Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

SKKN sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong giờ học lịch sử lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 38 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong hệ thống giáo dục ở trường THCS, môn Lịch sử có vai trò quan
trọng trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ về kiến thức, văn hóa, tư tưởng, chính
trị, phẩm chất đạo đức và phong cách sống. Lịch sử cũng như các môn học
khác, có vai trò to lớn trong việc tác động đến con người không chỉ về trí tuệ
mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Giúp các em thấy được quá trình phát triển
của một đất nước, một dân tộc mà rộng hơn là cả xã hội loài người, góp
phần quan trọng vào việc hình thành nhân sinh quan, thế giới quan khoa học.
Nhưng trong thực tế hiện nay việc dạy – học môn Lịch sử chưa hoàn thành
tốt vai trò của mình. Ở nhiều nơi, giáo viên vẫn chủ yếu dạy học bằng
phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên lo truyền đạt hết những nội
dung trong sách giáo khoa, còn học sinh cố gắng chép được những nội dung
mà thầy cô đọc cho chép. Do đó trong thực tế giảng dạy giáo viên chưa phát
huy được tính tích cực, chưa gây hứng thú cho học sinh. Về phía học sinh,
chưa chú tâm học tập, nhiều em vẫn cho rằng học môn Lịch sử phải ghi nhớ
quá nhiều sự kiện khô khan, Lịch sử là môn học nghiên cứu về quá khứ, mà
quá khứ là những cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ cho quá khứ chứ
không áp dụng vào thực tiễn. Muốn khắc phục được vấn đề này thì việc gây
hứng thú học tập cho học sinh là điều không thể thiếu trong giờ học Lịch sử.
Vì thế đổi mới phương pháp sử dụng thiết bị dạy học Lịch sử ở trường
THCS là việc làm vô cùng cần thiết, để thông qua đó giáo viên dễ hình
thành khái niệm lịch sử cho học sinh hoặc giúp các em nhớ lâu, nhớ kĩ nội
dung của bài.
Hiện nay nghành giáo dục vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, người thầy giữ
vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh tích cực chủ động, tìm tòi, khám phá,
lĩnh hội kiến thức mới. Vì vậy, mỗi giáo viên cần có sự chủ động, sáng tạo
tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú học tập bộ môn
cho học sinh. Hòa chung trong xu thế phát triển của xã hội ngày nay, việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy là một việc làm rất cần thiết và


mang tính tất yếu, góp phần rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất cần
thiết của người công dân trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Việc sử dụng đồ dùng trực quan phục vụ cho việc đổi mới phương
pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất trong
việc đổi mới phương pháp dạy học. Và đối với bộ môn Lịch sử, sử dụng đồ
dùng trực quan vào giảng dạy là một việc làm rất cần thiết, giúp các em dễ
hình dung lại sự phát triển của xã hội loài người và gây hứng thú học tập cho
học sinh.
Vậy, làm thế nào để học sinh có hứng thú trong giờ học Lịch sử? Đó
là câu hỏi mà mỗi thầy giáo, cô giáo luôn trăn trở trước khi lên bục giảng.
Xuất phát từ thực tế và những điều kiện sẵn có của nhà trường, tôi chọn đề
tài sáng kiến kinh nghiệm :
" Sử dụng đồ dùng trực quan điện tử trong giờ học Lịch sử lớp 9".
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích:
Một trong những phương pháp đặc trưng của bộ môn Lịch sử là phải
gây được hứng thú, phát huy được tính tích cực học tập của học sinh đó là
sử dụng đồ dùng, công cụ dạy học đúng mục đích, yêu cầu của việc nhận
thức. Ở đây người thầy có vai trò đặc biệt quan trọng giúp học sinh sử
dụng đúng có hiệu quả theo nội dung của bài học. Bởi dạy học bằng ứng
dụng công nghệ thông tin rất phong phú, đa dạng và sinh động như: hình
ảnh, sơ đồ, lược đồ, băng hình do đó người thầy phải giúp học sinh khai
thác đúng nội dung. Từ đó các em có được sự hứng thú trong học tập và
phát huy được tính sáng tạo, phát triển khả năng tư duy, hình thành các kỹ
năng và bồi dưỡng tình cảm thông qua việc nắm bắt các sự kiện, hiện
tượng. Giúp giáo viên và học sinh nhận thức đúng vai trò, vị trí của bộ môn
Lịch sử trong nhà trường trung học cơ sở. Ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học Lịch sử tạo hứng thú hơn cho học sinh trong học tập nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo.
2. Nhiệm vụ:

Nghiên cứu một số vấn đề liên quan trực tiếp đến nội dung của đề
tài: tìm hiểu chức năng, phương pháp, vị trí, nhiệm vụ của bộ môn, thái độ
tư tưởng của học sinh đối với bộ môn…
Đề xuất một số giải pháp góp phần gây hứng thú học tập cho học sinh
khi ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Sáng kiến kinh nghiệm tập trung nghiên cứu và đưa ra một số kinh
nghiệm trong tổ chức dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng
cao hứng thú cho học sinh trong học tập bộ môn Lịch sử.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử ở lớp 9K, 9A
trường THCS Tân Lập.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Khi nghiên cứu đề tài này tôi áp dụng phương pháp thực nghiệm qua thực tế
áp dụng vào quá trình học kết hợp với, phân tích, nhận xét.
- Phương pháp quan sát: Người thực hiện đề tài tự tìm tòi nghiên cứu, tiến
hành dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp.
- Phương pháp trao đổi, thảo luận: Sau khi dự giờ của đồng nghiệp, có thực
hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ giảng để tiến hành trao đổi, thảo
luận để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho tiết dạy.
- Phương pháp thực nghiệm: Giáo viên tiến hành dạy thể nghiệm theo mục
đích yêu cầu của tiết học.
- Phương pháp điều tra: Giáo viên kiểm tra việc tiếp thu kiến thức của học
sinh qua giờ học để có những điều chỉnh phù hợp.
V. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Thực hiện thường xuyên trong quá trình giảng dạy (
Từ tháng 9/2011 –
tháng 4/2012),
đặc biệt là những bài có nhiều kênh hình, lược đồ và cần thiết
những đoạn phim minh hoạ. Ứng dụng sơ đồ điện tử để củng cố bài học và bản
đồ động minh hoạ diễn biến.

PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu
cầu phải đổi mới phương pháp dạy học, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học,
đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các
môn học nói chung, phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng đã được đặt ra
và thực hiện một cách cấp thiết cùng với xu hướng đổi mới giáo dục chung
của thế giới. Luật giáo dục sửa đổi đã chỉ rõ: “phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Tồn tại ở trường trung học cơ sở với tính cách là một khoa học, bộ
môn Lịch sử có tác dụng nhất định đến việc hình thành thế giới quan, tình
cảm đạo đức, phát triển năng lực nhận thức và hành động … cho học sinh.
Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng dạy và học tập môn Lịch sử chưa
thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì thế việc đổi mới một cách toàn diện về
nội dung lẫn phương pháp dạy học Lịch sử là vô cùng cần thiết. Trong một
vài năm gần đây, phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu,
áp dụng ở trường trung học cơ sở như: dạy học nêu vấn đề, dạy học tích
cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học với sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin…Tất cả đều nhằm mục đích tích cực hoá hoạt động của học
sinh, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
Đặc biệt việc sử dụng công nghệ tin học để xây dựng bài giảng điện
tử (hay giáo án điện tử) các môn nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng,
được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu qủa tích cực trong việc
đổi mới dạy và học. Thực hiện giáo án điện tử hay bài giảng điện tử giáo

viên cần có sự hỗ trợ của máy tính. Toàn bộ kế hoạch lên lớp của giáo viên
phải được lập trình sẵn. Các hoạt động dạy và học được thiết kế hợp lý
trong một cấu trúc chặt chẽ, sử dụng các công cụ đa phương tiện bao gồm:
các văn bản hình ảnh, âm thanh, phim minh hoạ để chuyển tải tri thức và
điều khiển người học. Khi lên lớp bằng bài giảng điện tử, giáo viên phải
thực hiện một bài giảng với toàn bộ hoạt động giảng dạy đã được chương
trình hóa một cách sinh động nhờ sự hỗ trợ của các công cụ đa phương tiện
đã được thiết kế trong bài giảng điện tử.
Việc giảng dạy bằng bài giảng điện tử có những ưu điểm của nó. Đối
với giáo viên, tuy phải đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị
một bài giảng điện tử nhưng việc dạy học lịch sử bằng bài giảng điện tử
giúp giáo viên hạn chế bớt phần thuyết giảng, có thời gian thảo luận và
tăng cường kiểm soát đối với học sinh. Bài giảng điện tử giúp đa dạng hoá
việc cung cấp kiến thức cho học sinh thông qua các công cụ trình diễn,
người giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một khối lượng hình ảnh,
phim tài liệu lịch sử… liên quan đến nội dung bài học lịch sử mà học sinh
được học, như vậy mà giờ học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. Tuy nhiên
trong quá trình giảng dạy bằng bài giảng điện tử cũng không tránh khỏi
những bất cập mà bản thân giáo viên nào cũng phải tìm cách khắc phục
Đối với học sinh, việc học tập lịch sử thông qua bài giảng điện tử tạo nhiều
hứng thú cho các em trong học tập, các em được tiếp cận, nhận thức các sự
kiện lịch sử và bài học lịch sử sống động hơn, gần với quá khứ hơn. So với
những bài giảng thông thường, học sinh phải mường tượng trong đầu
những sự kiện, nhân vật mà thầy cô thuyết giảng thì với việc học trên bài
giảng điện tử học sinh đã được trực quan sinh động với những sự kiện,
nhân vật lịch sử một cách cụ thể giúp kích thích quá trình tư duy của học
sinh, từ đó nội dung kiến thức lịch sử học sinh thu thập đủ hơn và in sâu
hơn vào trong trí nhớ của các em.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Xuất phát từ thực tiễn dạy và học bộ môn Lịch sử của giáo viên và

học sinh với phương pháp dạy học cũ, thụ động, chưa tích cực trong học
tập. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin giáo viên áp dụng vào dạy
học nhiều nhưng kết quả chưa cao. Nhiều giáo viên chỉ biết đưa ra những
hình ảnh nhưng không biết khai thác hình ảnh đó như thế nào, hoặc chưa
biết làm các hiệu ứng khi dạy các kiểu bài có lược đồ, sơ đồ, chiến
dịch có hiệu quả. Qua việc tiếp cận công nghệ thông tin tôi luôn luôn
tìm tòi, khám phá, học hỏi các bạn đồng nghiệp để làm sao cho bài giảng
có ứng dụng công nghệ thông tin đạt được hiệu quả cao nhất, gây hứng thú
học tập bộ môn cho học sinh.
Đối với học sinh, nhiều em vẫn cho rằng đây là môn "phụ" do đó
không phải đầu tư nhiều thời gian, các giờ có ứng dụng công nghệ thông
tin các em chỉ ngồi xem hình ảnh, xem phim Từ thực tế như vậy, yêu cầu
giáo viên phải có phương pháp đúng để gây được hứng thú học tập đối với
học sinh.
III:
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS TÂN LẬP:
1. Ưu điểm
Mặc dù có những điều kiện khách quan và chủ quan ảnh hưởng trực tiếp
trong quá trình giảng dạy nhưng chúng tôi đã biết khắc phục vượt lên những khó
khăn trước mắt, từng bước nâng cao chất lượng giờ dạy môn lịch sử nhằm đáp
ứng mục đích chương trình học.
a- Về phía giáo viên:
- Bước đầu đã tiếp cận sử dụng tương đối tốt các kỹ thuật dạy học đặc trưng
bộ môn.
- Đã quen và chủ động với cách thức tổ chức các hoạt động dạy học.
- Phối hợp khá linh hoạt các kỹ thuật dạy học.
- Sáng tạo ra nhiều đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung các tiết dạy, đã
thiêt kế các bài dạy bằng giáo án điện tử, vì vậy nhiều tiết dạy lịch sử trở nên sinh
động , có sức lôi cuốn .

- Sử dụng vận hành các trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ tốt cho quá trình
ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy
b- Về phía học sinh:
- Học sinh đã được quen dần với môn học có ứng dụng công nghệ thông tin.
- Phần lớn học sinh có ý thức học tập và yêu thích môn Lịch sử tích cực thực
hiện được các yêu cầu, bài tập của giáo viên sau giờ học.
2. Những tồn tại:
Như chúng ta đã nói ở trên, lịch sử là một môn học đặc thù. Kiến thức lịch sử
là kiến thức về quá khứ. Có những sự kiện đã diễn ra cách ngày nay hàng trăm,
hàng ngàn năm thậm chí lâu hơn. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi, khi nhận thức học sinh
phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn ra
trước mắt mình. Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học sinh THCS còn hạn chế
nên việc sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh tái hiện là một nguyên
tắc trong dạy học lịch sử. Trong lúc đó, các phương tiện trực quan phục vụ dạy
học lịch sử hiện nay còn nhiều hạn chế. Phương tiện vừa thiếu lại vừa không phù
hợp. Thử lấy ví dụ về hệ thống bản đồ, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng
hệ thống bản đồ và tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ giáo dục phát
hành là không đủ cho các bài dạy. Bên cạnh đó kênh chữ và các kí hiệu quá nhỏ
không thể sử dụng được, thậm chí có một số bản đồ còn mâu thuẫn với kiến thức
ở sách giáo khoa (Lược đồ các phong trao cách mạng ở lớp 9). Các tranh ảnh ở
sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu và thiếu đồng bộ, chưa kể đến phim tài liệu
thì hầu như không có. So với yêu cầu đặt ra của bộ môn và định hướng đổi mới
phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì có thể nói rằng : những phương tiện dạy
học không đáp ứng được yêu cầu và không thể tạo nên hứng thú học tập cho học
sinh.
IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Mục đích của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy lịch sử
Hỗ trợ giáo viên trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng và thiết kế bài
dạy học bằng công nghệ thông tin. Việc sử dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi
người giáo viên phải có kỹ năng thiết kế giáo án và sử dụng những phương

pháp truyền đạt mới. Thay vì phấn trắng bảng đen truyền thống, việc ứng
dụng công nghệ thông tin làm cho bài giảng được thực hiện một cách sinh
động, gây hứng thú và phát huy được tính tích cực của cả giáo viên và học
sinh. Cái được lớn nhất ở mỗi tiết giảng bằng giáo án điện tử chính là mang
lại một lượng lớn kiến thức, hình ảnh trực quan sinh động được chuyển tải
đến người học. Nguyên tắc trực quan trong dạy học Lịch sử đóng vai trò
quan trọng, nó làm cho học sinh hứng thú và nhận thức một cách chính xác
các sự kiện quá khứ và ghi nhớ lâu hơn.
Việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính bằng những hình
ảnh tư liệu, sơ đồ, lược đồ, đoạn phim minh hoạ tái hiện lại quá khứ giúp
bài giảng thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú cho học sinh. Hỗ trợ học
sinh trong việc cung cấp kiến thức, giảm tính trừu tượng của nội dung bài
học. Học sinh hứng thú hơn trong giờ học bởi các em có thể được sống lại
cùng lịch sử qua các hình ảnh tư liệu tạo điều kiện cần thiết cho học sinh
thực hành để hình thành và rèn luyện các kỹ năng cho học sinh, góp phần
đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của học sinh. Trợ giúp cho giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh học
kiến thức mới, phát huy tính tìm tòi, khám phá của học sinh. Ví dụ tiết học
lịch sử về các nền văn minh, các giá trị văn hoá, các cuộc chiến đấu… giáo
viên có thể sử dụng hình ảnh, phim tư liệu, các bản đồ điện tử… để minh
họa, chắc chắn sẽ tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho các em. Chính những
điều này sẽ thổi một luồng gió mới vào lớp học, vào nhiệt huyết nghề
nghiệp của giáo viên và vào cả tinh thần hăng say học tập của học sinh để
mang lại hiệu quả giáo dục cao.
2. Yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy lịch sử
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, đối với mỗi giáo viên
phải có sự thích ứng, sáng tạo trong vận dụng công nghệ thông tin trong
các bài giảng lịch sử. Tuy nhiên không phải bài nào cũng ứng dụng công
nghệ thông tin có hiệu quả. Bởi trong thực tế hiện nay nhiều giáo viên quá
lạm dụng vào việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, dạy tràn lan

không định hướng được kiến thức cần nắm cho học sinh. Giáo viên phải
dựa vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng và rèn kĩ năng để sử dụng đạt mục
đích đề ra. Vì thế giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ bài dạy, ứng dụng công
nghệ thông tin mang lại hiệu quả cao nhất cho người học.
Để xây dựng bài giảng điện tử, trước hết giáo viên phải xác định
được công nghệ thông tin chỉ là công cụ hỗ trợ hữu ích cho dạy học. Giáo
viên tránh đưa ra nhiều hình ảnh màu sắc lòe loẹt hoặc những thước phim
tư liệu quá dài khiến học sinh chỉ chú ý đến việc xem mà không phát huy
được sự chủ động, tích cực tư duy. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ thông tin
hình thành kiến thức cho học sinh trong dạy học lịch sử còn làm cho giờ
học trở nên sinh động, không bị khô khan, tẻ nhạt, lôi cuốn được học sinh
tham gia học tập tích cực, chủ động, tạo cho các em động cơ và không khí
học tập thoải mái. Đây là nền tảng cho việc tiếp thu kiến thức khoa học
lịch sử một cách hiệu quả, qua đó giáo dục và phát triển toàn diện học sinh
và nâng cao chất lượng.
Khi sử dụng những bức ảnh lịch sử có kích thước nhỏ, giáo viên phải
đi xuống lớp hướng dẫn học sinh quan sát, sử dụng lược đồ treo tường giáo
viên phải mất công treo, hoặc nếu lập niên biểu, vẽ sơ đồ, đồ thị lịch sử
trên bảng đen thì giáo viên cũng mất khá nhiều thì giờ, trong khi đó độ
chuẩn xác và tính thẩm mĩ lại không cao. Ngược lại, nếu giáo viên ứng
dụng công nghệ thông tin vào chuẩn bị bài giảng ở nhà từ trước, những
công việc này khi dạy học trên lớp sẽ giúp giáo viên đỡ vất vả và đơn giản
hơn rất nhiều, thời gian được tiết kiệm tối đa mà tính trực quan, thẩm mĩ
lại cao. Ở đây, giáo viên chỉ cần “nhấn chuột” để trình chiếu và hướng dẫn
học sinh khai thác nội dung kiến thức “ẩn” trong mỗi hình ảnh, kênh hình
sẽ được phóng to trên màn hình lớn đủ để học sinh cả lớp quan sát. Những
mũi tên chuyển động khi tường thuật về một trận đánh, hướng tấn công,
hoặc việc sơ đồ hóa các mốc thời gian quan trọng, cụ thể hóa cho đối tượng
cần miêu tả trên màn hình lớn kèm theo lời trình bày sinh động của giáo
viên sẽ có tác động lớn tới tâm lí học sinh, các em cảm thấy học tập hứng

thú hơn, hiệu quả ghi nhớ kiến thức tốt hơn. Với đặc trưng của bộ môn
cũng như những ưu điểm nổi bật của công nghệ thông tin và truyền thông,
giáo viên và học sinh có thể ứng dụng công nghệ này vào đổi mới phương
pháp dạy – học, từng bước nâng cao chất lượng bộ môn ở nhiều hình thức,
các khâu khác nhau trong quá trình dạy học.
Đối với học sinh: Khi được học những tiết học lịch sử có sự hỗ trợ
của công nghệ thông tin sẽ góp phần tạo biểu tượng, bồi dưỡng kiến thức
và làm phong phú thêm sự hiểu biết của học sinh về lịch sử thế giới cũng
như lịch sử dân tộc. Trong dạy học lịch sử, để học sinh có thể đi từ nhận
thức “cảm tính” đến nhận thức “lí tính”, trước hết các em phải có được
biểu tượng lịch sử - những hình ảnh về sự kiện, hiện tượng được phản ánh
trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất. Sử dụng công
nghệ thông tin trong dạy học thật hiệu quả, kết hợp với các phương pháp
khác sẽ giúp giáo viên thực hiện tốt công việc này.
3. Các biện pháp tiến hành ứng dụng CNTT trong dạy lịch sử
Để việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử hiệu quả, có
rất nhiều hình thức nhưng trong khuôn khổ của đề tài này tôi đưa ra 1 số
vấn đề như sau:
3.1. Sử dụng hình ảnh để minh họa cho nội dung bài học:
Một trong những lợi thế của môn học Lịch sử là có rất nhiều tư liệu bằng hình
ảnh như các bức hoạ, ảnh chụp đặc biệt là các bộ phim tài liệu.
Học Lịch sử là
học quá khứ nên học sinh rất thích được xem những hình ảnh thực tế của
quá khứ làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng với thời kì lịch sử
đó. Hình ảnh là nguồn tư liệu phong phú nhất khi ứng dụng công nghệ thông
tin vào dạy học, có thể nói bài học nào có ứng dụng công nghệ thông tin thì
bài học đó đều có hình ảnh minh họa. Tuy nhiên giáo viên không vì phong
phú mà đưa quá nhiều hình ảnh, hình ảnh không gần với bài học sẽ dẫn tới
không thể làm cho học sinh khắc sâu kiến thức. Nếu khai thác tốt hình ảnh
sẽ hấp dẫn được học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn bài học, nhưng ngược

lại cũng không tránh khỏi sự tò mò của học sinh dẫn tới sao nhãng việc tiếp
thu kiến thức. Có hai hình thức sử dụng hình ảnh:
a. Hình ảnh minh họa cho nội dung kiến thức:
Sau khi giáo viên đã trình bày song phần nội dung kiến thức của từng
mục, từng bài giáo viên đưa ra các hình ảnh minh họa cho nội dung bài vừa
học song, qua đó các em nhận thức được sâu hơn vấn đề.
Ví dụ 1: Tiết 8 - Bài 7: Các nuớc châu Phi .Phần I: Tình hình chung.
Trước hết giáo viên hỏi học sinh. Hiện nay Châu Phi đang đứng trước
những vấn đề khó khăn như thế nào?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại những khó khăn cơ bản mà Châu
Phi đang phải gánh chịu: xung đột sắc tộc, tôn giáo, bệnh tật, đói nghèo,
bùng nổ dân số
Sau đó giáo viên cho học sinh xem 1 số hình ảnh để minh họa thêm về
những khó khăn, nghèo đói của Châu Phi trong giai đoạn hiện nay, từ đó
giúp học sinh khắc sâu thêm được kiến thức bài học.
* Ví dụ 2: Tiết 14 – Bài 12: Những thành tựu chủ yếu và ý nghĩa của
cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật, Mục I: Những thành tựu chủ yếu.
Sau khi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đưa ra những thành tựu tiêu
biểu trong lĩnh vực công nghệ với những thành tựu về: công cụ sản xuất
mới, nguồn năng lượng mới, vật liệu mới, chinh phục vũ trụ, giao thông
vận tải, thông tin liên lạc Giáo viên đưa ra 1 loạt các hình ảnh để minh
họa cho nội dung kiến thức vừa học. Bằng lời nói sinh động, hấp dẫn học
sinh dễ khắc sâu kiến thức trọng tâm của bài có hứng thú học tập bộ môn
Có thể so sánh nếu như khi dạy 2 bài trên không sử dụng ứng dụng công
nghệ thông tin giáo viên vẫn có thể truyền đạt hết kiến thức cho học sinh
nhưng để học sinh hình dung được bộ mặt thật, những khó khăn thách thức
của châu Phi hiện nay là rất khó, bởi học sinh có thể chỉ biết được trên sách
vở, lý thuyết. Hoặc qua các hình ảnh học sinh mới biết được con tầu cao tốc,
những mạng lưới giao thông hiện đại của các nước phát triển, sự tiến bộ về
thông tin liên lạc so sánh những tiến bộ kỹ thuật trong từng thập kỷ.

b. Hình ảnh khắc sâu kiến thức:
Giáo viên đưa ra hình ảnh và hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh sau
đó rút ra những vấn đề kiến thức của bài học, nhằm khắc sâu kiến thức
trọng tâm. Vấn đề này không khó nhưng giáo viên lại không hay chú ý
thường bỏ qua hoặc làm thay cho học sinh.
*Ví dụ 1: Tiết 31 – Bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950).
Mục II: Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16:
Giáo viên sử dụng hình “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón
đánh xe tăng Pháp” trình chiếu trên màn hình lớn hướng dẫn học sinh
khai thác nội dung kiến thức cơ bản, kèm theo câu hỏi gợi mở: Em biết gì
về bức ảnh lịch sử này? Bức ảnh chụp ai? Theo em hiện nay bức ảnh gốc
đang được trưng bày ở đâu? Quan sát bức ảnh trên em có nhận xét gì về
tinh thần chiến đấu của chiến sĩ Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc
chống thực dân Pháp xâm lược?

Sau khi học sinh trao đổi, trả lời xong, giáo viên nhận xét và kết luận
về nội dung bức hình: Bức hình cả lớp đang xem trên màn hình là ảnh chụp
“Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp". Bức ảnh
do bác sĩ quân y Trần Hạnh chụp ngày 20/12/1946. Người trong ảnh là
chiến sĩ Nguyễn Văn Thiềng, còn gọi là Trần Thành, quê ở phố hàng Vôi
(Hà Nội). Bức ảnh gốc hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng quân đội
Việt Nam. Bức ảnh phản ánh một hiện thực lịch sử sinh động về các chiến
sĩ trung đoàn Thủ đô quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Hành động quyết tử
của chiến sĩ Trần Thành mãi mãi là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước
và lòng dũng cảm cho các thế hệ thanh niên mai sau học tập”.
Như vậy, việc trình chiếu bức tranh trên mành hình lớn để hướng dẫn
học sinh quan sát, miêu tả kết hợp với câu hỏi gợi mở sẽ giúp học sinh phát
huy tính tích cực, hứng thú trong học tập. Và nếu như không dạy ứng dụng
công nghệ thông tin thì giáo viên cũng chỉ cần khai thác những nội dung

trong sách giáo khoa là đủ thì học sinh dễ cảm thấy nhàm chán và giờ học
không đạt được kết quả cao. Sau khi học sinh quan sát, suy nghĩ và trả lời,
giáo viên kết luận sẽ hình thành trong đầu các em biểu tượng rõ nét, chân
thực về hình ảnh về các chiến sĩ quyết tử quân Hà Nội trong những ngày
đầu toàn quốc kháng chiến. Nhờ đó, các em sẽ khắc sâu, nhớ lâu kiến thức
về sự kiện lịch sử này, không nhầm lẫn với các nhân vật và sự kiện lịch sử
khác.
Ví dụ 2 : Tiết 29 - Bài 24. Phần II. Bước đầu xây dựng chế độ mới.
Phần III. Giải quyết giặc đói, giặc dốt và khó khăn về tài chính.
Giáo viên chụp bức ảnh Hình 42 (Sách giáo khoa). Nhân dân góp gạo
chống giặc đói và trình chiếu trên màn hình lớn, hướng dẫn học sinh quan
sát, nhận xét về phong trào cứu đói của nhân dân ta trong những ngày đầu
sau cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Khi khai thác, giáo viên nên bổ sung kiến thức, cụ thể hoá kiến thức
bằng lời giảng hình ảnh. Bằng những câu chuyện cụ thể để tạo ấn tượng,
làm bài giảng thêm sinh động hấp dẫn: “ Hũ gạo cứu đói ", “ Ngày đồng
tâm ": Mỗi gia đình, mỗi bữa bớt khẩu phần ăn của cả nhà một nắm bỏ vào
hũ, một tháng cả nhà nhịn ăn một bữa Giáo viên kể chuyện về tấm
gương“ Nhịn ăn của chủ tịch nước" trong những ngày này để giáo dục tư
tưởng, tình cảm, đạo đức cho các em. Tất cả mọi người, tất cả mọi nhà
đều“ lập hũ gạo cứu đói", đều thực hiện“ Ngày đồng tâm" khi hũ gạo nhà
mình đầy, đem tới nơi quyên góp gạo chung của cả làng ( giáo viên vừa
giảng vừa cho học sinh trực quan vào trung tâm bức ảnh) chỗ gạo quý hiếm
chắt chiu ấy, sẽ được đưa tới nơi đói gay gắt hơn, để đồng bào có được
miếng cơm, bát cháo cho qua đi những ngày khốn khó. Đấy chính là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta: “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong
một nước phải thương nhau cùng", hay“ Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn." " Trong gian nan, khốn khó, càng
sáng bừng lên nghĩa cử “ Một nắm khi đói bằng một gói khi no"

Khi dạy về giải quyết nạn dốt. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức
ảnh trên màn hình lớn và cùng trao đổi thảo luận.

Giáo viên giải thích để học sinh hiểu: “ Bình dân học vụ" là gì? Là
học tập, là nghĩa vụ của mọi người dân – có học – có kiến thức , mới xây
dựng được chính quyền mới – xây dựng được cuộc sống mới Một lớp
bình dân học vụ ban đêm : Có trẻ, có già, có trai, có gái, đầy đủ mọi lứa
tuổi, giáo viên có thể là những cô, cậu 9,10 tuổi, học sinh có thể là những
cụ già 60,70 tuổi, đang say sưa học bài - lần đầu tiên nắn nót viết chữ “ o
tròn như quả trứng gà”, mà miệng cũng tròn, mắt cũng tròn vì ngạc nhiên
và sung sướng ánh sáng của những ngọn đèn dầu hôm nay, sẽ làm bừng
sáng tương lai của dân tộc ở ngày mai (giáo viên có thể kể thêm
chuyện :"Cổng mù" trong phong trào xoá nạn mù chữ trong những ngày
đầu tiên này…)
3.2. Sử dụng các đoạn phim tư liệu
để minh họa cho nội dung bài học
:
Có thể nói các thước phim tư liệu là nguồn tư liệu sống trong dạy
học lịch sử bởi qua những thước phim này các em biết luôn được về thời kì
quá khứ hào hùng của dân tộc. Tùy theo nội dung của bài giáo viên có thể
đưa vào những đoạn phim tư liệu, những bài hát phù hợp làm phong phú
thêm bài học, đồng thời thay đổi không khí trong một giờ học Lịch sử. Có
hai hình thức sử dụng đoạn phim tư liệu:
a. Xem phim tư liệu bổ sung kiến thức vừa học.
* Ví dụ 1: Tiết 19- Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài 1919 -
1925.
Sau khi trình bày cho học sinh các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp,
Liên Xô và sang Trung Quốc giáo viên cho học sinh xem đoạn video về
hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ khi Người quyết
định ra đi tìm đường cứu nước đến khi Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương

của Lê Nin và tìm được con đường cứu nước cho cách mạng Việt
Nam Sau khi xem xong đoạn video này học sinh sẽ bổ xung và khắc sâu
thêm kiến thức về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
*Ví dụ 2: Tiết 36- Bài 27- Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp kết thúc (1953-1954).
Sau khi dạy hết bài giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát "Giải phóng
Điện Biên", khí thế hào hùng của lời bài hát cùng những hình ảnh minh
họa trong bài hát một lần nữa khắc sâu kiến thức bài học cho học sinh, gây
tâm lí thoải mái, hứng thú trong giờ học, làm cho giờ học Lịch sử bớt nhàm
chán bởi những con số và sự kiện
b. Xem phim tư liệu rút ra những nội dung cơ bản của bài học.
* Ví dụ 1: Tiết 28 - Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự
thành lập Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa .Phần III. Giành chính
quyền trong cả nước.
Dạy tới phần nội dung của Tuyên ngôn độc lập, giáo viên dừng lại
cho học sinh xem đoạn video đọc Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí
Minh " Hỡi đồng bào cả nước, tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc, lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước
Mĩ, suy rộng ra câu ấy có ý nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1791 cũng nói: người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi
và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi, đó là những quyền lợi
không ai chối cãi được Câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh " Tôi nói
đồng bào nghe rõ không" làm cho biển người đang sôi lên dường như lắng
xuống Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ
các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam
độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên

chế dộ quân chủ cộng hòa. Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã trở thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do độc lập ấy". Sau khi học sinh xem song giáo viên có thể
hỏi ? Nội dung bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam phản ánh những vấn
đề gì? Vì học sinh vừa được xem song nên các em có thể rút ra được ngay
nội dung cơ bản của bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, nó là sự kế
thừa và tiếp nối những mặt tích cực của bản tuyên ngôn Nhân quyền và dân
quyền của Pháp, bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ để Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết lên một bản Tuyên ngôn hào hùng cho dân tộc Việt Nam, khẳng
định với thế giới quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam Hơn nữa
các em được nghe thực tế giọng của Bác Hồ đọc tuyên ngôn, các em sẽ
phấn khởi hơn hứng thú hơn khi học những phần sau và dễ khắc sâu kiến
thức của bài.
* Ví dụ 2: Tiết 31 - Bài 25- Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1946-1950). Phần I-Mục 2: Đường lối
kháng chiến chống Pháp của Đảng.
Khi dạy tới đoạn chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến nếu như trước đây dạy bình thường giáo viên chỉ khai thác nội dung
này qua đoạn kênh chữ trong sách giáo khoa Trang 104 học sinh chỉ biết
tới lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến qua giọng đọc trầm bổng của giáo
viên, nhưng có ứng dụng công nghệ thông tin giáo viên cho học sinh xem
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến bằng chính nét chữ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và lời đọc của Người, học sinh được mắt thấy tai nghe, các em sẽ
hứng thú nhiều khi học tập và cô đọng lại kiến thức của bài giảng trong học
sinh.
3.3.Xây dựng và kết hợp sử dụng tranh, ảnh, đoạn phim để minh họa cho
nội dung bài học:
Tôi sử dụng một số bức ảnh và một vài đoạn phim ngắn để minh hoạ cho Bài
24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân(1945-

1946) như sau:
3.3.1. Chèn các bức ảnh vào bài học:
a. Cách làm: Để chèn bức ảnh vào bài giảng ta cũng sử dụng một số thao tác
trên Powerpoint.
Trước hết ta cần có các bức ảnh thật hoặc một đoạn phim hoặc ảnh trang máy
ảnh kỹ thuật số.Nếu là bức ảnh bằng giấy thì ta phải sử dụng máy quét để quét nó
vào trong máy vi tính sau đó bắt đầu ta mở một Slide trên Powerpoint rồi chọn vị
trí cần chèn rồi chọn Insert trên thanh công cụ.
Chọn Picture/ From file/ chỉ ra file chứa ảnh rồi chọn bức ảnh cần chèn và nhấn
Insert. Với cách làm như trên tôi chèn 2 bức ảnh vào bài này, đó là bức ảnh ''Nạn
đói năm 1945'' và bức ảnh ''Những đồng giấy bạc đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ công hoà".
1. Sử dụng:
Hình ảnh: ''Nạn đói 1945'' hình ảnh này được sử dụng khi giáo viên dạy phần I:
Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám. Mục 1- Khó khăn.
- Khi nói tới những khó khăn mà chính quyền cách mạng gặp phải sau ngày
2/9/1945 cụ thể là về xã hội thì nạn đói cuối 1944 đầu 1945 chưa khắc phục được
thì giáo viên đưa ra hình ảnh những người bị chết đói nằm trên đường và những
thân hình gầy còm đang nằm trên đường cạnh cây cột mốc ''Thái Bình 7 km''
những hình ảnh ấy sẽ giúp HS hình dung một cách chân thực, rõ nét về nạn đói
của nước ta trong năm 1945, đồng thời cũng thấy được sự độc ác của bọn thực
dân Pháp và phát xít Nhật, dưới sự thống trị tàn bạo của chúng đã làm cho gần 2
triệu đồng bào ta bị chết đói. Hậu quả không chỉ làm cho dân số, nguồn nhân lực
nước ta bị suy giảm mà còn gây ra hậu quả lâu dài về mặt xã hội cho đất nước ta
mà chúng ta còn phải khắc phục sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Hình ảnh này
giúp HS hiểu rõ hơn những khó khăn, thử thách mà Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh phải đương đầu sau cách mạng.
Hình ảnh thứ 2 là '' Những tờ giấy bạc của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà'' đó
là 2 tờ giấy bạc 1 đồng và 10 đồng của kho bạc nhà nước. Bức ảnh này được sử
dụng khi dạy phần III mục 2. Giải quyết khó khăn về tài chính.

Khi dạy mục này GV chiếu cho HS xem hình ảnh này kết hợp với lời giảng.
- Sau phong trào '' Tuần lễ vàng'' và quỹ độc lập thì sự khó khăn về tài chính do
thiếu tiền, ngân sách trống rỗng đã được khắc phục. Trên cơ sở ấy thì chính quyền
cách mạng đã cho in giấy bạc mới và phát hành trong cả nước từ ngày 23 thàng
11 năm 1946. Đây chính là những tờ giấy bạc đầu tiên của chính quyền độc lập nó
thể hiện sự tự chủ của nhân dân ta về mặt kinh tế đồng thời cũng là một thành quả
lớn của nhân dân ta trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, thoát khỏi
ách thống trị của đế quốc, thực dân. Điều này sẽ tạo ra cho các em biểu tượng
sinh động về nền tài chính nước nhà, về chính quyền cách mạng trong thời kỳ
trứng nước.
3.3.2. Chèn đoạn phim tài liệu để minh hoạ.
Ta có thể lấy một số đoạn phim sau để minh hoạ.
Đoạn 1: Quân đồng minh kéo vào nước ta
Đoạn 2: Bầu quốc hội khoá I
Đoạn 3: Giải quyết nạn đói
Đoạn 4: Giải quyết nạn dốt
a. Cách làm:
Đầu tiên ta cần chuẩn bị phần mềm cắt phim và chuẩn bị những đoạn phim
phục vụ bài giảng
Ví dụ: Ta cần cắt đoạn phim đó từ một phim tài liệu Hồ Chí Minh - Chân
dungmột con người của hãng phim tài liệu Việt Nam.
Sử dụng phần mềm Hêrosoft 2.1 để cắt phim.
Để cắt phim ta làm như sau:
- Mở phim bằng Hêrosof 2 .1
- Chọn nút cắt ( ) sau đó dùng nút ( ) để cắt đầu đoạn phim, nút ( ) để cắt
cuối
đoạn theo đúng nội dung cần minh họa.
Ấn nút MPG để lưu phim vào một thư mục nào đó.
Sau đó ta chèn phim vào bài giảng bằng cách.
- Chọn một Slide trên Powerpoint.

- Tạo nút liên kết, có thể tuỳ chọn trong AutoShape.
- Nhấn chọn nút đó rồi nhấn chuột phải chọn Hyperlink.
-Sau đó chỉ đến thư mục chứa đoạn phim vừa lưu rồi nhấn nút OK.
Với cách làm như vậy ta lần lượt chèn được cả bốn đoạn phim vào giáo án.
b. Sử dụng để giảng dạy:
* Đoạn thứ nhất: Quân đồng minh kéo vào nước ta Khi dạy mục I nói về những
khó khăn của nước ta về chính trị đó là quân đồng minh lấy danh nghĩa giải giáp
quân đội Nhậtlúc vào nước ta, thì giáo viên cho học sinh theo dõi đoạn phim này
để các em thấy được: Ở miền Bắc nước ta có 20 vạn quân Tưởng kéo vào theo sau
chúng là bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu phá hoại cách mạng nước
ta thể hiện qua khẩu hiệu "Diệt cộng. ''cầm Hồ' của chúng. Bọn Tưởng muốn tiêu
diệt chính quyền non trẻ của chúng ta. Đây là một nguy cơ lớn đối với chính
quyền cách mạng. Ở phía Nam là hàng vạn quân Anh và núp bóng chúng là hàng
nghìn tên lính Pháp đang lăm le quay trở lại xâm lược nước ta. Đến ngày 23/9
được quân Anh tạo điều kiện thì thực dân Pháp đã chính thức nổ súng xâm lược
trở lại nước ta ở Nam Bộ.
Như vậy thực chất quân đồng minh vào nước ta là để lật đổ chính quyền cách
mạng
phục vụ mưu đồ cho bọn đế quốc, thực dân. Đây là một thách thức rất lớn mà
chính
quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt.
Sau khi theo dõi đoạn phim trên sẽ giúp các em học sinh nắm bắt nhanh và khắc
sâu kiến thức của bài học.
* Đoạn phim thứ hai ''Bầu quốc hội khoá I''
Đoạn này được sự dụng ở phần II Bước đầu xây dựng chế độ mới .
Sau khi đã giới thiệu ngày 6/1/1946 cả nước tiến hành tổng tuyển cử bầu quốc
hội khoá I giáo viên cho học sinh theo dõi đoạn phim này để thấy được không khí
nô nức của người dân khi cầm lá phiếu trên tay lần đầu tiên, thể hiện quyền tự do,
dân chủ của mình đồng thời cũng là lá phiếu của lòng yêu nước, tinh thần đoàn
kết, ủng hộ cách mạng với hơn 90% cử tri đi bỏ phiếu, bầu ra 333 đại biểu của

khắp ba miền Bắc - Trung - Nam vào quốc hội đầu tiên của nhân dân ta - biểu
tượng của khối đoàn kết toàn dân tộc. Sau đó đến ngày 02/3/1946 Quốc hội họp
phiên đầu tiên thông qua danh sách Chính phủ và lập ban soạn thảo Hiến pháp. .
Đoạn phim này sẽ tạo cho các em biểu tượng chân thực về chính quyền cách
mạng và sự thông minh, khôn khéo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Đoạn thứ ba: Phong trào giải quyết nạn đói
Đoạn này được sử dụng khi dạy Phần II mục 2 giải quyết nạn đói Đoạn phim
sẽ cho các em thấy nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi ''Nhường cơm sẻ áo'' và ''Hũ
gạo cứu đói'' của chủ tịch Hồ Chí Minh một cách sôi nổi, nhiệt tình thể hiện sự
đoàn kết, đồng lòng của nhân dân ta cùng nhau đùm bọc qua những ngày khốn
khó với tinh thần tương thân, tương ái đồng bào ta đã chia sẻ từng nắm gạo giúp
đồng bào vượt qua cơn hoạn nạn. Khi xem đoạn phim này sẽ giúp các em được
hoà mình sống cùng với toàn dân tộc trong những ngày khó khăn và cảm nhận
được sự ấm áp của lòng nhân ái, sự phấn khởi tin tưởng của toàn dân tộc vào sự
lãnh đạo của Đảng, của chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Đoạn phim thứ 4 ''Giải quyết nạn dốt'' nói về một lớp bình dân học vụ và
phong trào học tập của nhân dân ta trong những năm 1945 - 1946. Đoạn này được
sử dụng khi dạy Phần III mục : Khó khăn về kinh tế.
Khi dạy mục này sau khi giới thiệu sự kiện ngày 8/9/1945 chủ tịch Hồ Chí
Minh ra sắc lệnh thành lập như Bình dân học vụ và kêu gọi xoá nạn mù chữ. Giáo
viên cho HS xem đoạn phim này để các em thấy sự hưởng ứng nồng nhiệt của
nhân dân thông qua việc có hàng vạn người tham gia cổ vũ rầm rộ cho phong trào
diệt giặc dốt. Đồng thời mọi tầng lớp nhân dân từ các cụ già cao tuổi đến các em
chăn trâu tích cực tham gia học tập để biết chữ thậm chí có các bà mẹ người dân
tộc thiểu số còn địu cả con nhỏ đến lớp học. Tiếng đánh vần i tờ từng chữ cái của
những học viên lớp Bình dân học vụ cho ta thấy niềm xúc động, sự náo nức của
một thời kì lịch sử của dân tộc trong những ngày đầu mới giành độc lập.
Một lần nữa đoạn phim này sẽ tạo cho các em ấn tượng sâu đậm về bối cảnh
đất nước trong những năm 1945 - 1946. Qua đó giúp các em thêm phấn khởi, tin
tưởng vào công cuộc kháng chiến của nhân dân ta đồng thời ra sức học tập để noi

gương thế hệ cha anh đi trước.
Tóm lại việc ứng dụng công nghệ thông tin có rất nhiều cách khác nhau và
đem lại nhiều tiện ích trong quá trình dạy học. Trên đây là một vài kinh nghiệm,
thực tế giảng dạy của bản thân đã đem lại kết quả tích cực trong quá trình dạy học
3.4. Xây dựng và sử dụng lược đồ để khai thác nội dung bài học

Ưu thế của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử là bằng
các hiệu ứng giáo viên có thể làm cho học sinh thấy được sự sinh động trong
diễn biến các trận đánh và thấy được sự quyết liệt trong mỗi sự kiện Một
bản đồ động sẽ hứng thú hơn nhiều so với bản đồ tĩnh, tuy nhiên việc thiết kế
một bản đồ điện tử là một vấn đề rất khó làm đối với giáo viên.
Phương pháp
này có thể áp dụng cho rất nhiều bài trong chương trình của bộ môn Lịch sử đặc
biệt là các bài có diễn biến của phong trào cách mạng, các trận đánh lớn. tôi xin
nêu ra một trường hợp ứng dụng cụ thể đó là:
Để dạy Bài 19: Phong trào cách mạng trong những năm 1930 - 1935. tôi
sử dụng bản đồ động để mô tả minh hoạ cho phong trào cách mạng Xô Viết Nghệ
Tĩnh và sơ đồ điện tử để củng cố bài học. Tôi xin giới thiệu cách làm và sử dụng
bản đồ động và sơ đồ điện tử trong bài.
3.4.1. Xây dựng và sử dụng bản đồ động
a. Xây dựng: Để xây dựng và sử dụng bản đồ động thì cần có một bản đồ trên
giấy của phong trào hoặc là bản đồ điện tử có sẵn. Ở đây tôi sử dụng bản đồ trong
sgk (trang 92).
Bước 1: Trước hết ta dùng một máy quét nối với máy tính để quét bản đồ vào
trong máy tính. Sau đó dùng các kỹ thuật vẽ trong Powerpoint để chỉnh sửa bản
đồ theo nhu cầu, mục đích sử dụng (có thể phóng to, thu nhỏ hoặc cắt bớt một số
phần).
Bước 2: Vẽ các ký hiệu trên bản đồ.
- Công việc này nhằm tạo ra các ký hiệu, cho xuất hiện theo ý đồ định sẵn phù
hợp với diễn biến của phong trào theo đúng trình tự.

- Để vẽ các ký hiệu này ta vào Powepoint/AutoShaper rồi chọn các ký hiệu phù
hợp. Ở đây tôi chèn hình ngôi sao n cánh để mô tả căn cứ cách mạng tại Thanh
Chương và chọn hình ngôi sao màu vàng. Chèn hình đốm lửa để mô tả những địa
điểm lan rộng của phong trào, chọn nền màu xanh.
Hình búa liềm, màu vàng để mô tả những nơi giành được chính quyền.
+ Hình lá cờ để biểu thị những nơi có công nhân hưởng ứng phong trào.
Sau khi đã vẽ xong các ký hiệu theo đúng ý đồ thì ta đặt hiệu ứng xuất hiện theo
trình tự diễn biến của phong trào.
- Cách đặt hiệu ứng như sau:
+ Chọn ký hiệu cần đặt hiệu ứng ví dụ ngôi sao.
+ Ta chọn ngôi sao sau đó nháy chuột vào Slide show
+ Chọn Custom Animation …
+ Chọn Add Effect/Entrance.
Sau đó tuỳ chọn kiểu xuất hiện đối với ngôi sao là căn cứ khởi nghĩa Thanh
Chương thì ta nên chọn hiệu ứng nhấp nháy to dần. Các ký hiệu còn lại ta đặt hiệu
ứng theo cách tương tự như vậy sao cho các hiệu ứng của các ký hiệu xuất hiện
theo đúng trình tự diễn biến của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
b. Sử dụng: Sử dụng bản đồ động để minh họa cho mục II phong trào cách
mạng 1930 - 1931.
Khi dạy đến phong trào cách mạng ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh trong
tháng 9 /1930 thì giáo viên tường thuật diễn biến phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
cùng với việc minh họa bằng bản đồ trên máy.
Đầu tiên phong trào xuất hiện ở Thanh Chương. Giáo viên nháy chuột thì ngôi sao
nhấp nháy lớn dần ở Thanh Chương biểu thị cho sự bùng nổ của phong trào.
Sau đó phong trào nhanh chóng lan rộng ra các địa phương khác nhau như
Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn, Hưng Nguyên … Cùng với những
lời giảng ấy thì trên bản đồ sẽ lần lượt xuất hiện các đốm lửa biểu thị sự lan rộng
của phong trào ra các địa phương ở Nghệ An và Hà Tĩnh.Trong đó tiêu biểu nhất
là cuộc biểu tình của 8.000 nông dân huyện Thanh Chương với khẩu hiệu "đả đảo
đế quốc"

đả đảo Nam triều". Phong trào này còn nhận được sự hưởng ứng của công nhân ở
Vinh, bến Thuỷ. Đến đây giáo viên cho xuất hiện hai lá cờ đỏ tại hai địa điểm ấy
để cho thấy tinh thần đoàn kết của giai cấp công nhân.
Với quy mô to lớn, tính chất quyết liệt thì phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã
phá vỡ được hệ thống chính quyền địch ở địa phương nhiều nơi. Đến đây giáo
viên cho nháy chuột để biểu tượng búa liềm hiện ra tại những nơi giành được
chính quyền như Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc … đồng thời giáo viên giải
thích đó là chính quyền của cấp uỷ đảng ở thôn xã lãnh đạo nhân dân tự quản lý,
chăm lo đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa của chính quyền nên gọi là Xô Viết.
Việc sử dụng bản đồ động trong bài này cũng như các bài khác có nội dung
liên quan đến diễn biến các phong trào sẽ góp phần tăng tính trực quan, sinh động
giúp cho các em có thể nhận thức lịch sử một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn,
sâu sắc hơn.
Tương tự khi dạy Tiết 36 - Bài 27 – Cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp xâm lược kết thúc(1953-1954). MụcII. 2: Chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ (1954).
Giáo viên hỏi học sinh: “Vì sao Pháp – Mĩ lại chọn Điện Biên Phủ để xây
dựng tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương? Sự hùng mạnh của tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được biểu hiện như thế nào?” , giáo viên
trình chiếu cho các em quan sát lược đồ khắc họa về địa thế của Điện Biên
Phủ, về sự gấp rút xây dựng lực lượng cơ động mạnh của quân Pháp ở đây,
… kết hợp với phương pháp trao đổi, đàm thoại, nêu vấn đề,… Lược đồ
được xây dựng với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, có hiệu ứng sinh
động, kèm theo hình ảnh và đoạn phim tư liệu miêu tả về cứ điểm, nên học
sinh cảm nhận được các sự kiện lịch sử sâu sắc. Phương pháp tổ chức cho
học sinh tìm hiểu bài như trên sẽ giúp các em hiểu rằng, trước những đòn
tiến công quyết liệt của quân dân ta, Nava đã quyết định xây dựng Điện
Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm hùng mạnh, chấp nhận giao chiến với ta.
Điều này xuất phát từ nhận định: Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng
lớn, bao quanh toàn là đồi núi trùng điệp, nhưng lại là “chìa khóa” để bảo

vệ Thượng Lào và chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc Việt Nam. Đối với
Việt Minh, nơi đây quá xa hậu phương, địa hình rừng núi hiểm trở nên tiếp
tế sẽ khó khăn; lúc này ta chỉ có thể sử dụng lực lượng khoảng 1 đại đoàn,
lại không thể sử dụng pháo cỡ lớn được, cùng lắm là pháo 75mm; ngoài ra,
nếu chẳng may thất bại, Pháp sẽ dễ dàng mở một con đường tháo chạy
sang Lào… Từ nhận định này, được sự giúp đỡ của Mĩ, Pháp đã xây dựng
Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm hùng mạnh với 49 cứ điểm,
chia làm 3 phân khu lớn là phân khu Bắc, phân khu Trung tâm và phân khu
Mường Thanh. Với số quân tinh nhuệ là 16.200 tên, lại được trang bị
những loại vũ khí hiện đại nhất, nên cả Pháp và Mĩ đều nhận định: Điện
Biên Phủ là một “pháo đài bất khả xâm phạm”.


Trên cơ sở hiểu rõ lí do vì sao Pháp – Mĩ lại chọn Điện Biên Phủ để
xây dựng tập đoàn cứ điểm hùng mạnh và biểu hiện về sự hùng mạnh của
nó, học sinh cũng hình thành được khái niệm, thuật ngữ mới: Cứ điểm
Điện Biên Phủ là gì? Khi dạy tới phần diễn biến của chiến dịch qua từng
đợt với các phương tiện kỹ thuật hiệu ứng hỗ trợ giáo viên có thể cho học
Sơ đồ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ 1954

×