hình như tranh ảnh, bản đồ
lược đồ minh hoạ.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu
phải đổi mới phương pháp dạy học, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của học sinh. Từng bước áp dụng các phương
pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy và học nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học,
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tư
tưởng tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh.
Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng dạy và học tập môn lịch sử chưa
thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì vậy việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử
trong dạy học lịch sử được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu qủa
tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy và học. Hệ thống tranh ảnh, bản
đồ, lược đồ điện tử sẽ tạo nhiều hứng thú cho các em trong học tập. Các em
được tiếp cận, nhận thức các sự kiện lịch sử một cách sống động, gần với quá
khứ hơn. So với những bài giảng thông thường, học sinh phải mường tượng
trong đầu những sự kiện, nhân vật mà thầy cô thuyết giảng. Nhưng với việc
học trên dụng cụ trực quan điện tử học sinh sẽ được trực quan sinh động với

những sự kiện, nhân vật lịch sử một cách cụ thể giúp kích thích quá trình tư
duy của học sinh, từ đó nội dung kiến thức lịch sử học sinh thu thập đủ và khắc
sâu hơn vào trong trí nhớ của các em. Mặt khác sử dụng đồ dùng trực quan
điện tử sẽ giúp giáo viên hạn chế bớt phần thuyết giảng để có thời gian thảo
luận và tăng cường sự kiểm soát đối với học sinh.Tuy nhiên để có một đồ dùng
trực quan điện tử phục vụ hiệu quả cho bài giảng, đòi hỏi giáo viên phải có
trình độ tin học tốt, có kiến thức vững vàng, có trình độ tư duy cao và phải đầu
tư khá nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị cho bài giảng.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, hệ thống tranh
ảnh, bản đồ, lược đồ điện tử trên mạng khá nhiều. Một số giáo viên đã sử
dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học nhưng kết quả chưa cao. Nhiều
giáo viên chỉ biết đưa ra những hình ảnh mà không biết khai thác hình ảnh đó
như thế nào, hoặc chưa biết làm các hiệu ứng khi dạy các kiểu bài có lược đồ
diễn biến trận đánh Còn đối với học sinh, nhiều em vẫn cho rằng đây là môn
"phụ" do đó không phải đầu tư nhiều thời gian. Các giờ có sử dụng đồ dùng
dạy học các em chỉ ngồi xem hình ảnh Từ thực tế như vậy, yêu cầu giáo viên
phải có phương pháp đúng, phù hợp với nội dung bài học để gây được hứng
thú học tập đối với học sinh.
Qua quá trình dạy học, tôi luôn luôn tìm tòi, học hỏi các bạn đồng nghiệp
để làm sao cho bài giảng có sử dụng đồ dùng trực quan điện tử đạt được hiệu
quả cao nhất từng bước nâng cao chất lượng bộ môn.
III:
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN ĐIỆN TỬ
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS TÂN LẬP:
1. Ưu điểm
Mặc dù có những điều kiện khách quan và chủ quan ảnh hưởng trực tiếp
trong quá trình giảng dạy nhưng chúng tôi đã biết khắc phục vượt lên những khó
khăn trước mắt, từng bước nâng cao chất lượng giờ dạy môn lịch sử nhằm đáp ứng
tốt mục đích chương trình môn học.

a- Về phía giáo viên:
Bước đầu đã tiếp cận sử dụng tương đối tốt các kỹ thuật dạy học đặc trưng bộ
môn.
Đã quen và chủ động với cách thức tổ chức các hoạt động dạy học.
Phối hợp khá linh hoạt các kỹ thuật dạy học.
Sáng tạo ra nhiều đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung các tiết dạy, đã thiết
kế các bài dạy có sử dụng đồ dùng dạy học điện tử, vì vậy nhiều tiết dạy lịch sử trở
nên sinh động , có sức lôi cuốn .
Sử dụng vận hành các trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ tốt cho quá trình
giảng dạy
b- Về phía học sinh:
Học sinh đã được quen dần với môn học có sử dụng đồ dùng dạy học điện tử .
Phần lớn học sinh có ý thức học tập và yêu thích môn lịch sử, tích cực thực hiện
được các yêu cầu, bài tập của giáo viên sau giờ học.

2. Những tồn tại:
Kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi học sinh
phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn ra
trước mắt. Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học sinh THCS còn hạn chế nên việc
sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh tái hiện những sự kiện, hiện tượng
là một nguyên tắc trong dạy học lịch sử. Trong khi đó, các phương tiện trực quan
phục vụ dạy học lịch sử hiện nay còn nhiều hạn chế, vừa thiếu lại vừa không phù
hợp, hệ thống bản đồ và tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ giáo dục
phát hành là không đủ cho các bài dạy. Bên cạnh đó kênh chữ và các kí hiệu quá
nhỏ không thể sử dụng được, các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu
và thiếu đồng bộ, phim tài liệu thì hầu như không có. So với yêu cầu đặt ra của bộ
môn và định hướng đổi mới phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì có thể nói
rằng những phương tiện dạy học không đáp ứng được yêu cầu và không thể tạo sự
hứng thú học tập cho học sinh.
IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Mục đích của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy lịch sử
Việc sử dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi người giáo viên phải có kỹ năng
thiết kế giáo án và sử dụng những phương pháp truyền đạt mới. Thay vì phấn
trắng bảng đen truyền thống, việc
sử dụng đồ dùng dạy học điện tử sẽ
làm cho
bài giảng được thực hiện một cách sinh động, gây hứng thú và phát huy được
tính tích cực của cả giáo viên và học sinh. Cái được lớn nhất ở mỗi tiết giảng

sử dụng đồ dùng dạy học điện tử
chính là mang lại một lượng lớn kiến thức,
hình ảnh trực quan sinh động được chuyển tải đến học sinh. Nguyên tắc trực
quan trong dạy học Lịch sử đóng vai trò quan trọng, nó làm cho học sinh hứng
thú và nhận thức một cách chính xác các sự kiện quá khứ và ghi nhớ lâu hơn.
Bằng những hình ảnh tư liệu, sơ đồ, lược đồ, đoạn phim minh hoạ trên máy
tính sẽ tái hiện lại quá khứ, giúp cho bài giảng thu hút được sự chú ý và tạo
hứng thú cho học sinh, hỗ trợ học sinh tiếp thu kiến thức, giảm tính trừu tượng
của nội dung bài học, vì vậy học sinh hứng thú hơn trong giờ học bởi các em
có thể được sống lại cùng lịch sử qua các hình ảnh tư liệu tạo điều kiện cần
thiết cho học sinh thực hành để hình thành và rèn luyện các kỹ năng, góp phần
đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh. Trợ giúp cho giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh học kiến
thức mới, phát huy tính tìm tòi, khám phá của học sinh. Khi sử dụng hình ảnh,
phim tư liệu, các bản đồ điện tử… để minh họa, chắc chắn sẽ tạo được ấn
tượng mạnh mẽ cho các em. Chính những điều này sẽ thổi một luồng gió mới
vào lớp học, vào nhiệt huyết nghề nghiệp của giáo viên và vào cả tinh thần
hăng say học tập của học sinh để mang lại hiệu quả giáo dục cao hơn.
2. Yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy lịch sử
Trong dạy học yêu cầu mỗi giáo viên phải có sự thích ứng sáng tạo khi
sử dụng đồ dùng trực quan trong các bài giảng. Tuy nhiên không phải bài nào

cũng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử có hiệu quả. Bởi trong thực tế hiện nay
nhiều giáo viên quá lạm dụng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học,
dạy tràn lan không định hướng được lượng kiến thức cần truyền đạt cho học
sinh. Để làm tốt điều này, giáo viên phải dựa vào nội dung và rèn kĩ năng để
đạt mục đích đề ra. Vì thế giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ bài dạy, sử dụng
đồ dùng trực quan điện tử phù hợp mang lại hiệu quả cao cho bài giảng.giáo
viên phải xác định được sử dụng đồ dùng trực quan chỉ là công cụ hỗ trợ hữu
ích cho dạy học. Giáo viên tránh đưa ra nhiều hình ảnh màu sắc lòe loẹt hoặc
những thước phim tư liệu quá dài khiến học sinh chỉ chú ý đến việc xem mà
không phát huy được sự chủ động, tích cực tư duy. Ngoài ra, ứng dụng sử dụng
đồ dùng trực quan điện tử hình thành kiến thức cho học sinh trong dạy học lịch
sử còn làm cho giờ học trở nên sinh động, không bị khô khan, tẻ nhạt, lôi cuốn
được học sinh tham gia học tập tích cực, chủ động, tạo cho các em động cơ và
không khí học tập thoải mái. Đây là nền tảng cho việc tiếp thu kiến thức khoa
học lịch sử một cách hiệu quả.
Khi sử dụng những bức ảnh lịch sử có kích thước nhỏ, giáo viên phải đi
xuống lớp hướng dẫn học sinh quan sát, sử dụng lược đồ treo tường giáo viên
phải mất công treo, hoặc nếu lập niên biểu, vẽ sơ đồ, đồ thị lịch sử trên bảng
đen thì giáo viên cũng mất khá nhiều thì giờ, trong khi đó độ chuẩn xác và tính
thẩm mĩ lại không cao. Ngược lại, nếu giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan
điện tử, sẽ giúp giáo viên đỡ vất vả và đơn giản hơn rất nhiều, thời gian được
tiết kiệm tối đa mà tính trực quan, thẩm mĩ lại cao. Ở đây, giáo viên chỉ cần
“nhấn chuột” để trình chiếu và hướng dẫn học sinh khai thác nội dung kiến
thức, trong mỗi hình ảnh, kênh hình sẽ được phóng to trên màn hình lớn đủ để
học sinh cả lớp quan sát. Những mũi tên chuyển động khi tường thuật về một
trận đánh, hướng tấn công, hoặc việc sơ đồ hóa các mốc thời gian quan trọng,
cụ thể hóa cho đối tượng cần miêu tả trên màn hình lớn kèm theo lời trình bày
sinh động của giáo viên sẽ có tác động lớn tới tâm lí học sinh, các em cảm thấy
học tập hứng thú hơn, hiệu quả tiếp nhận và ghi nhớ kiến thức tốt hơn.
3. Các biện pháp tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy

lịch sử
Để việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học lịch sử hiệu quả,
có rất nhiều hình thức nhưng trong khuôn khổ của đề tài này tôi đưa ra 1 số vấn
đề như sau:
3.1. Sử dụng hình ảnh điện tử để minh họa cho nội dung bài học:
Một trong những lợi thế của môn học Lịch sử là có rất nhiều tư liệu bằng
hình ảnh.
Học lịch sử là học quá khứ nên học sinh rất thích được xem những
hình ảnh thực tế của quá khứ làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng
với thời kì lịch sử đó. Hình ảnh là nguồn tư liệu phong phú nhất khi sử dụng đồ
dùng trực quan điện tử vào dạy học, bài học nào có sử dụng đồ dùng trực quan
điện tử thì bài học đó có hình ảnh minh họa. Nếu khai thác tốt hình ảnh sẽ hấp
dẫn được học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn bàì học hơn. Tuy nhiên giáo
viên không nên đưa quá nhiều hình ảnh hoặc hình ảnh không gần với nội dung
bài học, điều đó khiến cho học sinh khó nhận biết và khắc sâu kiến thức. Có hai
hình thức sử dụng hình ảnh:
a. Hình ảnh điện tử minh họa cho nội dung kiến thức:
Sau khi đã trình bày song phần nội dung kiến thức của từng mục, từng
bài giáo viên đưa ra các hình ảnh minh họa cho nội dung bài hoc.
Ví dụ : Khi dạy Tiết 29 - Bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng
chính quyền dân chủ nhân dân .Phần I: Tình hình nước ta sau cách mạng
tháng Tám.
Giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao nói, nước VNDCCH ngay sau khi thành
lập đã ở vào tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại những khó khăn của Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa sau CM tháng Tám: Giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc
dốt, khó khăn về tài chính, tệ nạn xã hội Sau đó giáo viên cho học sinh xem
một số hình ảnh để minh họa thêm, giúp học sinh hiểu được kiến thức trọng
tâm bài học.
Khi nói đến nạn đói, giáo viên cho học sinh quan sát những bức ảnh sau:

Những hình ảnh trên sẽ giúp HS hình dung một cách chân thực, rõ nét về nạn
đói của nước ta trong năm 1945, đồng thời cũng thấy được sự độc ác của bọn thực
dân Pháp và phát xít Nhật, dưới sự thống trị tàn bạo của chúng đã làm cho khoảng
2 triệu đồng bào ta bị chết đói.
Khi nói đến nạn dốt, giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh sau:
Khi xem những bức ảnh trên học sinh sẽ thấy được chính sách thống trị nô
dịch của Nhật – Pháp đã làm cho trên 90% dân số nước ta bị mù chữ, cùng các tệ
nạn xã hội tràn lan. Những khó khăn đó không chỉ làm cho dân số, nguồn nhân lực
nước ta bị suy giảm mà còn gây ra hậu quả lâu dài về mặt xã hội cho đất nước ta
mà chúng ta còn phải khắc phục sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
Khi nói đến nạn ngoại xâm, giáo viên cho học sinh quan sát những bức
ảnh sau:

Ở miền Bắc nước ta có 20 vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa quân đồng minh
làm nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật, kéo vào theo chúng là bọn tay sai Việt Quốc,
Việt Cách với âm mưu phá hoại cách mạng nước ta thể hiện qua khẩu hiệu "Diệt
cộng của chúng. Bọn Tưởng muốn tiêu diệt chính quyền non trẻ của chúng ta. Đây
là một nguy cơ lớn đối với chính quyền cách mạng. Ở phía Nam là hàng vạn quân
Anh và núp bóng chúng là hàng nghìn tên lính Pháp đang lăm le quay trở lại xâm
lược nước ta. Đến ngày 23/9 được quân Anh tạo điều kiện thì thực dân Pháp đã
chính thức nổ súng xâm lược trở lại nước ta ở Nam Bộ.Như vậy thực chất quân
đồng minh vào nước ta là để lật đổ chính quyền cách mạng phục vụ mưu đồ cho
bọn đế quốc, thực dân. Đây là một thách thức rất lớn mà chính quyền cách mạng
non trẻ phải đối mặt. Những hình ảnh này giúp học sinh hiểu rõ hơn những khó
khăn, thử thách mà Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh phải đương đầu sau cách mạng.
Như vậy có thể so sánh nếu như khi dạy bài trên nếu không sử dụng đồ dùng
dạy học thì giáo viên vẫn có thể truyền đạt hết kiến thức cho học sinh nhưng để
học sinh hình dung được bộ mặt thật, những khó khăn thách thức của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa sau cách mạng tháng Tám là rất khó, bởi học sinh
có thể chỉ biết được trên sách vở, lý thuyết. Qua các hình ảnh trên học sinh mới

nắm bắt nhanh và khắc sâu kiến thức của bài học,
biết được sự thật của lịch sử và
biết so sánh với tình hình nước ta hiện nay.

b. Hình ảnh điện tử khắc sâu kiến thức:
Giáo viên đưa ra hình ảnh và hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh. Sau
đó rút ra những vấn đề kiến thức của bài học, nhằm khắc sâu kiến thức trọng
tâm. Vấn đề này không khó nhưng giáo viên lại không hay chú ý thường bỏ
qua hoặc làm thay cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy Tiết 29 - Bài 24. Phần III. Giải quyết giặc đói, giặc dốt và
khó khăn về tài chính.
Giáo viên cho học sinh quan sát hình 42 ( SGK – Nhân dân góp gạo chống giặc
đói) trên màn hình lớn.

Giáo viên hướng
dẫn học sinh khai thác nội dung kiến thức cơ bản, kèm
theo câu hỏi gợi mở như sau:
- Bức ảnh trên chụp ở đâu?
- Bức ảnh trên chụp trong thời gian nào?
- Nội dung của bức ảnh là gì ?
- Quan sát bức ảnh trên em có nhận xét gì về tinh thần chống giặc đói của
nhân dân ta ?
Sau khi học sinh trao đổi, trả lời xong, giáo viên nhận xét và kết luận về
nội dung bức hình: Bức hình trên chụp
năm 1945, nhân dân ta góp gạo cứu đói
trong những ngày đầu sau cách mạng Tháng Tám năm 1945. Giáo viên cụ thể
hoá kiến thức bằng lời giảng, hình ảnh để bài giảng thêm sinh động hấp dẫn:
Tất cả mọi người, tất cả mọi nhà đều“ lập hũ gạo cứu đói", đều thực hiện“
Ngày đồng tâm" khi hũ gạo nhà mình đầy, đem tới nơi quyên góp gạo chung
của cả làng .Chỗ gạo quý hiếm chắt chiu ấy, sẽ được đưa tới nơi đói gay gắt

hơn, để đồng bào có được miếng cơm, bát cháo cho qua đi những ngày khốn
khó. Tiếp đó giáo viên kể những câu chuyện về tấm gương“ Nhịn ăn của chủ
tịch nước" trong những ngày khó khăn để giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức
cho các em. Đấy chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta . Trong gian nan,
khốn khó, càng sáng bừng lên nghĩa cử :“ Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn."
Qua đó sẽ cho các em thấy nhân dân hưởng
ứng lời kêu gọi ''Nhường cơm sẻ áo'' và ''Hũ gạo cứu đói'' của chủ tịch Hồ Chí
Minh một cách sôi nổi, nhiệt tình thể hiện sự đoàn kết, đồng lòng của nhân dân ta
cùng nhau đùm bọc qua những ngày khốn khó với tinh thần tương thân, tương ái
đồng bào ta đã chia sẻ từng nắm gạo giúp đồng bào vượt qua cơn hoạn nạn. Khi
xem bức ảnh trên kết hợp vời lời giảng và các câu chuyện, các em sẽ được hoà
mình sống cùng với toàn dân tộc trong những ngày khó khăn và cảm nhận được sự
ấm áp của lòng nhân ái, sự phấn khởi tin tưởng của toàn dân tộc vào sự lãnh đạo
của Đảng, của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tương tự khi dạy về giải quyết nạn dốt: Giáo viên hướng dẫn học sinh
quan sát bức ảnh trên màn hình lớn và cùng trao đổi thảo luận theo hệ thống
câu hỏi đã định trước.

Sau khi giới thiệu sự kiện ngày 8/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh
thành lập nha Bình dân học vụ và kêu gọi xoá nạn mù chữ.
Giáo viên giải thích
cho học sinh hiểu: “ Bình dân học vụ" là học tập, là nghĩa vụ của mọi người
dân. Vì có học mới có được kiến thức để xây dựng chính quyền mới, cuộc sống
mới .
Giáo viên cho HS xem bức ảnh trên kết hợp với lời giảng sinh động, để các
em thấy sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhân dân ta thông qua việc có hàng vạn
người tham gia cổ vũ rầm rộ cho phong trào diệt giặc dốt.
Một lớp bình dân học
vụ ban đêm : Có trẻ, có già, có trai, có gái, đầy đủ mọi lứa tuổi đang say sưa

học bài, lần đầu tiên nắn nót viết chữ “ o tròn như quả trứng gà”, mà miệng
cũng tròn, mắt cũng tròn vì ngạc nhiên và sung sướng
. Tiếng đánh vần i tờ từng
chữ cái của những học viên lớp Bình dân học vụ cho ta thấy niềm xúc động, sự náo
nức của một thời kì lịch sử của dân tộc trong những ngày đầu mới giành độc lập

ánh sáng của những ngọn đèn dầu hôm nay, sẽ làm bừng sáng tương lai của
dân tộc ở ngày mai (giáo viên có thể kể thêm chuyện :"Cổng mù" trong phong
trào xoá nạn mù chữ trong những ngày đầu tiên này…)
Một lần nữa bức ảnh này sẽ tạo cho các em ấn tượng sâu đậm về bối cảnh đất
nước trong những năm 1945 - 1946. Qua đó giúp các em thêm phấn khởi, tin tưởng
vào công cuộc kháng chiến của nhân dân ta đồng thời ra sức học tập để noi gương
thế hệ cha anh đi trước.
Như vậy, việc trình chiếu bức ảnh trên màn hình lớn để hướng dẫn học
sinh quan sát, miêu tả, kể chuyện, kết hợp với câu hỏi gợi mở sẽ giúp học sinh
phát huy tính tích cực, hứng thú trong học tập. Và nếu như không sử dụng đồ
dùng dạy học điện tử thì học sinh dễ nhàm chán và giờ học không đạt được kết
quả cao. Sau khi học sinh quan sát, suy nghĩ và trả lời, giáo viên kết luận sẽ
hình thành cho các em biểu tượng rõ nét, chân thực về
hình ảnh phong trào diệt
giặc đói, diệt giặc dốt
. Nhờ đó, các em sẽ khắc sâu, nhớ lâu kiến thức về những
sự kiện lịch sử này, không nhầm lẫn với các sự kiện lịch sử khác.
3.2. Sử dụng âm thanh kết hợp với hình ảnh
điện tử minh họa, rút ra nội
dung bài học
:
Tùy theo nội dung của bài giáo viên có thể lồng ghép dung lượng âm
thanh phù hợp, kết hợp với hình ảnh làm phong phú thêm bài học, đồng thời
thay đổi không khí trong một giờ học Lịch sử:

Ví dụ: Tiết 28 - Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự thành
lập Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Phần III. Giành chính quyền trong cả
nước.
Dạy tới phần nội dung của Tuyên ngôn độc lập, giáo viên cho học sinh
xem bức ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, kết
hợp cả hình ảnh cùng với âm thanh:
" Hỡi đồng bào cả nước, tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền
ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, lời bất hủ
ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ, suy rộng ra câu ấy
có ý nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng
về quyền lợi, đó là những quyền lợi không ai chối cãi được Câu nói của chủ
tịch Hồ Chí Minh " Tôi nói đồng bào nghe rõ không" làm cho biển người đang
sôi lên dường như lắng xuống Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên
nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ
mà lập nên chế dộ quân chủ cộng hòa. Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thật đã trở thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do độc lập ấy".
Tiếp đó giáo viên có thể hỏi: Em hãy nêu nội dung bản tuyên ngôn độc
lập? Học sinh có thể rút ra được ngay nội dung cơ bản của bản Tuyên ngôn
độc lập của Việt Nam, nó là sự kế thừa và tiếp nối những mặt tích cực của bản
tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp, bản tuyên ngôn độc lập của
nước Mĩ để Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên một bản Tuyên ngôn hào hùng cho
dân tộc Việt Nam, khẳng định với thế giới quyền tự do dân chủ của nhân dân
Việt Nam Hơn nữa các em được nghe thực tế giọng của Bác Hồ đọc tuyên

ngôn, các em sẽ phấn khởi hơn hứng thú hơn khi học những phần sau và dễ
khắc sâu kiến thức của bài.
Đối với Tiết 31 - Bài 25- Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1946-1950). Phần I-Mục 1: Kháng chiến toàn
quốc chống Pháp xâm lược bùng nổ.
Khi dạy tới nội dung của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, giáo viên
cho học sinh xem bút tích của chủ tịch Hồ Chí Minh, hình ảnh phát đi lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến, kết hợp cả hình ảnh cùng với âm thanh:
Ngày 20/12/1946 Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ
Chủ tịch.
(Bút tích lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam)
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước.Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy
sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.Dù phải gian lao kháng chiến,
nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946
Hồ Chí Minh
Khi dạy tới đoạn chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến nếu như trước đây dạy bình thường giáo viên chỉ khai thác nội dung này
qua đoạn kênh chữ trong sách giáo khoa thì học sinh chỉ biết tới lời kêu gọi

toàn quốc kháng chiến qua giọng đọc của giáo viên, nhưng nếu kết hợp cả hình
ảnh cùng với âm thanh về lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến bằng chính nét
chữ và lời đọc của của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì học sinh được mắt thấy tai
nghe, các em sẽ hứng thú nhiều khi học tập và cô đọng lại kiến thức của bài
giảng trong học sinh.
3.4. Sử dụng lược đồ điện tử để khai thác nội dung bài học
Bản đồ lược đồ không chỉ có tác dụng minh họa cho nội dung bài học, mà còn
là nguồn kiến thức không thể thiếu đựợc trong bài học. Nếu bản đồ lược đồ được
sử dụng tốt, sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ
hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy, tạo điêù kiện cho học sinh dễ
hiểu nhớ lâu, phát huy đựơc năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh.
Ưu thế của việc sử dụng lược đồ điện tử trong dạy học lịch sử là bằng
các hiệu ứng giáo viên có thể làm cho học sinh thấy được sự sinh động trong
diễn biến các trận đánh và thấy được sự quyết liệt trong mỗi sự kiện Một bản
đồ động sẽ hứng thú hơn nhiều so với bản đồ tĩnh, tuy nhiên việc thiết kế một
bản đồ điện tử là một vấn đề rất khó làm đối với giáo viên.
Phương pháp này có
thể áp dụng cho rất nhiều bài trong chương trình của bộ môn Lịch sử đặc biệt là
các bài có diễn biến của phong trào cách mạng, các trận đánh lớn. Tôi xin nêu ra
một trường hợp ứng dụng cụ thể như sau:
Ví dụ: Khi giảng bài 27: Cuộc kháng chiến chống thực Pháp xâm lược kết
thúc ( 1953 – 1954) phần II. các cuộc tiến công của ta trong chiến cuộc Đông
Xuân ( 1953- 1954).
Trước tiên giáo viên cho học sinh trực quan bản đồ trên màn hình máy chiếu,
lúc đầu chỉ đưa ra vài nét cơ bản về phạm vi lãnh thổ và một số địa danh chính rồi
đặt câu hỏi :
Vì sao Pháp lại chọn đồng bằng Bắc Bộ là nôi tập trung lực lượng quân cơ
động?
Nêu tính chất nguy hiểm của kế hoạch NaVa?
Hội nghị Bộ chính trị trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch tác chiến trong

Đông – Xuân 1953 – 1954 như thế nào?
Sau đó khi giảng về diễn biến trận đánh đến đâu giáo viên dùng chuột di
chuyển đánh dấu các kí hiệu với những mầu sắc khác nhau vào tới đó để thể hiện
nội dung kiến thức.
Khi tường thuật việc địch tập trung quân ở đồng bằng Bắc Bộ lên tới 44 tiểu
đoàn để chủ động đánh ta, thực hiện kế hoạch Nava hòng xoay lại tình thế
chuyển bại thành thắng, giáo viên nhấn chuột vào vị trí đồng bằng Bắc Bộ, khi đó
sẽ xuất hiện hình tròn màu xanh số 1.
Ngày 10 tháng 3 năm 1953 ta tấn công Lai Châu bao vây Điện Biên Phủ.
Nava buộc phải điều 6 tiểu đoàn cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường cho
Điện Biên Phủ làm cho Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ 2 của
địch. Giáo viên lại nhấn chuột tạo thành mũi tên mầu đỏ từ đồng bằng Bắc Bộ lên
vị trí Điện Biên Phủ (hình tròn màu xanh số 2).
Đầu tháng 12 năm 1953 cùng với bộ đội Pha Thét – Lào ta tấn công trung
Lào giải phóng thị xã Thà Khẹt, uy hiếp Sê Nô, biến Sê Nô thành tập trung binh
lực thứ 3, giáo viên tiếp tục nhấn chuột tạo thành mũi tên mầu đỏ từ đồng bằng Bắc
Bộ sang vị trí Sê nô( hình tròn màu xanh số 3) .
1
2
3
4
5
Đầu tháng 2 năm 1954 ta tấn công địch ở bắc tây Nguyên giải phóng Kom
Tum, uy hiếp Plây trở thành nơi tập trung binh lực thứ 4 của địch. Giáo viên nhấn
chuột tạo thành mũi tên mầu đỏ từ đồng bằng Bắc Bộ sang vị trí Plâycu ( hình tròn
màu xanh số 4) .
Cũng trong thời gian này ta tấn công sang thượng Lào. Quân đội nhân dân
Việt Nam và Pha Thét Lào tấn công địch và giải phóng vùng Phong Xa Lì, uy
hiếp Luông Pha Băng, địch phải tăng cường Luông Pha Băng, Luông Pha Băng trở
thành nơi tập trung binh lực thứ 5 của địch. Giáo viên nhấn chột tạo thành mũi tên

mầu đỏ từ đồng bằng Bắc Bộ sang vị trí Luông Pha Băng( hình tròn màu xanh
số 5).
Qua các ký hiệu được nổi lên trên lược đồ trống học sinh hiểu được kiến
thức một cách dễ dàng. Qua các đợt tấn công của ta quân địch bị phân tán lực
lượng chủ yếu từ một nơi thành 5 nơi. Như vậy địch từ chỗ chủ động tập trung
đánh ta, nay lâm vào thế bị động phải phân tán ra để đối phó với ta. Như vậy lực
lượng của chúng sẽ bị tiêu hao. Từ đó khi nhìn vào lược đồ học sinh sẽ chứng
minh ngay được kế hoạch Na Va của địch nay bước đầu đã bị phá sản.
Như vậy sử dụng bản đồ điện tử có tác dụng rất lớn, nó thu hút sự tập trung
chú ý của học sinh. Các sự kiện được quan sát một cách rõ ràng dễ nhớ, tính trực
quan, sinh động giúp cho các em có thể nhận thức lịch sử một cách nhanh chóng,
hiệu quả hơn, sâu sắc hơn. Phương pháp này có thể sử dụng khi trình bày diễn biến
trận đánh trong nhiều bài học của môn lịch sử.
3.5. Sử dụng hệ thống bảng biểu điện tử để khai thác nội dung bài học:
Sử dụng bảng niên biểu, bảng so sánh, giúp các em khái quát nội dung
sau mỗi phần, mỗi bài, mỗi giai đoạn lịch sử Hình thức này phù hợp với
phương pháp thảo luận nhóm, so sánh sự khác nhau giáo viên hướng dẫn học
sinh tìm hiểu sau đó trình bày và giáo viên đưa ra kết luận cuối cùng qua các
bảng biểu.
Ví dụ : Sau khi dạy song Tiết 24 - Bài 20 – Cuộc vận động dân chủ 1936-
1939. giáo viên đặt câu hỏi sau:
So sánh sự khác nhau giữa cao trào dân chủ 1936 – 1939 với phong trào cách
mạng 1930 – 1931?
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu và trả lời đến nội dung nào thì
giáo viên bấm máy kênh chữ của nội dung đó hiện ra, học sinh vừa nghe và ghi
được nội dung chính theo yêu cầu.
Nội dung 1930 - 1931 1936 – 1939
Kẻ thù Đế quốc, phong kiến
( chiến lược)
Phản động thuộc địa Pháp và

tay sai ( sách lược)
Mục tiêu Độc lập dân tộc, người cày
có ruộng ( lâu dài)
Tự do, cơm áo, hoà bình
( trước mắt)
Hình thức tập
hợp lực lượng
Bước đầu thực hiện liên
minh công – nông, tập trung
chủ yếu ở Nghệ An – Hà
Tĩnh
Thành lập Mặt trận nhân dân
phản đế Đông Dương
Hình thức đấu
tranh
Bãi công, biểu tinh, khởi
nghĩa vũ trang
Hợp pháp công khai, nửa
hợp pháp, nửa công khai
Lực lượng tham
gia
Chủ yếu là nông dân, công
nhân
Đông đảo các giai cấp tầng
lớp.
Sau khi hướng dẫn học sinh trả lời tạo thành bảng so sánh theo yêu cầu,
giáo viên nhận xét: Do hoàn cảnh thế giới và trong nước của mỗi thời kì khác
nhau do đó Đảng ta có chủ trương, sách lược, hình thức tập hợp lực lượng,
hình thức đấu tranh khác nhau phù hợp với từng thời kì.
Chủ trương của đảng thời kì 1936 – 1939 chỉ mang tính chất sách lược

song rất kịp thời và phù hợp với tình hình, tạo được cao trào đấu tranh sôi nổi.
Điều đó chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành đủ khả năng đối phó với mọi tình
hình diễn biến phức tạp, đưa cách mạng Việt Nam ngày càng phát triển.
Tuy nhiên dạng bài này đòi hỏi giáo viên cần phải thao tác hợp lý các
hiệu ứng, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng học sinh trình bày xong nội dung,
giáo viên chốt ý rồi mới đưa ra bảng hệ thống kiến thức. Làm như vậy vừa
không khoa học, mặt khác học sinh cũng không kịp thời theo dõi, dễ mất hứng
thú học tập bộ môn của học sinh.
V. KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Lớp Giỏi-Khá Trung bình Yếu
9K 51,6% 48,4% 0%
9A 35,7% 53,1% 11,2%
2. Sau khi áp dụng:

Qua thực tế áp dụng cho thấy phương pháp này đã đem lại nhiều hiệu quả
cao trong dạy học như:
Tạo ra tính trực quan, sinh động giúp các em dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu
kiến thức.
Xoá bỏ cảm giác khô khan giáo điều trong các giờ học Lịch sử để môn học này
trở nên gần gũi với các em hơn.
Kết quả thực tế cho thấy đa số các em học sinh đều tỏ ra hứng thú với phương
pháp này, tạo ra sự tập trung chú ý cao độ, từ đó giúp các em khắc sâu biểu tượng
về sự kiện hiện tượng lịch sử, từ đó các em có thể thuộc bài ngay tại lớp.
Học sinh Khá - Giỏi: nắm vững, vận dụng tốt kiến thức kỹ năng, học bài, làm
bài rất tốt.
Học sinh trung bình: nắm được kiến thức cơ bản làm bài tương đối tốt.
Một số ít học sinh chưa chăm học, làm bài chưa tốt, kết quả không cao.
Lớp Giỏi-Khá Trung bình Yếu
9K 76,8% 23,2% 0%

9A 42,7% 55,1% 2,2%
Từ số liệu thực tế học tập của học sinh trước và sau khi áp dụng sáng kiến ta
có thể kết luận rằng: Hiệu quả của giờ học khi áp dụng phương pháp này cao hơn
hẳn và có nhiều ưu điểm vượt trội so với các phương pháp truyền thống.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Như vậy, việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học lịch sử đã
thể hiện mối quan hệ biện chứng về con đường nhận thức của học sinh đi từ
“trực quan sinh động” đến“tư duy trừu tượng”. Ở đây, nhờ được quan sát hình
ảnh sinh động, được nghe giảng và tư duy lịch sử mà những khoảng cách về
thời gian, không gian của sự kiện dường như đang xích lại gần với khả năng
nhận thức của các em hơn. Về điểm này, nhiều nhà giáo dục lịch sử đã nhấn
mạnh: “Nội dung của các hình ảnh lịch sử, của bức tranh quá khứ càng phong
phú bao nhiêu thì hệ thống khái niệm mà học sinh thu nhận được càng vững
chắc bấy nhiêu”. Đồng thời, việc sử dụng những loại đồ dùng trực quan có liên
quan đến phương tiện kĩ thuật hiện đại không chỉ góp phần tạo biểu tượng lịch
sử cụ thể cho học sinh, miêu tả bề ngoài sự kiện, mà còn đi sâu vào bản chất sự
kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sự kiện.
Để việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới theo yêu cầu phương
hướng đổi mới có hiệu quả, việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy
học là một yêu cầu cấp thiết trong công tác dạy học. Trước đây ta thường quan
niệm thiết bị dạy học môn Lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở
nên phong phú, sinh động. Ngày nay ngoài chức năng, tác dụng đó, người ta
còn đặc biệt nhấn mạnh đó là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của
việc truyền bá và nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này
sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn
giảng. Học sinh có điều kiện chủ động tích cực tham gia vào quá trình tự nhận
thức lịch sử một cách tốt nhất và có hứng thú học tập bộ môn.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Để sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy học có hiệu quả đòi hỏi

những yêu cầu sau:
Giáo viên phải có kiến thức chuyên môn, kỹ năng sư phạm, biết định
hướng học sinh theo mục tiêu giáo dục chung.
Giáo viên phải biết sử dụng sử dụng đồ dùng trực quan điện tử vào dạy
học một cách thuần thục, biết thiết kế bản đồ điện tử với các hiệu ứng phù hợp
với từng kiểu bài.
Giáo viên phải cân nhắc tránh lạm dụng sử dụng đồ dùng trực quan điện
tử trong dạy học.
Tăng cường quá trình kiểm tra việc rèn luyện kỹ năng qua các giờ học có
sử dụng đồ dùng trực quan điện tử, giúp các em có tư duy độc lập về bài học.
Có biện pháp phù hợp quan tâm đối với từng đối tượng học sinh ( khá,
giỏi, trung bình, yếu, kém) để đảm bảo tới mức cao nhất học sinh nhận thức
được kiến thức cơ bản của bài học, của cả quá trình…
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:

Sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học Lịch sử nhằm gây hứng
thú học tập bộ môn cho học sinh là một việc làm rất cần thiết và đang được
quan tâm, nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức Lịch sử cho học sinh trong thời kỳ
hội nhập. Để làm được điều đó bản thân tôi có một số kiến nghị như sau:
Cần thường xuyên tổ chức các chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm giữa
đồng nghiệp về việc sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học.
Nhà trường nên trang bị máy tính, đầu chiếu đa năng tới các phòng học
để sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong dạy học một cách thường xuyên.
Tuy thời gian nghiên cứu chưa nhiều, phạm vi đề tài chưa sâu. Nhưng qua
thực tiễn bản thân áp dụng phương pháp này và đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp,
tôi trân thành mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm này với các bạn đồng nghiệp.
Hy vọng rằng nó sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn học lịch sử nói
riêng và quá trình dạy học nói chung. Với năng lực bản thân có hạn cộng với kinh
nghiệm giảng dạy chưa nhiều, vì vậy sáng kiến của tôi không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp để cho

sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng tôi xin trân trọng cảm ơn tới các bạn đồng nghiệp, các thầy cô
giáo và các em học sinh của trường THCS Tân Lập đã giúp tôi hoàn thành đề tài
này.
Tân Lập, ngày 5 tháng 3 năm 2013
NGƯỜI THỰC HIỆN
TRƯƠNG TUẤN HẬU
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về
tăng cường giảng dạy trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012.

×