1
Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học
lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông
(chương trình chuẩn)
Using conventional visual appliances for the 11
th
grade world history teaching in high school
(standard program)
NXB H. : ĐHGD, 2012 Số trang 102 tr. +
Nguyễn Thị Hà Tiến
Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Lịch sử);
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS. TS Trịnh Đình Tùng
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Tìm hiểu tình hình thực tế về trang bị, xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan
quy ước ở trường trung học phổ thông hiện nay, trong đó cần quan tâm nhiều đến tính hiệu
quả đối với bài học lịch sử cũng như những khó khăn, hạn chế khi sử dụng đồ dùng trực
quan quy ước. Nghiên cứu lí luận về phương pháp dạy học lịch sử, đặc biệt là phương pháp
sử dụng đồ dùng trực quan nói chung và đồ dùng trực quan quy ước nói riêng để sử dụng
trong dạy học phần lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông - chương trình chuẩn.
Nghiên cứu nội dung cơ bản của khóa trình lịch sử thế giới ở lớp 11, từ đó xác định những
kiến thức cơ bản cần sử dụng đồ dùng trực quan quy ước. Lựa chọn, xây dựng và đề xuất
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước khi dạy lịch sử thế giới lớp 11 trung học
phổ thông (chương trình chuẩn). Đây là nhiệm vụ cơ bản của đề tài. Tiến hành thực nghiệm
sư phạm ở một số trường phổ thông, qua đó đánh giá hiệu quả của đồ dùng, đồng thời trao
đổi, rút kinh nghiệm, tiếp thu những ý kiến đóng góp của giáo viên phổ thông nhằm hoàn
thiện hơn nữa việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử.
Keywords: Phương pháp dạy học; Lịch sử; Lịch sử thế giới; Lớp 11; Đồ dùng trực quan
Content.
1. Lý do chọn đề tài
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông có vai trò rất quan trọng vì cung cấp cho học sinh những
tri thức cơ bản, hiện đại, có hệ thống về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc. Trên cơ sở đó giáo dục
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lý tưởng độc lập dân tộc và cách mạng XHCN, tinh thần quốc tế chân
chính; rèn luyện năng lực tư duy và thực hành, thực hiện một cách hoàn chỉnh các nhiệm vụ giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển.
Tuy nhiên, thực tế dạy học ở trường phổ thông hiện nay, chất lượng dạy học Lịch sử vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Sở dĩ có tình trạng này là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
2
- Giáo viên chưa đánh giá đúng vai trò, vị trí của phương pháp dạy học đối với việc giáo dục,
do đó chưa khắc phục những yếu kém trong dạy học.
- Do sự tồn tại quan niệm không đúng về bộ môn lịch sử, coi đây là „môn phụ” nên không chú
ý đúng mức đến chất lượng bộ môn.
- Do việc “học lệch”, và tư tưởng “thực dụng”, “học gì thi nấy” của học sinh nhằm đạt kết quả
môn học chứ không nhằm trang bị hiểu biết cho bản thân trong học tập.
- Giáo viên ngại sử dụng đồ dùng trực quan trong việc đổi mới phương pháp và nâng cao chất
lượng bộ môn
Chính vì những lý do trên khiến cho việc dạy – học Lịch sử ở trường phổ thông trở nên nặng
nề, khô cứng, nhàm chán. Vì vậy hiệu quả bài học không cao, học sinh không hứng thú nên chưa
đảm bảo chất lượng bộ môn.
Từ thực tiễn trên, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Trong đó phương pháp trực quan có ý nghĩa
quan trọng. Phương pháp trực quan không chỉ giúp giáo viên “nhàn” trong dạy học mà còn gây hứng
thú cho học sinh. Đặc biệt, đồ dùng trực quan quy ước còn góp phần tích cực vào việc tạo biểu
tượng, hình thành khái niệm lịch sử, phát triển tư duy cho học sinh mà đồng thời còn làm cho bài học
thêm phong phú, sinh động hơn.
Xuất phát từ những lý do trên mà chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Sử dụng đồ dùng
trực quan quy ước trong dạy học lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương trình
chuẩn)” với hi vọng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề
Đồ dùng trực quan có vị trí rất quan trọng đối với nhận thức của học sinh trong học tập nói
chung và học tập lịch sử nói riêng, nên từ lâu, vấn đề này được các nhà nghiên cứu giáo dục trong và
ngoài nước quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu.
2.1. Tài liệu nước ngoài
Các cuốn “Giáo dục hoc” của T.A Ilina, tập I,II (NXB GD, H, 1973), cuốn “Lý luận dạy học
ở trường phổ thông” của I. Ia Lecnevà M.N. Xcatkin (NXB GD, H, 1980, cuốn “Những cơ sở của lí
luận dạy học”, tập I, II, III của B.P. Êxipốp (NXB GD, H, 1971), cuốn “Phát huy tính tích cực học tập
của học sinh như thế nào?” của I.F. Kharlamôp, Tập I, II (NXB GD, H, 1978)… đã nêu lên những vấn
đề lí luận cơ bản về vai trò, ý nghĩa của phương pháp trực quan trong dạy học. Phương pháp trực quan
được xem là phương pháp có hiệu quả trong việc phát huy tính tính cực học tập của học sinh, là cơ sở để
học sinh khắc sâu, ghi nhớ kiến thức, hiểu bản chất vấn đề và hình thành khái niệm.
Về giáo dục Lịch sử, các chuyên khảo: “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông”
của Vaghin đã dành một chương: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan” để nêu lên các vấn đề
về vai trò, ý nghĩa, các loại và phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử.
3
2.2. Tài liệu trong nước
2.2.1. Tài liệu giáo dục học
Trong các giáo trình “Giáo dục học” của Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, Tập I-II (NXB GD,
H, 1987); “Giáo dục học đại cương” của Phạm Viết Vượng (NXB ĐH QGHN, H, 1996) và “Những
vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại” của Thái Duy Tuyên (NXB GD, H, 1999) các tác giả đã
khẳng định trực quan là một nguyên tắc dạy học và trong hệ thống các phương pháp dạy học, phương
pháp trực quan có vai trò, ý nghĩa quan trọng, đặc biệt với môn Lịch sử.
2.2.2. Các tài liệu giáo dục lịch sử
Các giáo trình phương pháp dạy học lịch sử như: Lê Khắc Nhãn và các tác giả khác của “Sơ
thảo phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông cấp 2 – 3” Tập II (NXB Giáo dục, H,
1961); Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị “Phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông cấp
3”, (NXB Giáo dục, H, 1966); Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi:
“Phương pháp dạy học lịch sử” (NXB ĐHSP, H, 2002) đã dành nhiều chương trình bày về phương
pháp sử dụng đồ dùng trực quan…Các tác giả này không chỉ nêu lên vai trò, ý nghĩa của đồ dùng
trực quan mà còn trình bày cụ thể các phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử.
Ngoài ra, còn nhiều tài liệu viết về phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử, như Phan Ngọc Liên - Phạm Kì Tá… “Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông cấp II” (NXB GD, H, 1976); Nguyễn Thị Côi – Trịnh Đình Tùng: “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ
sư phạm” (NXB ĐHQG, H, 1995); Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Sĩ Quế, Lê Đình Cương,
Đào Hữu Hậu: “Nội dung và phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa lịch sử treo tường” Tập 1 (NXB
GD, H, 2002);… Ngoài trình bày lý luận và phương pháp trực quan cũng như đồ dùng trực quan trong
giảng dạy lịch sử, các công trình này cũng đề xuất các biện pháp sư phạm cụ thể.
Chúng ta còn phải kể đến nhiều bài viết đăng trên các tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu
giáo dục, như các bài “Xây dựng bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông” của Trịnh Tùng
và Kiều Thế Hưng (NCGD số 6, 1994); “Một số vấn đề về phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy
học lịch sử” của Trịnh Tùng (Thông báo khoa học – Trường Đại học sư phạm Hà Nội I, Tập số 4,
1993); “Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
trong giai đoạn hiện nay” của Phan Ngọc Liên;…
Các bài viết trên tuy đề cập nhiều khía cạnh khác nhau về việc sử dụng đồ dùng trực quan,
song đều khẳng định vai trò, ý nghĩa của đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử và sự cần thiết phải
sử dụng các biện pháp sư phạm có hiệu quả.
Tất cả các công trình trên là những tài liệu tham khảo có giá trị gợi ý cho người viết nhiều
vấn đề lí luận, cách sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, để vận dụng vào dạy học các
bài cụ thể.
4
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận về đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, luận văn đi sâu tìm
hiểu vai trò, ý nghĩa của đồ dùng trực quan quy ước cũng như phương pháp sử dụng nhằm nâng cao
chất lượng dạy học phần lịch sử thế giới lớp 11 chương trình chuẩn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu tình hình thực tế về trang bị, xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước ở
trường trung học phổ thông hiện nay
- Nghiên cứu lí luận về phương pháp dạy học lịch sử, đặc biệt là phương pháp sử dụng đồ
dùng trực quan quy ước để sử dụng trong dạy học phần lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông -
chương trình chuẩn.
- Nghiên cứu nội dung cơ bản của khóa trình lịch sử thế giới ở lớp 11, từ đó xác định những
kiến thức cơ bản cần sử dụng đồ dùng trực quan quy ước.
- Lựa chọn, xây dựng và đề xuất phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước khi dạy
lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn). Đây là nhiệm vụ cơ bản của đề tài.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở một số trường phổ thông nhằm hoàn thiện hơn nữa việc
sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học
lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn).
6. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài, luận văn chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu một cách khái quát những cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học. Nội dung của luận văn tập
trung đi sâu vào nghiên cứu phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử
thế giới ở lớp 11 trung học phổ thông (chương trình chuẩn) và tiến hành điều tra thực tế, thực nghiệm
sư phạm các nội dung này.
7. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Đặc biệt luận văn bám sát những cơ
sở lí luận của các nhà giáo dục học, tâm lí học và giáo dục lịch sử trong việc sử dụng đồ dùng trực
quan quy ước.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí thuyết
5
Nghiên cứu lý luận về trực quan, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học theo
xu hướng đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”, nhằm tích cực hóa, hoạt động
hóa hoạt động học tập của học sinh.
Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 11, nhất là chương trình lịch sử thế giới
để đề xuất các loại đồ dùng trực quan quy ước và phương pháp sử dụng cụ thể.
- Nghiên cứu thực tiễn và thực nghiệm sư phạm
Nghiên cứu thực tiễn, ưu điểm, hạn chế trong việc trang bị, sử dụng đồ dùng trực quan quy
ước ở trường trung học phổ thông hiện nay trên địa bàn Hải Phòng.
Đưa đồ dùng trực quan quy ước xuống trường phổ thông, tiến hành thực nghiệm sư phạm, rút
ra những kết luận nhằm làm rõ vấn đề dự kiến mà đề tài đặt ra.
8. Đóng góp của luận văn
- Nêu được thực trạng trang bị và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông.
- Tìm hiểu, nêu nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên.
- Đề xuất phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử thế giới lớp
11 trung học phổ thông - chương trình chuẩn.
9. Ý nghĩa của luận văn
9.1. Ý nghĩa khoa học
Nâng cao hiểu biết về lí luận dạy học bộ môn, lí luận về đồ dùng trực quan quy ước, phương
pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử.
9.2. Ý nghĩa thực tiễn
Vận dụng những hiểu biết về cơ sở lí luận và thực tiễn của việc trang bị, sử dụng đồ dùng trực
quan quy ước trong dạy học lịch sử vào thực tiễn công tác nghiên cứu, giảng dạy ở trường phổ thông.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 2
chương
Chƣơng I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chƣơng II: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học phần lịch sử thế giới
lớp 11 THPT. Thực nghiệm sư phạm.
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
QUY ƢỚC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ƣớc trong dạy học lịch sử
1.1.1. Quan niệm về đồ dùng trực quan
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau, cách sử
dụng và hiệu quả cũng khác nhau. Hiện nay có nhiều cách phân loại đồ dùng trực quan, về cơ bản
chúng ta có thể chia thành 3 nhóm lớn sau đây:
a. Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật lịch sử: gồm những di tích lịch sử, di tích cách mạng; di vật
khảo cổ, di vật của một thời kì lịch sử.
b. Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình: gồm các loại phục chế, sa bàn, tranh ảnh lịch sử…
c. Nhóm đồ dùng trực quan quy ước bao gồm nhiều loại khác nhau: bản đồ, sơ đồ, đồ thị, niên
biểu… được sử dụng nhiều nhất và thường xuyên và loại đồ dùng dạy học chủ đạo ở trường phổ
thông hiện nay
1.1.2. Các loại đồ dùng trực quan quy ước
Đồ dùng trực quan quy ước là những bản đồ, ký hiệu hình học đơn giản được sử dụng trong
dạy học lịch sử, loại đồ dùng này là đồ dùng mà giữa người thiết kế đồ dùng, người sử dụng và
người học có một quy ước ngầm nào đó (về màu sắc, kí hiệu hình học và tỉ lệ xích).
Đồ dùng trực quan quy ước tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng, khi phản ánh
những mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng phát triển của hiện
tượng kinh tế, chính trị - xã hội của đời sống con người.
Đồ dùng trực quan quy ước luôn thể hiện trong không gian, thời gian, địa điểm, cùng một yếu
tố địa lí nhất định nên còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn
ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ và là cơ sở để hình thành khái niệm, phát triển năng lực tư duy,
khả năng thực hành cho học sinh.
Đồ dùng trực quan quy ước gồm nhiều loại khác nhau:
+ Bản đồ lịch sử là loại đồ dùng trực quan quy ước dùng để phản ánh những sự kiện, hiện
tượng lịch sử trong mối quan hệ về thời gian và không gian cụ thể.
Về mặt hình thức, bản đồ lịch sử là loại bản đồ chuyên đề nên không cần có nhiều chi tiết về
các điều kiện tự nhiên, mà cần có những kí hiệu thể hiện biên giới quốc gia, các thành phố, các vùng
kinh tế, các địa điểm xảy ra những biến cố quan trọng như các cuộc khởi nghĩa, các trận đánh, các
chiến dịch…
7
Về nội dung, bản đồ lịch sử có thể chia làm hai loại chính là bản đồ tổng hợp và bản đồ
chuyên đề.
Trong thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, bản đồ là loại đồ dùng trực quan
qui ước được sử dụng nhiều nhất và được coi là một nguồn cung cấp kiến thức, một tư liệu học tập,
nghiên cứu quan trọng.
Bản đồ giáo khoa lịch sử được phân loại bản theo “loại hình bản đồ”. Sử dụng tiêu chí này
có tác dụng quan trọng với quá trình xây dựng và sử dụng bản đồ. Theo loại hình, bản đồ giáo khoa
lịch sử được phân thành các loại sau:
Bản đồ trong sách giáo khoa lịch sử là một nguồn cung cấp kiến thức quan trọng nhằm cụ
thể hóa các sự kiện lịch sử, và là một nguồn tư liệu nghiên cứu để thầy trò xây dựng bản đồ treo
tường phục vụ việc dạy trên lớp.
Bản đồ treo tường có vị trí, vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì tạo cho học sinh có được
biểu tượng lịch sử rõ nét ngay trên lớp, đây được xem là một loại chủ lực phổ biến nhất trong bản đồ
giáo khoa nhà trường.
Hiện nay, bản đồ treo tường được xây dựng từ hai nguồn: do các cơ quan chức năng của Nhà
nước xây dựng, in và phát hành hoặc do thầy trò tự xây dựng. Các bản đồ treo tường có thể chia làm
hai loại:
- Bản đồ giáo khoa treo tường với nội dung đầy đủ theo yêu cầu của bài giảng, của cấp học để
dùng tại lớp.
- Bản đồ giáo khoa treo tường được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu của phương pháp truyền
thụ, trên đó chỉ có một số yếu tố cơ sở, còn những nội dung khác được đưa thêm vào dần dần theo
bài giảng.
Át-lát giáo khoa lịch sử là một tập hợp có hệ thống gồm nhiều bản đồ được đóng thành tập
theo một kết cấu, bố cục nội dung chặt chẽ, lôgic. Đây là một trong những tư liệu tốt để thầy trò
nghiên cứu, tìm hiểu bổ sung cho bài giảng trên lớp, đồng thời cũng rất bổ ích, thuận lợi cho hoạt
động tự học, tự nghiên cứu ở nhà.
Bản đồ câm là loại bản đồ mà trên đó không thể hiện đầy đủ các nội dung lịch sử được phản
ánh trong sách giáo khoa, nó có tác dụng định hướng cho nội dung lịch sử mà giáo viên sẽ đưa dần
vào trong quá trình giảng bài với hình thức vẽ bằng phấn, mảnh giấy ghi sẵn kí hiệu, số hiệu và hình
ảnh,…tạo điều kiện để các em hoạt động nhận thức một cách tích cực và tự giác.
Bản đồ nổi là loại bản đồ thường được xây dựng để giảng dạy những nội dung lịch sử có liên
quan đến yếu tố địa hình (chiến dịch Véc-đoong, chiến dịch Xtalingrát…) có giá trị trực quan cao
giúp học sinh hiểu rõ mối quan hệ ảnh hưởng của địa hình đối với sự kiện lịch sử.
8
+ Niên biểu lịch sử là loại đồ dùng trực quan quy ước nhằm hệ thống hóa các sự kiện quan
trọng theo thứ tự thời gian, đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện sơ bản của một nước hay
nhiều nước trong từng thời kì. Bao gồm:
Niên biểu tổng hợp là bảng liệt kê những sự kiện lớn xảy ra trong một thời gian dài, giúp học
sinh ghi nhớ những sự kiện chính, hiểu được các mốc thời gian đánh dấu mối quan hệ của các sự
kiện quan trọng, hay để trình bày những mặt khác nhau của một sự kiện xảy ra ở một nước trong một
thời gian hay trong nhiều thời kì.
Niên biểu chuyên đề đi sâu trình bày nội dung một vấn đề quan trọng nổi bật nào đấy của
một thời kì lịch sử nhất định. Thông qua niên biểu chuyên đề, học sinh hiểu được bản chất sự kiện
một cách toàn diện, đầy đủ.
Niên biểu so sánh dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện xảy ra cùng một lúc trong lịch sử,
nhằm làm nổi bật bản chất đặc trưng của các sự kiện ấy, hoặc để rút ra một kết luận khái quát có tính
chất nguyên lí. Một dạng khác của niên biểu so sánh là bảng so sánh. Bảng so sánh có thể dùng số
liệu và cả tài liệu – sự kiện chi tiết để làm rõ bản chất, đặc trưng của các sự kiện cùng loại hay khác
loại.
+ Sơ đồ lịch sử là loại đồ dùng trực quan nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những mô
hình hình học đơn giản. Nó diễn tả một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự
kiện lịch sử giúp cho sự phân tích các đặc trưng và nêu lên mối liên hệ nhân quả một cách dễ dàng và
từ đó thuận lợi cho việc hình thành khái niệm cho học sinh.
+ Đồ thị lịch sử là sự biểu hiện quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiên lịch sử trên
cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Đồ thị có thể biểu diễn bằng một mũi tên để
minh họa sự vận động đi lên, sự phát triển của một sự kiện, hiện tượng lịch sử.
+ Biểu đồ là sự biểu hiện tổng giá trị của hiện tượng trên một đơn vị lãnh thổ được lấy theo
ranh giới hành chính bằng cách dùng các biểu đồ với kích thước tương ứng với tổng giá trị sản lượng
của chúng bố trí trên phạm vi lãnh thổ. Biểu đồ có thể được thực hiện dưới dạng biểu đồ chiều dài,
biểu đồ diện tích hoặc biểu đồ thể tích… Do đó, biểu đồ rất có ưu thế trong việc giúp học sinh so
sánh trị số giá trị của các sự kiện và thấy được bản chất của các sự kiện đó.
1.1.3. Đặc điểm của quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là một quá trình tổ chức hoạt động nhận thức
của học sinh. Trong phương tiện dạy học, đồ dùng trực quan có vị trí rất quan trọng và có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng.
J.A. Cômenxki (1592 -1670) – người Xlavơ là nhà giáo dục học đầu tiên đưa ra yêu cầu phải
đảm bảo tính trực quan trong dạy học, đặt nguyên tắc trực quan làm qui tắc “vàng ngọc” cho giáo
viên
9
Nhà sư phạm người Nga K.D. Usinxki (1824 – 1870) cũng quan niệm rằng hình ảnh được
giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là những hình ảnh mà chúng ta thu thập được bằng
trực quan.
Trên quan điểm nhận thức của chủ nghĩa Mác-Lênin, các nhà lí luận dạy học Xô-viết cũng
đánh giá rất cao vị trí, tầm quan trọng của phương pháp trực quan, coi trực quan là phương pháp
nhận thức quan trọng nhất.
Các nhà lí luận dạy học ở nước ta cũng khẳng định vị trí quan trọng của phương pháp trực
quan, coi trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học: “tạo cho học sinh
những biểu tượng và hình thành khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay những
đồ dùng trực quan minh họa về sự vật”.
Bản chất của quá trình dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông là tổ
chức hoạt động nhận thức của học sinh tuân theo qui luật nhận thức chung có tính chất xã hội – lịch
sử của loài người: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn…”. Việc “trực quan sinh động” trong nhận thức lịch sử không thể bắt đầu từ cảm giác trực tiếp
về hiện thực lịch sử đã qua, mà từ những biểu tượng được tạo nên trên cơ sở các sự việc cụ thể. Do
đó đồ dùng trực quan quy ước rất có ưu thế trong việc tạo biểu tượng lịch sử.
Điều này khẳng định rằng dù đánh giá cao vai trò của phương pháp trực quan, nhưng không
tách nó ra ngoài hệ thống phương pháp giảng dạy, để có hình ảnh lịch sử cụ thể, phong phú, làm cơ
sở cho nhận thức quá khứ thì phương pháp trực quan là phương pháp khả thi và tối ưu nhất bên cạnh
sử dụng các phương pháp dạy học khác.
1.1.4. Vai trò của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử
Vai trò của đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử được biểu hiện ở những mặt sau
đây:
a. Về mặt cung cấp kiến thức
Do việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông có đặc điểm là học sinh không được trực tiếp tiếp
xúc với các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội nên đồ dùng trực quan giúp học sinh “trực quan
sinh động” quá khứ. Đồ dùng trực quan là phương tiện rất có hiệu lực trong việc giúp học sinh hình
thành những khái niệm lịch sử quan trọng cũng như nắm vững những quy luật của sự phát triển xã
hội.
b. Về mặt giáo dục
Cùng với việc bồi dưỡng kiến thức, đồ dùng trực quan qui ước còn có vai trò rất lớn trong
việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh.
c. Về mặt phát triển
Đồ dùng trực quan quy còn có tác dụng rất lớn trong việc phát triển toàn diện học sinh. Với
ưu thế của mình, đồ dùng trực quan quy ước góp phần tích cực làm “phát triển khả năng quan sát, trí
10
tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh”. Khi được quan sát bản đồ, sơ đồ … cùng với lời
giảng và những câu hỏi gợi mở của giáo viên, các em được rèn luyện khả năng quan sát, năng lực tư
duy trừu tượng và năng lực thực hành bộ môn; đồng thời còn giúp ích trong việc phát triển tư duy
ngôn ngữ, tư duy biện chứng cho học sinh.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ƣớc trong dạy học lịch sử ở
trƣờng phổ thông hiện nay
Chúng tôi tiến hành điều tra thực tế ở một số trường phổ thông trên địa bàn thành phố Hải
Phòng và rút ra một số vấn đề sau:
1.2.1. Tình hình trang bị đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
a. Đối với loại đồ dùng trực quan quy ước do Nhà nước cung cấp
Việc xây dựng và trang bị đồ dùng trực quan cho nhà trường phổ thông tăng liên tục qua các
năm. Nếu trước những năm 90 mới chỉ có một vài bản đồ được trang bị cho bộ môn lịch sử ở trường
phổ thông thì đến năm 1995 đã có 16 bản đồ, đến năm 2003 là 52 bản đồ. Bên cạnh đó cũng rất quan
tâm đến việc biên soạn các tài liệu hướng dẫn sử dụng như xuất bản cuốn “Nội dung và phương
pháp sử dụng bản đồ giáo khoa lịch sử treo tường – Tập I”… đã phần nào đáp ứng được yêu cầu
bức thiết của việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Tuy nhiên, các loại đồ dùng trực quan quy ước trên mới chỉ tập trung ở bản đồ giáo khoa lịch
sử treo tường, chưa đề cập đến các loại hình khác như biểu đồ, sơ đồ, đồ thị.
Tại các trường mà đề tài có tiến hành điều tra thực nghiệm thì tình hình trang bị đồ dùng,
thiết bị dạy học bộ môn còn rất hạn chế, do các cơ quan chức năng của nhà nước cung cấp. Các đồ
dùng trực quan nói chung tự xây dựng còn ít.
Về chất lượng của các loại đồ dùng trực quan quy ước do trung tâm bản đồ và tranh ảnh giáo
dục biên soạn và phát hành thì hơn hẳn các loại đồ dùng trực quan quy ước do thầy trò tự làm trên
các mặt nội dung, kĩ thuật thiết kế, biên tập, in ấn.
b. Đồ dùng trực quan quy ước do thầy trò tự xây dựng
Đây là loại đồ dùng dạy học khá phổ biến và phần nào đáp ứng được nhu cầu về thiết bị dạy
học bộ môn.
Cách thức xây dựng đồ dùng trực quan quy ước ở hầu hết các trường mới chỉ là phóng to bản
đồ, sơ đồ, biểu đồ, đồ thị trong sách giáo khoa hoặc trong các tài liệu lịch sử khác lên giấy rôki, có
thêm bớt những nội dung lịch sử cho phù hợp với nội dung sách giáo khoa, có tô màu để phân biệt
các khu vực tính chất hoặc làm nổi rõ các kí hiệu, hình tượng…
Chất lượng của các đồ dùng trực quan quy ước này nhìn chung chưa cao, chưa đồng đều.
1.2.2. Tình hình sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Hầu hết giáo viên phổ thông đều thừa nhận và khẳng định vai trò không thể thiếu của đồ dùng
trực quan quy ước trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy, đồ dùng trực quan quy
11
ước có được sử dụng hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan; hiệu quả sử
dụng cũng tùy thuộc vào quan niệm, năng lực của từng giáo viên bộ môn.
Qua trao đổi, thăm dò, chúng tôi hiểu nguyên nhân của tình trạng này:
- Thiếu đồ dùng trực quan quy ước
- Chưa có kế hoạch xây dựng đồ dùng phục vụ dạy học bộ môn.
- Giáo viên còn ngại sử dụng có thể do kĩ năng đọc và khai thác đồ dùng trực quan quy ước
còn yếu
- Việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử chưa được các bộ phận
chuyên môn đặt ra như một nguyên tắc bắt buộc, khiến giáo viên dễ tùy tiện với chính mình…
1.2.3. Một số vấn đề đặt ra với việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông
Cần có kế hoạch bảo quản, lập danh mục xắp xếp đồ dùng trực quan một cách hệ thống theo
khối lớp, theo khóa trình lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc, theo trình tự thời gian…
Nguồn tài liệu để xây dựng đồ dùng trực quan quy ước ngoài tài liệu từ sách giáo khoa, có thể
tìm thấy ở các tài liệu lịch sử, báo chí, từ điển, các tác phẩm lịch sử trong và ngoài nước; ở đây công
việc của thầy trò là sưu tầm, phóng to, thêm bớt nội dung lịch sử cho phù hợp với sách giáo khoa.
Các trường sư phạm cần dành nhiều thời gian rèn luyện tốt kĩ năng xây dựng và sử dụng đồ
dùng trực quan quy ước cho sinh viên.
Ở trường phổ thông, cần xem việc xây dựng và sử dụng đồ dùng dạy học nói chung, đồ dùng
trực quan quy ước nói riêng là một nguyên tắc bắt buộc.
Như vậy, đồ dùng trực quan là đồ dùng dạy học không thể thiếu, nó góp phần thay đổi nhận
thức của giáo viên về đổi mới phương pháp, kích thích học sinh hứng thú học tập.
CHƢƠNG 2
PHƢƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƢỚC TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN)
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông– chƣơng
trình chuẩn
2.1.1. Vị trí, mục tiêu
Phần lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông bao gồm nội dung của phần một “Lịch sử
thế giới cận đại” (tiếp theo nội dung lớp 10-THPT) và phần hai “Lịch sử thế giới hiện đại (Phần từ
12
năm 1917 đến năm 1945). Nội dung của phần này phản ánh tiến trình phát triển của lịch sử thế giới
bắt đầu bằng cuộc cách mạng tư sản ở Nhật, xác lập CNTB trên phạm vi thế giới. Các nước TBCN
chuyển sang giai đoạn ĐQCN gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ở châu Á, châu
Phi, khu vực Mĩ Latinh và đỉnh cao là sự tranh giành thuộc địa giữa các nước đế quốc qua 2 cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).
Các phần này kế tiếp chương trình lịch sử thế giới ở lớp 10, thể hiện sự phát triển thống nhất
của xã hội loài người một cách hợp qui luật, theo hướng đi lên. Vì vậy, khi học tập, học sinh không
thể chỉ nắm những kiến thức của từng giai đoạn, từng nội dung cụ thể, mà còn phải tìm hiểu mối
quan hệ giữa các sự kiện trong sự phát triển chung, thống nhất của lịch sử.
2.1.2. Nội dung cơ bản của lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ thông – chương trình chuẩn
Phần chƣơng trình lịch sử thế giới cận đại ở lớp 11 - chương trình cơ bản, là sự tiếp tục
chương trình đã học ở lớp 10, gồm các nội dung cơ bản như: lịch sử các nước châu Á từ giữa thế kỉ XIX
đến đầu thế kỉ XX, chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), những thành tựu văn hóa thời cận đại.
Phần chƣơng trình lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1917 đến năm 1945 cung cấp cho học
sinh những kiến thức cơ bản về lịch sử xã hội loài người từ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
đến năm 1945. Phần chương trình này tiếp nối chương trình lịch sử thế giới cận đại học sinh đã được
học ở lớp 10, hoàn chỉnh kiến thức lịch sử thế giới hiện đại đã học ở lớp 8 và làm cơ sở cho việc tiếp
nhận kiến thức lịch sử thế giới giai đoạn từ năm 1945 đến nay mà học sinh sẽ được học ở lớp 12.
Với hai giai đoạn lịch sử kéo dài qua hai thế kỉ và những nội dung bao quát về các nước trên
thế giới thì khối lượng nội dung kiến thức sẽ rất đa dạng, phong phú và phức tạp đối với nhận thức
của học sinh. Cho nên, việc tạo những biểu tượng lịch sử cụ thể, rõ nét về không gian, thời gian, địa
điểm, con người,… có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hệ thống hóa, cụ thể hóa, giúp học sinh nhớ
lâu, hiểu rõ và chính xác các sự kiện lịch sử.
2.2. Xây dựng đồ dùng trực quan quy ƣớc trong dạy học lịch sử thế giới lớp 11 trung học phổ
thông (chƣơng trình chuẩn)
2.2.1. Những yêu cầu của việc xây dựng đồ dùng trực quan quy ước
Khi tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan quy ước, việc xác định kiến thức cơ bản, qui định
cách thể hiện nội dung đều phụ thuộc vào mục đích dạy học, phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản
của quá trình dạy học: là tính khoa học, tính trực quan và tính sư phạm.
Thứ nhất, đảm bảo tính khoa học: đồ dùng trực quan quy ước được coi như một nguồn
cung cấp tri thức quan trọng để học sinh học tập và nghiên cứu lịch sử. Do đó, nó trang bị cho học
sinh kiến thức khoa học, qua đó phát triển trí tuệ và năng lực hành động, hình thành ở các em cơ sở
thế giới quan khoa học và đạo đức cách mạng, chuẩn bị cho các em bước vào cuộc sống lao động
sáng tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
13
Tính khoa học của đồ dùng trực quan quy ước biểu hiện ở độ chính xác của các sự kiện, hiện
tượng được phản ánh, biểu thị được sự phát triển nội tại của nội dung sự kiện, giúp người đọc nhận
thức được bản chất của chúng.
Thứ hai, đảm bảo tính trực quan: tính trực quan của đồ dùng trực quan quy ước có tác
dụng rất lớn trong việc tạo ra sự hấp dẫn đối với học sinh. Mọi đồ dùng trực quan quy ước cần có nội
dung đơn giản nhất, rõ ràng nhất và nó cho phép người sử dụng “đọc” được một cách thuận lợi, dễ
dàng.
Tính trực quan biểu hiện ở hình dáng trực quan, bao trùm lên đối tượng và hiện tượng với tất
cả các tính chất nguyên vẹn và phức tạp của nó, với mọi chi tiết riêng phù hợp với qui luật.
Thứ ba, đảm bảo tính sƣ phạm: đồ dùng trực quan quy ước môn lịch sử được xây dựng là để
phục vụ cho việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Đối tượng sử dụng là giáo viên và học sinh, cho
nên phương pháp thể hiện kiến thức cơ bản trên đồ dùng trực quan quy ước phải đảm bảo tính sư phạm.
Tính sư phạm của đồ dùng trực quan quy ước được thể hiện trên nhiều mặt, trước hết là phải
có nội dung, hình thức và thể loại phù hợp với chương trình môn học theo từng cấp học và từng lớp
học, phù hợp với trình độ học sinh. Đồng thời, đồ dùng trực quan quy ước phải đáp ứng được các yêu
cầu cơ bản của phương pháp dạy học, phù hợp với hoàn cảnh xã hội và phù hợp với hoàn cảnh của
nhà trường, có khả năng giáo dục thẩm mĩ.
Thứ tƣ, phải phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình sử dụng: phương pháp
sử dụng đồ dùng trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc dạy và học nhằm tạo cho
học sinh hiểu biết cụ thể những sự vật mà giáo viên trực tiếp minh họa. Vì đây là phương pháp cụ thể
hóa những tư duy, những suy nghĩ bằng hình ảnh và màu sắc vào trong kí ức. Phương pháp này
không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản mà còn rèn luyện cho các em những kỹ
năng, kỹ xảo. Giúp học sinh biết cách đọc, khai thác và phân tích các sự kiện, hiện tượng lịch sử và
mối quan hệ của chúng được thể hiện trên một bản đồ. Từ đó giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức
một cách dễ dàng, chắc chắn, giúp học sinh phát huy được tư duy của mình.
2.2.2. Phương pháp xây dựng đồ dùng trực quan quy ước
2.2.2.1. Bản đồ lịch sử
Xây dựng bản đồ là công việc rất phức tạp, bao gồm nhiều công đoạn và nhiều nội dung
phong phú, là sự đúc kết tri thức của nhiều ngành khoa học.
Nhìn chung, bản đồ do các nhà khoa học trong các cơ quan chức năng xây dựng hay do giáo
viên và học sinh tự làm đều trải qua các bước sau:
*Xác định rõ mục đích và nhiệm vụ của bản đồ
*Thiết kế cơ sở toán học của bản đồ
*Thu thập, phân tích và đánh giá các tư liệu bản đồ
*Xác định nội dung bản đồ và nguyên tắc tổng kết hóa
14
*Lựa chọn các phương pháp biểu hiện
*Thiết kế và biên vẽ bản đồ
2.2.2.2. Niên biểu lịch sử
Khi tiến hành xây dựng phải tuân thủ những yêu cầu, nguyên tắc chung của việc xây dựng đồ
dùng trực quan như: đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm, tính thẩm mĩ…
Trong thực tế dạy học lịch sử hiện nay, phần lớn các niên biểu được sử dụng ở trường phổ
thông là do giáo viên và học sinh tự xây dựng, trải qua các bước sau:
+ Xác định mục đích, yêu cầu của niên biểu
+ Xác định nội dung niên biểu
+ Trình bày, thể hiện nội dung niên biểu
2.2.2.3. Sơ đồ lịch sử
Việc xây dựng sơ đồ lịch sử cũng tuân thủ các yêu cầu chung của việc xây dựng đồ dùng trực
quan quy ước như tính khoc học, tính sư phạm và tính thẩm mĩ…
Xây dựng sơ đồ lịch sử cũng bao gồm các bước như xác định mục đích, yêu cầu, nội dung và
trình bày, thể hiện. Xác định mục đích – yêu cầu của sơ đồ phải bám sát mục đích, yêu cầu và nội
dung bài học. Trên cơ sở mục đích đó, sơ đồ cần đạt được những yêu cầu cụ thể về các mặt như giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh
2.2.2.4. Đồ thị lịch sử
Xây dựng đồ thị lịch sử cũng tuân thủ các nguyên tắc, yêu cầu chung của việc xây dựng đồ
dùng trực quan như tính khoc học, tính sư phạm và tính thẩm mĩ… và trải qua các bước như xác định
mục đích, yêu cầu, nội dung và lựa chọn phương pháp thể hiện. Điều quan trọng nhất của việc xây
dựng đồ thị là phải xác định được các dấu hiệu phản ánh sự phát triển cả về số lượng và chất lượng
của sự kiện, hiện tượng được trình bày trong bài học.
2.2.2.5. Biểu đồ lịch sử
Biểu đồ được xây dựng nhằm phục vụ dạy học lịch sử nên nó cũng phải tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc, yêu cầu chung của việc xây dựng đồ dùng trực quan như tính khoc học, tính sư phạm và
tính thẩm mĩ…
Xây dựng biểu đồ lịch sử cũng trải qua các bước như trong xây dựng sơ đồ, đồ thị: xác định
rõ mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp thể hiện. Trên cơ sở mục đích, yêu cầu và nội dung
đó thì việc trình bày, thể hiện biểu đồ được tiến hành bằng các phương pháp sau:
- Phương pháp biểu thị giá trị số lượng của hiện tượng thông qua kích thước biểu đồ
- Phương pháp biểu thị cấu trúc của hiện tượng thông qua cấu trúc của bản đồ.
- Phương pháp biểu thị động lực phát triển của hiện tượng thông qua sự lớn lên của biểu đồ
15
2.3. Các phƣơng pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ƣớc trong dạy học lịch sử thế giới lớp 11
THPT – chƣơng trình chuẩn
2.3.1. Những yêu cầu chung khi sử dụng đồ dùng trực quan quy ước
Thứ nhất, kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước do Nhà nước cung cấp và đồ dùng
trực quan quy ước do giáo viên và học sinh tự làm.
Thứ hai, kết hợp giữa thầy và trò trong việc vẽ, sử dụng các loại đồ dùng trực quan quy ước.
Thứ ba, đồ dùng trực quan quy ước trong giờ nội khóa và hoạt động ngoại khóa.
Thứ tư, kết hợp các loại hình đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử.
2.3.2. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử lớp 11 THPT –
chương trình chuẩn
2.3.2.1. Sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong nghiên cứu kiến thức mới
Nghiên cứu kiến thức mới là một việc chủ yếu và phổ biến trong một tiết dạy học trên lớp.
Nghiên cứu kiến thức mới đối với học sinh nhằm làm giàu thêm kiến thức, kĩ năng thực hành bộ môn
trên cơ sở những tài liệu khoa học mới, chính xác, giúp các em tạo được những biểu tượng lịch sử cụ
thể, sinh động về quá khứ cũng như hình thành khái niệm lịch sử đúng đắn, rút ra bài học lịch sử và
rèn luyện kĩ năng thực hành.
Sử dụng đồ dùng trực quan quy ƣớc trong giờ học trên lớp, giáo viên phải lƣu ý đến các
kĩ năng sau:
Treo đồ dùng trực quan quy ước đúng lúc nhằm thu hút sự chú ý của học sinh
Không treo đồ dùng trực quan quy ước trên bảng đen vì bảng còn dùng để viết – vẽ, mà nên
treo ở góc cao bên phải bảng đen nơi có đủ độ sáng cho toàn lớp quan sát, theo dõi.
Trước khi sử dụng đồ dùng trực quan quy ước, giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh ghi
nhớ bảng chú dẫn, những kí hiệu qui ước, nhằm giúp các em hiểu được nội dung đồ dùng trực quan
quy ước.
Trong nghiên cứu kiến thức mới có thể tiến hành sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong
các trường hợp sau:
Thứ nhất, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước để tạo cho học sinh biểu tượng lịch sử cụ thể.
Thứ hai, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước giúp học sinh hiểu bản chất của sự kiện với nội
dung phong phú và hình thành khái niệm lịch sử.
Thứ ba, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước để giải thích nội dung các hiện tượng lịch sử
phức tạp, giúp học sinh hình thành mối liên hệ nhân quả về bản chất, ý nghĩa của sự kiện.
2.3.2.2. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong ôn tập, sơ kết, tổng kết
Ôn tập, sơ kết, tổng kết là nhằm củng cố, tổng hợp, khái quát kiến thức đã học, làm cơ sở cho
việc nghiên cứu sâu sắc hơn kiến thức mới. Đồng thời ôn tập, sơ kết, tổng kết còn rèn luyện kĩ năng,
kĩ xảo cho học sinh. Vì vậy ôn tập, sơ kết, tổng kết thường được sử dụng khi hoàn thành việc nghiên
16
cứu một giai đoạn, một thời kì, một quá trình hay các vấn đề lịch sử của chương trình. Nó là một
khâu quan trọng trong quá trình dạy học, là biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học.
Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước để ôn tập, sơ kết, tổng kết trong dạy học lịch sử được tiến
hành như sau:
- Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước để củng cố những kiến thức đã học.
- Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước để tổng hợp, khái quát hóa các kiến thức.
- Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước để rèn luyện kĩ năng thực hành
2.3.2.3. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh trong quá trình dạy học có tầm quan trọng
đặc biệt. Nó là khâu cuối cùng, đồng thời khởi đầu cho một chu kì khép kín tiếp theo với một chất
lượng cao hơn của quá trình giáo dục. Mục tiêu của kiểm tra, đánh giá là nhằm làm rõ tình hình lĩnh
hội kiến thức, sự hình thành về kĩ năng kĩ xảo của học sinh; bổ sung, làm sâu sắc, củng cố, hệ thống
hoặc khái quát hóa kiến thức đã học, chuẩn bị cho việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn kiến thức
mới. Đồng thời kiểm tra, đánh giá còn giúp giáo viên tự đánh giá việc giảng dạy của mình.
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm
2.4.1. Mục đích thực nghiệm
Thông qua thực nghiệm để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Mặt khác, thực nghiệm sư phạm còn giúp đánh giá tác dụng của đồ dùng trên góc độ về
phương pháp dạy học bộ môn qua một bài lịch sử nội khóa trên lớp.
2.4.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm
- Đối tượng: lớp 11B1 và 11B2 của trường THPT An Dương (Hải Phòng), bài 6: “Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914-1918)”
- Thời gian thực nghiệm: tuần 7, tiết 7, học kì I, năm học 2012-1013
2.4.3. Các bước tiến hành thực nghiệm
- Chúng tôi trực tiếp trao đổi kế hoạch thực nghiệm với ban giám hiệu trường sở tại và tổ
chuyên môn. Sau đó đã làm việc cụ thể về mục đích, nội dung thực nghiệm với giáo viên bộ môn, có
tổ bộ môn tham dự, góp ý xây dựng thống nhất giáo án của tiết lên lớp.
- Cùng giáo viên bộ môn tìm hiểu tinh thần, thái độ, chất lượng học tập bộ môn của các lớp
trong khối để quyết định chọn hai lớp tương đương nhau về các mặt để thực nghiệm
- Tiến hành trao đổi với giáo viên trực tiếp lên lớp thực nghiệm để thống nhất giáo án và nhất
là các thao tác sử dụng đồ dùng trực quan quy ước sao cho phù hợp với nội dung bài giảng, tránh sự
nhầm lẫn, lúng túng khi lên lớp.
17
- Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm của bài kiểm tra dạng câu hỏi đóng với phương án trả lời theo
a, b, c, d. Cơ sở để đưa ra các câu hỏi dựa trên giáo án đã thống nhất với giáo viên bộ môn. Học sinh
chỉ chọn và đánh dấu vào một phương án đúng nhất trong số đó.
Bài kiểm tra thực nghiệm được phát ngay sau giờ học của mỗi lớp (lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm). Thời gian dành cho học sinh trả lời là 10 phút (mỗi phút trên 1 câu).
Bươc tiếp theo là đưa đồ dùng trực quan quy ước xuống trường phổ thông, tiến hành thực
nghiệm sư phạm đối với bài học lịch sử nội khóa trên lớp cụ thể: lớp 11B1 bài 6: “Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914-1918)”.
2.4.4. Kết quả thực nghiệm
Đánh giá kết quả thực nghiệm của đề tài là công tác có ý nghĩa rất quan trọng để có thể rút ra
những nhận xét, kết luận về ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài.
Về ý kiến của giáo viên và tổ bộ môn: Giờ học đã thể hiện được những dự kiến sư phạm đề ra
trong giáo án.
Đối với học sinh, chúng tôi đọc được trên gương mặt các em những dấu hiệu đáng mừng khi
theo dõi bài giảng, đó là sự say mê nghiêm túc, thích thú, sôi nổi trong giờ học.
Tuy nhiên, căn cứ đánh giá chính xác và khoa học hơn hết vẫn là kết quả của bài kiểm tra trắc
nghiệm nhận thức học sinh sau tiết học.
+ Bài kiểm tra trước tác động: lấy điểm bài kiểm tra 15 phút học kì I
+ Bài kiểm tra sau tác động : là bài kiểm tra 10 phút sau khi học xong bài 6: “Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914-1918)”
Lớp đối chứng
Lớp thực nghiệm
Điểm Trung bình
6,53
7,43
Độ lệch chuẩn
0,93
0,77
Giá trị p của T- Test
0,0068
Chênh lệch giá trị TB chuẩn (SMD)
0,967
*Bàn luận kết quả
Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của nhóm thực nghiệm có điểm trung bình = 7,43, kết
quả bài kiểm tra tương ứng của nhóm đối chứng có điểm trung bình = 6,53. Độ chênh lệch điểm số
giữa hai nhóm là 0,967; điều đó cho thấy điểm trung bình của hai lớp đối chứng và thực nghiệm đã
có sự khác biệt rõ rệt, lớp được tác động có điểm trung bình cao hơn lớp đối chứng.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra là SMD=0.967, điều này có nghĩa
mức độ ảnh hưởng của tác động là lớn.
Phép kiểm chứng T-test điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động của hai lớp là p=0,0068.
Kết quả này khẳng định sự chênh lệch điểm trung bình của hai nhóm là do tác động, nghiêng về
nhóm thực nghiệm.
18
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Công cuộc cải cách giáo dục đang triển khai hiện nay được tiến hành đồng thời trên cả ba
mặt: hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học. Tuy vậy, vấn đề phương pháp dạy học
vẫn bị xem nhẹ, chưa giành được sự quan tâm của đông đảo giáo viên, nên chưa đáp ứng được yêu
cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, dạy học lịch sử nói riêng.
Đồ dùng trực quan quy ước có vai trò tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học lịch
sử theo hướng phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức độc lập của học sinh, nâng cao chất lượng
bộ môn. Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông, việc sử dụng đồ dùng trực
quan quy ước vẫn còn rất hạn chế, chưa góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Đồ dùng trực quan quy ước có vị trí, vai trò rất quan trọng trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông, góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, là chỗ dựa để học sinh hiểu sâu sắc, chân
thực hiện thực khách quan và tính chân lí của kiến thức lịch sử.
2. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử phải được tiến hành đồng thời ở nhiều khâu, nhiều
công đoạn của quá trình dạy học, trong đó, vấn đề được đặt ra một cách cấp thiết trong thực tiễn hiện
nay là phải được trang bị đủ các loại đồ dùng, phương tiện dạy học cần thiết.
3. Người giáo viên lịch sử phải được trang bị đầy đủ những kiến thức, kĩ năng cần thiết để họ
có thể chủ động, tích cực trong việc xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước phục vụ dạy
học lịch sử ở trường phổ thông,
Trên cơ sở kết quả đạt được của luận văn, chúng tôi rút ra một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất: trong điều kiện đất nước ta còn nhiều khó khăn, việc trang bị đồ dùng dạy học còn
rất hạn chế. Vì vậy, các cơ quan quản lí giáo dục cần coi việc tự xây dựng đồ dùng, thiết bị phục vụ
dạy học ở trường phổ thông là một giải pháp hữu hiệu đáp ứng nhu cầu về đồ dùng và phương tiện
dạy học.
Thứ hai: cần trang bị cho giáo viên bộ môn những kiến thức cần thiết về xây dựng và sử dụng
đồ dùng dạy học nói chung, đồ dùng trực quan quy ước nói riêng. Đây được xem là giải pháp lâu dài
và thiết thực để đảm bảo có đủ đồ dùng cần thiết trong dạy học lịch sử, để đổi mới phương pháp dạy
học và nâng cao chất lượng bộ môn.
Thứ ba: nhà trường phổ thông cần xem việc xây dựng và sử dụng đồ dùng dạy học nói chung
là một công tác bắt buộc, là một trong những chỉ tiêu đánh giá hoạt động giảng dạy của giáo viên.
Như thế mới dần đưa giáo viên vào nề nếp, tự giác sử dụng đồ dùng trực quan quy ước khi lên lớp.
19
References.
1. Nguyễn Thị Côi (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hƣởng, Nguyễn Thị Thế
Bình. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử lớp 11 THPT. Nxb Đại học
sư phạm, 2010.
2. Lâm Quang Dốc. Bản đồ chuyên đề. Nxb Đại học sư phạm, H, 2002.
3. Lâm Quang Dốc. Bản đồ giáo khoa (Sách dùng cho sinh viên khoa lịch sử ). Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, 1997.
4. Hồ Ngọc Đại. Tâm lí học dạy học. Nxb Giáo dục, H, 1983.
5. Đairi N. G. Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào?. Nxb Giáo dục, H, 1973. (Đặng Bích Hà
và Nguyễn Cao Lũy dịch).
6. Trần Quốc Đắc. Cơ sở và nguyên tắc xây dựng bản tiêu chuẩn thiết bị giảng dạy ở trường
phổ thông. Nghiên cứu giáo dục, số 4/1990.
7. Đổi mới việc dạy học lịch sử “Lấy học sinh làm trung tâm”. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
1996.
8. Phạm Văn Đồng. Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực – một phương pháp vô cùng
quí báu. Tạp chí trung học phổ thông – Khoa học xã hội, số 1 -1995.
9. Exipôp B.P. Những cơ sở của lí luận dạy học. Tập I, Nxb Giáo dục, H, 1971. (Nguyễn Ngọc
Quang dịch).
10. Đinh Thị Bảo Hoa. Bản đồ đại cương. ĐHQG Hà Nội, Trường ĐHKH Tự nhiên, H, 1999.
11. Lênin. Bút kí triết học. Nxb Sự thật, H, 1963.
12. Lịch sử lớp 11 (sách giáo viên). Nxb Giáo dục, H, 2007.
13. Lịch sử lớp 11. Nxb Giáo dục, H, 2007.
14. Phan Ngọc Liên. Bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Cục đo đạc và bản đồ
nhà nước, H, 1987.
15. Phan Ngọc Liên (chủ biên). Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông. Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, 2000.
16. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi. Phương pháp dạy học lịch
sử. Tập I, Nxb Đại học sư phạm, H, 2002.
17. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi. Phương pháp dạy học
lịch sử. Tập II, Nxb Đại học sư phạm, H, 2002.
18. Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Phan
Thế Kim, Nguyễn Hữu Chí, Phạm Hồng Việt. Phương pháp dạy học lịch sử. Nxb Giáo
dục, H, 2000.
19. Phan Ngọc Liên, Phạm Kì Tá. Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông cấp hai. Nxb Giáo dục, H, 1976.
20
20. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị. Phương pháp dạy học lịch sử. Tập I, Nxb Giáo dục, H,
1978.
21. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng. Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch
sử ở trung học cơ sở. Nxb Giáo dục, H, 1999.
22. Phan Ngọc Liên, Trƣơng Hữu Quýnh. Giáo trình phương pháp luận sử học. Nxb ĐHSP
Hà Nội I, H, 1982.
23. Luật Giáo dục. Nxb Chính trị quốc gia, H, 1998.
24. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt. Giáo dục học. Tập I, Nxb Giáo dục, H, 1987.
25. Vũ Dƣơng Ninh, Nguyễn Văn Hồng. Lịch sử thế giới cận đại. Nxb Giáo dục, H, 2002.
26. Sacđacôp N.L. Tư duy của học sinh. Tập I, Nxb Giáo dục, H, 1970.
27. Sacđacôp N.L. Tư duy của học sinh. Tập II, Nxb Giáo dục, H, 1970.
28. Savin N.V. Giáo dục học. Tập I. Nxb Giáo dục, H, 1983. (Nguyễn Đình Chỉnh dịch).
29. Số liệu thống kê (1930-1984). Nxb Thống kê, H, 1985.
30. Sự kiện và số liệu (1945-1995). Nxb Thống kê, H, 1996.
31. Tài liệu Hội nghị đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn lịch sử ở trường Trung học
phổ thông và trường Trung học cơ sở. Tập II, Bộ giáo dục và Đào tạo – Vụ Trung học phổ
thông, H, 11/1999.
32. Ngô Đạt Tam. Một số vấn đề lí thuyết và thực tiễn trong xây dựng bản đồ giáo khoa địa lí (ở
trường trung học phổ thông Việt Nam). Luận án PTS, ĐHSP Hà Nội I, 1987.
33. Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Đỗ Thanh Bình, Nguyễn Quốc Hùng, Vũ Ngọc Oanh,
Đặng Thanh Toán, Trần Thị Vinh. Lịch sử thế giới hiện đại. Nxb Giáo dục, H, 2003.
34. Trịnh Đình Tùng. Một số vấn đề về phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử.
Thông báo khoa học trường ĐHSP Hà Nội I, Số 4/ 1993.
35. Trịnh Đình Tùng, Kiều Thế Hƣng. Xây dựng bản đồ trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông. Tạp chí nghiên cứu giáo dục, Số 6 – 1994.
36. Việt Nam – Con số và sự kiện 1945 – 1989. Nxb Sự Thật, H, 1990.
37. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống kí hiệu thống nhất cho các bản đồ giáo khoa lịch sử treo
tường phục vụ dạy học lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam (Đề tài cấp Nhà xuất bản). Nxb
Giáo dục – TTBĐ&TAGD, H, 2003.