Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Chiến lược phát triển thị trường của công ty liên doanh chế tạo xe máy lifan việt nam, với tình huống nghiên cứu tại chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.59 KB, 68 trang )











TIỂU LUẬN:

Chiến lược phát triển thị trường của
công ty liên doanh chế tạo xe máy
Lifan Việt Nam, với tình huống nghiên
cứu tại chi nhánh Hà Nội







LỜI MỞ ĐẦU

Cũng giống như các nhu cầu thiết yếu khác như ăn, mặc, ở thì một nhu cầu khác
cũng không thể thiếu được đối với con người trong cuộc sống hiện đại ngày nay đó là
phương tiện đi lại hay chính là phương tiện giao thông. Để đáp ứng được nhu cầu đó
của người dân thì hàng loạt các phương tiện giao thông đã được nghiên cứu, sản xuất
và đưa vào sử dụng như ô tô, xe máy, xe đạp điện,
Nếu như ở Việt Nam khoảng 2 thập niên trước đây, xe máy mang tính thiểu số,


được vị nể với tư cách là một sản phẩm tân kỳ, một tài sản lớn hơn là một phương
tiện giao thông chính của đại đa số người dân thì hiện nay, có những hộ gia đình có
1,2 thậm chí có đến 3,4 chiếc xe máy trong nhà. Xe máy trở thành một phương tiện
giao thông thông dụng nhất, chiếm tỉ lệ khoảng 63.2% tổng các phương tiện giao
thông, trong đó ở riêng thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã đạt tỷ lệ bình quân là 2
người có 1 xe máy, còn một số tỉnh khác như Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình
Dương,… là 3 người một xe máy, còn các địa phương khác là 6 người một xe máy
(Nguồn: website của Bộ giao thông vận tải ).
Nhận biết được nhu cầu khổng lồ xe máy như vậy nên trong thời gian qua đã có
nhiều nhà cung cấp trên thị trường Việt Nam, các hãng xe máy nổi tiếng thế giới như
Honda, Yamaha, Suzuki, SYM, đã tiến hành liên doanh với Việt Nam để sản xuất
và cung cấp cho người tiêu dùng Việt Nam. Thêm vào đó, khoảng 10 năm trở lại đây,
thị trường xe máy đã đa dạng nay còn đa dạng hơn bởi những chiếc xe máy Trung
Quốc nhập khẩu cũng như được sản xuất ồ ạt tại Việt Nam. Những chiếc xe này với
ưu thế là giá rẻ, chủng loại phong phú đã thực sự phù hợp với người tiêu dùng Việt
Nam có nhu cầu sử dụng xe máy song thu nhập thấp hoặc có nhu cầu muốn đổi mới
kiểu dáng xe nhưng không có đủ tiền,
Công ty liên doanh chế tạo xe máy Lifan Việt Nam là một trong những doanh
nghiệp liên doanh điển hình về sự đầu tư của tập đoàn Lifan Trung Quốc nhằm phát
triển thị trường xe máy Trung Quốc tại Việt Nam. Để tìm hiểu hơn về việc làm thế
nào mà Công ty này xâm nhập và phát triển ở thị trường Việt Nam, em xin chọn đề

tài “ Chiến lược phát triển thị trường của công ty liên doanh chế tạo xe máy
Lifan Việt Nam, với tình huống nghiên cứu tại chi nhánh Hà Nội “
Đề tài được chia làm 3 phần chính:
Chương 1: Sơ lược về Công ty liên doanh chế tạo xe máy Lifan Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng chiến lược phát triển thị trường của Công ty liên doanh
chế tạo xe máy Lifan Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược phát triển thị trường
của Công ty liên doanh chế tạo xe máy Lifan Việt Nam.


CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY LIÊN DOANH CHẾ TẠO XE MÁY
LIFAN VIỆT NAM

1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty liên doanh chế tạo xe máy
Lifan Việt Nam
Tên đầy đủ : CÔNG TY LIÊN DOANH CHẾ TẠO XE MÁY LIFAN
VIỆT NAM
Tên gọi tắt : Công ty LIFAN - VIỆT NAM
Tên tiếng anh : LIFAN - VIET NAM Motor. Co. Ltd
Địa chỉ : Xã Nghĩa Hiệp - huyện Yên Mỹ - tỉnh Hưng Yên
Tiền thân của Công ty Lifan Việt Nam là Công ty Vina - Hua Wei, được thành
lâp từ năm 1998 theo giấy phép đầu tư Số 20/GP-HN ngày 15/04/1988 do UBND
thành phố Hà nội cấp phép, nhằm thực hiện hợp đồng liên doanh chế tạo xe máy tại
Việt Nam, giữa Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư VIEXIM của Việt Nam và Công ty
TNHH sản xuất xe cơ giới Huawei, Trùng Khánh - Trung Quốc, thời hạn hoạt động
của công ty liên doanh là 30 năm, tổng số vốn đầu tư là 4.700.000 USD, vốn pháp
định là 1.570.000 USD (trong đó bên Trung Quốc góp vốn 70%, bên Việt Nam góp
vốn 30%).
Ngày 28/06/2000 UBND thành phố Hà Nội cấp giấy phép đầu tư sửa đổi số
20A/GPC2-HN cho phép chuyển đổi từ hợp đồng liên doanh thành Công ty liên
doanh chế tạo xe máy Vina-Huawei có trụ sở tại nhà máy xe lửa Gia Lâm - thị trấn
Gia Lâm - Thành phố Hà Nội.
Ngày 18/01/2002, UBND thành phố Hà Nội đã cấp giấy phép đầu tư sửa đổi số
20A/GPĐTC2-HN cho phép chuyển nhượng phần vốn của đối tác phía Trung Quốc
là Công ty TNHH sản xuất xe cơ giới Huawei Trùng Khánh cho công ty TNHH công
nghiệp HONGDA- Lifan Trùng Khánh và chuyển tên Công ty từ Công ty Liên doanh
chế tạo xe máy Vina-Huawei thành Công ty liên doanh chế tạo xe máy Lifan Việt
Nam (Lifan - Việt Nam Motor co.Ltd)


Ngày 21/06/2002, UBND tỉnh Hưng yên cấp giấy phép đầu tư sửa đổi
20A/GPĐC2-HN- GPĐC2-HY về việc chuẩn y chuyển địa điểm của Công ty từ Nhà
máy xe lửa Gia Lâm - Hà Nội về xã Nghĩa Hiệp - huyện Yên Mỹ - tỉnh Hưng Yên.
Ngày 04/04/2003, UBND tỉnh Hưng Yên cấp giấy phép đầu tư sửa đổi số
20A/GPĐC2-HN-GPĐC2-HY về việc tổng hợp lại tất cả các Giấy phép đã cấp.
Ngày 23/01/2006, UBND tỉnh Hưng Yên cấp Giấy phép đầu tư sửa đổi
20A/GPĐC2-HN-GPĐC2-HY phê chuẩn việc Công ty phát triển xuất nhập khẩu và
đầu tư VIEXIM chuyển nhượng 30% quyền lợi và nghĩa vụ trong Công ty Liên
doanh cho Công ty TNHH xây dựng Hoàng Hiệp.
Hiện nay Công ty liên doanh chế tạo xe máy Lifan Việt Nam là Công ty liên
doanh giữa: Công ty tập đoàn Công nghiệp Lifan Trung Quốc và Công ty TNHH
xây dựng Hoàng Hiệp.
Để đảm bảo chất lượng tốt nhất cho những sản phẩm Lifan sản xuất tại Việt
Nam, Tập đoàn Lifan Trùng Khánh đã mời một số doanh nghiệp chuyên sản xuất
linh phụ kiện xe máy và động cơ quan trọng sang Việt Nam đầu tư xây dựng nhà
xưởng, đến nay đã thành lập được 7 công ty liên doanh và 1 công ty chuyên cung cấp
linh kiện, đó là Công ty Lifan - Tongsheng, Công ty Lifan - Xingyong, Công ty Lifan
- Jili, Công ty Lifan - Zhicheng, Công ty Lifan - Zhuoli, Công ty Lifan - Chuanyu
Jinggong, Công ty Cơ khí Hưng Yên và Công ty TNHH Động lực Hưng Yên. Như
vậy, tại Hưng Yên đã xây dựng được một khu công nghiệp Lifan với 9 công ty, diện
tích mặt bằng 70.000 m
2
, diện tích xây dựng 40.000 m
2
, tổng số vốn đầu tư hơn 20
triệu đô la Mỹ, tổng số cán bộ nhân viên hơn 2000 người, có khả năng sản xuất, lắp
ráp xe máy, động cơ xe máy nguyên chiếc và các linh kiện quan trọng khác, có thực
lực về kinh tế và kỹ thuật nhất định.
Tuy thành lập là không dài, nhưng với sự lãnh đạo sáng suốt của Ban giám đốc,
cùng với sự nỗ lực cống hiến của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, công

ty Lifan Việt Nam đang ngày một bước những bước tiến vững chắc và khẳng định
sản phẩm cũng như thương hiệu của mình trên thị trường. Đến tháng 3 năm 2005,
Công ty chính thức thành lập Chi nhánh Miền Bắc tại 68 Tây Sơn – Đống Đa – Hà

Nội. Chi nhánh này thực sự đã trở thành bộ mặt của công ty, là nơi kinh doanh và
giao dịch làm ăn giữa công ty với các đối tác ở Hà Nội và các địa phương lân cận.


1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Lifan Việt Nam
1.2.1 Chức năng
Công ty liên doanh chế tạo xe máy Lifan có chức năng chính là sản xuất và kinh
doanh các loại xe máy, ô tô và các linh kiện máy móc phục vụ cho tiêu dùng trong
nước và đôi khi cả xuất khẩu. Phạm vi hoạt động kinh doanh của công ty là :
- Nhập khẩu: Vật tư, nguyên nhiên liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất
các sản phẩm máy móc, ô tô, xe máy,
- Sản xuất kinh doanh các loại ô tô, xe máy và các linh kiện máy móc mang
nhãn hiệu Lifan.
Là một doanh nghiệp liên doanh có giấy phép liên doanh, được mở tài khoản
riêng trong ngân hàng và trong các hoạt động kinh tế của công ty, công ty phải chịu
mọi trách nhiệm vật chất và pháp luật về các cam kết của mình đối với mọi tổ chức
và các cá nhân theo hợp đồng kinh tế.
1.2.2 Nhiệm vụ
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh theo đúng ngành nghề
được ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Tổ chức nghiên cứu sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cho phù hợp với thị
trường.
- Thực hiện việc chăm lo và không ngừng cải thiện điều kiện làm việc, đời sống
vật chất tinh thần, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên ôn nghiệp vụ cho người lao
động.

- Tuân thủ các quy định của Nhà Nước về bảo vệ công ty, bảo vệ môi trường,
bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh của đất nước, trật tự và an toàn
xã hội.

1.2.3 Với chi nhánh Hà Nội
Ngoài các chức năng và nhiệm vụ của cả Công ty, Chi nhánh Lifan ở Hà Nội là
một trong hai nhà đại diện lớn nhất của Lifan Việt Nam, được coi là bộ mặt của Lifan
Việt Nam còn có những chức năng và nhiệm vụ riêng biệt nữa. Hiện nay, chức năng
chủ yếu của Chi nhánh Công ty là buôn bán và là nhà phân phối các loại xe máy
nguyên chiếc, linh kiện xe máy do Công ty Lifan sản xuất. Thị trường mà Chi nhánh
cung cấp chủ yếu là trên địa bàn Hà Nội và một số tỉnh lân cận. Mặt khác, Chi nhánh
công ty cũng không ngừng nghiên cứu, nắm bắt kịp các nhu cầu mới nảy sinh trên thị
trường và tìm mọi cách thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu đó.
Đi đôi với chức năng như vậy là một số nhiệm vụ sau:
- Xây dựng các phương án kinh doanh, phát triển kế hoạch và mục tiêu chiến
lược của công ty và kiến nghị đề xuất khó khăn vướng mắc trong hoạt động sản xuất
kinh doanh với công ty.
- Nghiên cứu nhu cầu phát triển và tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước để
môi giới tổ chức cho các đơn vị sản xuất, tiếp nhận các đơn đặt hàng.
- Chi nhánh công ty phải tuân thủ luật pháp, quản lý tài chính, quản lý xuất nhập
khẩu và thực hiện tốt các hợp đồng ngoại thương.
- Chi nhánh công ty có trách nhiệm tuân thủ theo các chương trình và điều luật
của trụ sở chính của công ty tại Hưng Yên.
1.3 Cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của Công ty Lifan Việt Nam và chi
nhánh Hà Nội
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty liên doanh chế tạo xe máy Lifan Việt Nam
được biểu diễn qua sơ đồ 1 với một số chức năng quyền hạn của bộ máy đứng đầu
như sau:
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
Sơ đồ 1: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ TẠI CÔNG TY CHẾ TẠO XE MÁY LIFAN - VIỆT NAM



















T
ỔNG GIÁM
Đ
ỐC

PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC THỨ
NHẤT
TRỢ LÝ TỔNG GIÁM
§ỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
THỨ HAI
Phòng

hành
chính

Phòng
kế
toán

Phòng
tiêu thụ

Phòng
kỹ
thuật

KCS

Phòng
Cung
ứng

Phòng
Sản xuất


Phòng
kho vật


Xưởng
1


Xưởng
2

Phòng
bảo vệ






































Ch
i
nhánh -
VP đại
diện
Miền Bắc
Chi nhánh
-

VP đại diện
Miền Nam
Kho
trung
chuyển
Tiền
Giang
Kho

Xưởng
1
Kho
xưởng
2
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B

(Nguồn: Phòng nhân sự chi nhánh Hà nội của công ty)
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
*Trách nhiệm và quyền hạn của Tổng giám đốc công ty:
- Tổng giám đốc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và chịu
trách nhiệm trước các thành viên sáng lập về việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn
được giao.
- Tổng giám đốc là chủ tài khoản của Công ty và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc chấp hành các qui định của luật Công ty .
- Thay mặt công ty để ký kết các hợp đồng kinh tế và văn bản giao dịch theo
phương hướng và kế hoạch của công ty, đồng thời chịu trách nhiệm tổ chức thực
hiện các văn bản đó.
- Tổ chức thu thập, xử lý thông tin giúp Công ty trong việc xây dựng khách kế
hoạch hàng năm.
- Đảm bảo an ninh trật tự và an toàn lao động trong toàn Công ty, cũng như
việc đưa cán bộ công nhân viên đi phục vụ bên ngoài.
- Tổng giám đốc được quyền tuyển dụng hoặc cho thôi việc người làm công
không đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh, có quyền buộc thôi việc người làm
công vi phạm nội qui, vi phạm qui chế hoạt động của Công ty .
- Tổng giám đốc có quyền quyết định việc bổ nhiệm, khen thưởng và bãi miễn,
kỷ luật nhân viên giúp việc sau khi tham khảo ý kiến của các thành viên sáng lập
Công ty.
- Xem xét việc tham gia hoặc rút lui của các thành viên sau khi bàn bạc với các
thành viên sáng lập Công ty .

*Trách nhiệm và quyền hạn của các Phó Tổng giám đốc:
Giúp việc cho Tổng giám đốc có hai Phó tổng giám đốc, được Tổng giám đốc
phân công phụ trách các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và Trợ lý Tổng Giám đốc do
Tổng Giám đốc bổ nhiệm. Khi vắng mặt Tổng giám đốc uỷ quyền cho Phó tổng
giám đốc điều hành công việc. Trực tiếp ký các chứng từ - hoá đơn liên quan đến
các lĩnh vực được phân công sau khi được giám đốc phê duyệt.
Ngoài việc được uỷ quyền chịu trách nhiệm cá nhân trước Tổng giám đốc và
trước Pháp luật Nhà nước về phạm vi công việc. Các Phó Tổng giám đốc có trách
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
nhiệm báo cáo lại cho Tổng giám đốc những công việc để giải quyết khi giám đốc
đi vắng.

*Trách nhiệm và quyền hạn của kế toán trưởng:
Kế toán trưởng là người giúp việc cho Tổng giám đốc về việc thực hiện công
tác tài chính, kế toán của công ty, chịu trách nhiệm về việc mở số sách theo đúng
pháp lệnh thống kê, kế toán. Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám
đốc và giúp Tổng giám đốc chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán và báo cáo
kết quả hoạt động của công ty theo quy định của Nhà nước.
Kế toán trưởng chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc, tổng hợp các số liệu về
hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng quý báo cáo phân tích hoạt động kinh tế trong
công ty từng tháng, từng quý, lên được bản nhu cầu về tài chính để giám đốc xử lý.
Được quyền kiểm tra giá cả các loại hàng hoá, vật tư, nguyên liệu mua về.
Được tham dự các cuộc họp của lãnh đạo bàn về công tác sản xuất kinh doanh, công
tác kế toán tài chính, thi đua, khen thưởng.
Dưới quyền kế toán trưởng còn có 10 kế toán viên chuyên phụ trách về việc
ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh doanh hàng ngày, chịu trách nhiệm về tính
chính xác, chân thực của các số liệu hàng ngày.
* Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của các đơn vị phòng ban trong công ty.
- Phòng hành chính: có nhiệmvụ tập hợp, lưu trữ, quản lý, chuyển thông tin,
văn bản pháp lý hành chính trong và ngoài công ty, truyền đạt ý kiến, chỉ thị của

ban giám đốc xuông các cá nhân đơn vị, chủ trì tổ chức, điều hành, thực hiện các
hội nghị.
- Phòng kế hoạch có nhiệm vụ lập kế hoạch tài chính hàng năm; thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nước trong việc khai báo, nộp thuế, thực hiện các giao dịch
thanh toán đúng hạn các khoản vay, thu hồi vốn; kịp thời báo cáo với Tổng giám
đốc về việc hay động sử dụng vốn, khai thác nguồn vốn, ghi chép phản ánh đúng về
các hoạt động tài chính.
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
- Phòng kỹ thuật và KCS là nơi nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm mới, công
nghệ tự động hoá nhằm áp dụng cho công ty nâng cao chất lượng sản phẩm cũng
như giải pháp ứng dụng vao sản xuất, tham mưu cho Tổng giám đốc nhập hoặc mua
mới dây chuyền sản xuất sao cho có hiệu quả nhất.
- Phòng tiêu thụ có chức năng quản lý việc tiêu thụ tại các Chi nhánh, quản lý
về giao dịch thương mại, triển khai và thực hiện chương trình Marketing, nghiên
cứu thu thập, tổng hợp thông tin, chính sách, văn bản pháp quy trong và ngoài nước
để tạo dựng các mối quan hệ kinh doanh trứơc mắt và lâu dài gắn với chiến lược
phát triển của công ty. Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn và dài hạn,
nghiên cứu nhu cầu của thị trường để nắm bắt, tham mưu định hướng cho công ty.
Lập và theo dõi, đôn đốc giải quyết vướng mắc, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục
khi thực hiện hợp đồng và giao nhận vật tư hoặc hàng hoà hay bán thành phẩm khi
xuất hiện vào công ty. Ngoài ra còn thực hiện các hợp đồng trực tiếp hoặc uỷ thác
vật tư, thiết bị hàng hoá,… phục vụ cho công việc sản xuất kinh doanh theo chỉ đạo
của Tổng giám đốc, là đơn vị trực tiếp triển khai các nội dung của chiến lược kinh
doanh, đặc biệt là chiến lược phát triển thị trường của công ty.
* Chức năng nhiệm vụ của các xưởng, phân xưởng sản xuất.
Giám đốc xưởng, quản đốc phân xưởng là những người trực tiếp chịu trách
nhiệm về mặt quản lý, tổ chức điều hành, sử dụng các tiềm năng lao động thiết bị
nguồn lực khác sao cho đảm bảo số lượng, chất lượng kịp thời và đúng tiến độ, có
nhiệm vụ hợp tác chặt chẽ với các đơn vị có liên quan để đảm bảo hoàn thành
nhiệmvụ được giao đúng kế hoạch, đúng kỹ thuật, nâng cao hiệu suất lao động.

Riêng với Chi nhánh Hà Nội của công ty, bộ máy quản lý và điều hành Chi
nhánh công ty là nơi điều hành quản lý hoạt động của Chi nhánh công ty, xây dựng
kế hoạch, cân đối tài chính, xây dựng các cơ chế quản lý tài chính trên cơ sở ra
quyết định phương án kinh doanh tối ưu. Bộ máy quản lý của Chi nhánh công ty có:
Giám đốc Chi nhánh, Phó giám đốc Chi nhánh, Kế toán trưởng và các trưởng
phòng, các nhân viên của Chi nhánh, các cộng tác viên.
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
Tuy có sự phân công về chức năng cũng như nhiệmvụ của mỗi phòng ban,
phân xưởng của cả Công ty và các Chi nhánh là khác nhau và được quy định rõ ràng
về phạm vi, nhưng khi tiến hành công việc thì lại có sự liên kết chặt chẽ và được
thể hiện rõ trong sơ đồ kinh doanh của công ty. Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên
nền tảng phát triển của công ty trong thời gian qua.
1.4 Các mặt hàng kinh doanh
Sản phẩm chủ yếu của Công ty Lifan Việt Nam là xe máy và động cơ xe máy,
sản lượng đăng kí là 200.000 xe máy/năm, 700.000 động cơ xe máy/năm. Dự án
đầu tư này đã trình Chính phủ Việt Nam tháng 10 năm 2001, đến ngày 18/01/2002
được UBND thành phố Hà Nội cấp giấy phép đầu tư số 20A/GPĐC2/HN, ngày
18/07/2002 được Bộ Mậu dịch đối ngoại Trung Quốc cấp "Giấy chứng nhận phê
chuẩn gia công lắp ráp ở nước ngoài" số 54 (2002). Ngoài sản phẩm chính là xe
máy ra, công ty còn sản xuất một số sản phẩm khác như ô tô, một số sản phẩm máy
móc gia dụng như quạt điện, máy bơm, đã và đang được tiêu thụ rất tốt không chỉ
ở thị trường Việt Nam mà còn ở các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Tuy
nhiên, do hạn chế của đề tài, em chỉ xin được nghiên cứu vấn đề phát triển thị
trường của mặt hàng xe máy.
Một số sản phẩm xe máy chính thường được người tiêu dùng biết đến là:
LIFAN 250-B, LIFAN R, LIFAN REVO, LIFAN 110-8F, LIFAN V, hay các loại
động cơ xe máy: Động cơ VLF1P52QMI , động cơ MẮT THẦN, động cơ PHL…
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CỦA CÔNG TY LIÊN DOANH CHẾ TẠO XE MÁY LIFAN VIỆT

NAM

2.1 Tiềm năng phát triển thị trường của Công ty Lifan Việt Nam, thuận lợi và
khó khăn
2.1.1 Thuận lợi
2.1.1.1 Nhu cầu thị trường tăng cao
Trong những năm gần đây, việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh
tế quốc tế khu vực và kinh tế thế giới đã làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển và
đạt được những thành tựu đáng kể. Sự phát triển đó đã ảnh hưởng trực tiếp tích cực
đến đời sống của người dân, cụ thể là chất lượng đời sống được từng bước cải thiện
và nâng cao rõ rệt. Đời sống người dân ngày một tăng cao và sự di cư của một đại
bộ phận lớn dân cư ra các thành phố lớn đã đẩy mạnh nhu cầu tiêu dùng phương
tiện vận chuyển phục vụ cho các mục đích sinh sống và làm việc, các loại phương
tiện giao thông phong phú được ra đời, trong đó xe máy được coi là phương tiện
thông dụng nhất nhờ giá thành và tính năng cơ động của nó. Theo số liệu từ tổng
cục thống kê, tính đến 0h ngày 1/4/2009, tổng số dân của Việt Nam là 85.789.573
người, hiện Việt Nam là nước đông dân thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á và đứng thứ
13 trong tốp các nước đông dân nhất trên thế giới (nguồn: ). Điều
đó chứng tỏ, thị trường Việt Nam chính là một thị trường tiểm năng và đã tạo ra
một cơ hội rất lớn cho các công ty sản xuất và liên doanh xe máy, trong đó có Lifan
Việt Nam.
Một lý do đáng kể để việc phát triển thị trường xe máy ở Việt Nam vẫn còn
thu hút các nhà đầu tư nữa là, do cơ sở hạ tầng giao thông công cộng chưa phát triển
hoàn và hệ thống đường sá chưa thuận lợi cho di chuyển bằng ô tô, nên xe máy đặc
biệt phổ biến tại Việt Nam. Thị trường xe máy vẫn làm ăn rất phát đạt với mức tăng
trưởng sản lượng đầy ấn tượng. Vụ Kinh tế công nghiệp (Bộ Công Thương) vừa
cho biết, giá trị sản xuất công nghiệp xe máy trong nước đã đạt mức tăng trưởng
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
mạnh trong quý 1/2010. Cụ thể, ước tính trong 3 tháng đầu năm đã 882.000 xe máy
được lắp ráp và sản xuất tăng trưởng 40,4% so với cùng kỳ năm 2009. ( nguồn:

website của thời báo kinh tế Việt Nam ngày 27/3/2010. Số
lượng xe máy được tiêu thụ tại các thành phố lớn cũng có mức tăng cao. Theo thống
kê của Bộ Công thương, lượng xe máy lưu hành tại 20 tỉnh, thành phố lớn và đông
dân cư như TPHCM, Hà Nội, Nghệ An, Thanh Hóa, An Giang, Bình Dương, Đồng
Nai…đã chiếm tới 2/3 lượng xe máy lưu hành trên cả nước. Phó vụ trưởng Vụ
Công nghiệp nặng (Bộ Công thương) cũng cho hay, đến năm 2020, xe máy vẫn là
sản phẩm tiêu dùng quan trọng trong đời sống của đa số người dân (nguồn: website
của Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam ).
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, cả nước hiện có khoảng 17 triệu xe máy
đang lưu hành ( ). Đây quả là một con số đầy bất ngờ, bởi
theo thống kê thì vào năm 2000, lượng xe máy được đăng ký trong cả nước chỉ có
6,478 triệu chiếc. Thực tế này chứng tỏ, thị trường xe máy ở Việt Nam đã và vẫn
còn đang rất màu mỡ, đặc biệt là đối với các nhà sản xuất xe máy có vốn đầu tư
nước ngoài.
2.1.1.2 Thị trường ngành
Như chúng ta đã biết, thị trường xe máy trong những năm gần đây đã thực sự
trở nên sôi động, trên thị trường xuất hiện rất nhiều hãng xe máy có tên tuổi như
Honda, Yamaha, Suzuki, SYM,… với các mặt hàng mẫu mã đa dạng, tuy nhiên, các
sản phẩm này lại có giá thành tương đối cao. Đánh vào điều này, các doanh nghiệp
chế tạo xe máy Trung Quốc trong đó có Lifan phát triển sản phẩm của mình theo
hướng cạnh tranh bằng giá rẻ nhằm phục vụ cho một bộ phận dân số và những
người sống ở khu vực nông thôn. Người tiêu dùng Việt Nam có nhu cầu về xe gắn
máy song lại có thu nhập thấp hoặc có nhu cầu đổi xe nhưng lại không có đủ tiền thì
ngoài các sản phẩm đã bày bán trên thị trường là của những hãng xe lớn tên tuổi ra,
giờ đây họ còn có thế có một sự lựa chọn nữa là các dòng xe liên doanh với Trung
Quốc và thỏa mãn nhu cầu của mình bằng những sản phẩm đa dạng, phong phú mà
giá bán lại rất rẻ. Đơn cử là chiếc LF 100 – 4C của Lifan, mẫu mã kiểu dáng giống
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
hệt Super Dream của hãng Honda nhưng giá lại chỉ có 5,7 triệu đồng, trong khi giá
của sản phẩm Super Dream lại là 16,39 triệu đồng tại chính nhà máy. Hay như dòng

tay ga thì để mua được một chiếc xe ga của các hãng nổi tiếng hơn như Honda,
Yamaha thì giá cả dao động khoảng từ 24 – hơn 100 triệu đồng, nhưng với sản
phẩm của Lifan Việt Nam thì một chiếc xe tay ga 150cc chỉ có giá là 19,5 triệu
đồng với kiểu dáng cũng khá là bắt mắt. Hơn nữa, thời gian gần đây có tình trạng
giá cả xe máy của Honda, Yamaha tại các đại lý của hãng trên thị trường khi đến
tay người tiêu dùng chênh lệch một khoản khá lớn so với giá mà công ty đề xuất,
thường phải từ 1-2,5 triệu đồng, thậm chí có dòng xe vào thời điểm hàng hóa khan
hiếm hoặc không sản xuất nữa thì giá chênh lệch đến tận 7 triệu đồng (dòng xe Lead
vào thời điểm tết năm 2008, nguồn: ), trong khi với Lifan Việt
Nam thì điều này chưa từng xảy ra, giá cả tại công ty và chi nhánh Hà Nội luôn luôn
thống nhất, đây là một thế mạnh nữa với Lifan Việt Nam. Nắm bắt được tất cả các
điều này, Lifan vẫn có cơ hội tồn tại và phát triển tại thị trường Việt Nam nhằm đáp
ứng được một lượng lớn nhu cầu đi lại của người dân lao động và giới bình dân,
mặc dù biết là chất lượng không cao như mong muốn nhưng họ vẫn mua vì hợp với
túi tiền của họ.
2.1.1.3 Thuận lợi đến từ môi trường vĩ mô
- Chính sách thông thoáng của Chính phủ và Nhà Nước về việc các đối tác đầu
tư nước ngoài đầu tư sản xuất và kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt các
chính sách ưu đãi về thuế quan, hạn ngạch đối với mặt hàng xe máy, về vấn đề nhập
khẩu các linh kiện lắp ráp từ Trung Quốc. Theo website của Trung tâm hỗ trợ pháp
luật và phát triển nguồn nhân lực (Nguồn: ) đề nghị của Vụ
Chính sách thuế (Bộ Tài chính) là trong năm 2010 sẽ có nhiều ưu đãi về thuế, phí đã
và đang thực hiện năm 2009 theo chính sách kích cầu của Chính phủ vẫn được tiếp
tục thực hiện, trong đó năm 2010 tiếp tục thực hiện giảm 50% thuế giá trị gia tăng
cho 16 nhóm hàng hóa như than, hóa chất, sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; ô tô
các loại; khuôn đúc các loại; vật liệu nổ; ván ép nhân tạo; sản phẩm bê tông công
nghiệp; lốp và bộ săm lốp; ống thủy tinh trung tính; vận tải; kinh doanh khách sạn;
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
du lịch; in; giấy các loại…Theo đó, các doanh nghiệp sản xuất xe máy, trong đó có
Lifan Việt Nam sẽ có cơ hội giảm chi phí sản xuất, giảm giá cả mặt hàng và có khả

năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường Việt Nam.
- Cơ sở hạ tầng: Buôn bán các loại mặt hàng về phương tiện giao thông như xe
cộ nói chung phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở hạ tầng, bởi lẽ như vậy là do đặc điểm
của loại mặt hàng này đòi hỏi phải có nền móng trình độ vật chất như đường xá cầu
cống, vì nếu như cơ sở hạ tầng chưa phát triền, việc đi lại của người dân vẫn còn
khó khăn thì tất nhiên là việc kinh doanh buôn bán các loại xe cộ phương tiện vận
chuyển không thể phát triển được. Hiện nay, vấn đề cơ sở hạ tầng giao thông tại
Việt Nam cũng khá ổn với hệ thống điện đường trường trạm khá tốt, việc giao lưu
đi lại giữa các nơi hầu hết đã dễ dàng và vẫn còn đang được tiếp tục hoàn thiện. Đây
là tiền đề tốt cho hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng giao thông vận
tải nói chung. Ngoài ra, Việt Nam được coi là một quốc gia khá ổn định về tình hình
trật tự an ninh, thuộc nhóm các quốc gia ít xảy ra tình trạng bạo động nhất thế giới,
điều này là một thuận lợi không nhỏ, vì Lifan Việt Nam là một doanh nghiệp liên
doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Trung Quốc, nếu như an ninh
Việt Nam tốt thì doanh nghiệp Trung Quốc cũng sẽ an tâm hơn khi đầu tư và kinh
doanh tại thị trường này.
Bên cạnh đó, không thế không kể đến một lợi thế rất to lớn mà Chính phủ các
Quốc gia mang lại, đó là việc từ ngày 1/1/2010, Hiệp định thương mại tự do giữa
ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) chính thức đi vào hoạt động, dỡ bỏ hàng rào thuế
quan cho phép tự do thương mại đối với hơn 90% loại hàng hóa giao dịch trừ một
số mặt hàng như dệt may và điện tử được coi là mặt hàng khá nhạy cảm và đến năm
2015 hiệp định sẽ chính thức có giá trị trong toàn khu vực (nguồn:
bài đăng ngày 05/01/2010). Đây là một thuận lợi rất
lớn đối với các công ty Trung Quốc như Lifan. Vì Lifan là một doanh nghiệp liên
doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc nên ít nhiều vẫn phải nhập linh
kiện từ Trung Quốc, do đó khi mà Việt Nam giảm dần thuế quan từ mức 5% hiện
nay xuống còn 0 % vào năm 2010 thì việc nhập khẩu các máy móc thiết bị từ Trung
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
Quốc sang sẽ giống như là vận chuyển trong khu vực vậy. Điều này đồng nghĩa với
việc doanh nghiệp mất ít thuế hơn hoặc không mất thuế sẽ làm giá cả các nguyên

vật liệu đầu vào rẻ đi đáng kể, kéo theo giá sản phẩm sẽ rẻ theo, tăng sức cạnh tranh
của hàng hóa trên thị trường.
2.1.2 Khó khăn
2.1.2.1 Khó khăn đến từ các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một vấn đề không thể tránh khỏi
đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, cho dù doanh nghiệp đó đang tiến hành kinh
doanh ở bất kỳ một lĩnh vực nào thì vấn đề cạnh tranh luôn song hành với sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp đó. Hiểu được các đối thủ cạnh tranh của mình là
điều cực kỳ quan trọng để có thể lập kế hoạch phát triển thị trường hiệu quả, các
doanh nghiệp phải thường xuyên so sánh sản phẩm của mình, giá cả, các kênh và
hoạt động khuyến mãi của mình với đối thủ cạnh tranh. Nhờ vậy mà họ có thể phát
hiện được những lĩnh vực mà mình có ưu thế hơn cạnh tranh hay bất lợi trong cạnh
tranh. Công ty có thể tung ra những đòn tiến công chính xác hơn vào đối thủ cạnh
tranh cũng như chuẩn bị phòng thủ vững chắc hơn trước các cuộc tiến công.
Việc hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng đối với các
hãng do nguyên nhân: các đối thủ cạnh tranh quyết định tính chất và mức độ cạnh
tranh trên thị trường. Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào mối tương quan giữa các
yếu tố như số lượng hãng tham gia thị trường, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ
cấu chi phí cố định Ngành xe máy là một trong những ngành mà sự cạnh tranh
diễn ra khốc liệt nhất tại thị trường Việt Nam. Hiện cả nước có 52 doanh nghiệp
sản xuất và lắp ráp xe máy, trong đó có 22 doanh nghiệp Nhà nước và 7 liên doanh,
điều đó cũng đồng nghĩa với việc các đối thủ của Lifan trên thị trường không phải
là ít. Xin được đơn cử ra 3 doanh nghiệp có thể coi là đối thủ nặng ký nhất của
Lifan trên thị trường xe máy Việt Nam:
- Honda Việt Nam: Công ty Honda Việt Nam là liên doanh giữa công ty
Honda Motor Nhật Bản, công ty Asian Honda Motor Thái Lan và Tổng công ty
máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam, được thành lập từ tháng 3 năm 1996.
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
Từ đó đến nay Honda Việt Nam luôn được người tiêu dùng Việt Nam biết đến với
uy tín và chất lượng của một tập đoàn sản xuất xe máy lớn nhất trên thế giới Các

sản phẩm của Honda Việt Nam từ khi bắt đầu xâm nhập vào thị trường đến nay như
Honda Cub 50, Cub 70, đến các dòng xe hiện đại ngày nay như Airblade, Honda
Click, thường chinh phục được lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam bằng chất
lượng và sự tiện dụng của nó. Người Việt Nam biết đến xe máy chính là do tập
đoàn Honda mang lại, thậm chí thời gian đầu người ta còn gọi chiếc xe máy là chiếc
Honda. Xe máy của tập đoàn Honda luôn mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam
cảm giác an toàn, sự tin tưởng vào chất lượng và độ bền của xe. Với phương châm
là “you meet the nicest people on a Honda”, cho đến nay Honda Việt Nam đã có
hơn 2,5 triệu sản phẩm được khách hàng trong nước sử dụng. Bên cạnh đó, với bộ
máy quản trị chặt chẽ, thống nhất từ tổng giám đốc tới các giám đốc, phòng ban,
phân xưởng, tổ sản xuất, chất lượng xe máy của Honda Việt Nam luôn được kiểm
tra sát sao, chặt chẽ trước khi xuất xưởng và bán đến tận tay người tiêu dùng. Sản
phẩm của Honda Việt Nam đã đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9002. Chính
vì thế xe máy của tập đoàn Honda Việt Nam luôn mang đến cho người tiêu dùng
Việt Nam cảm giác an toàn, sự tin tưởng vào chất lượng và độ bền của xe. Quy mô
của công ty cũng ngày càng được mở rộng, tháng 7/2007 công ty này đã xây dựng
thêm nhà máy mới với số vốn đầu tư trên 65 triệu USD trên diện tích 280.000m².
Theo thống kê của Honda Việt Nam, tổng lượng xe máy tiêu thụ trên toàn thị
trường Việt Nam năm 2009 là 2,75 triệu chiếc, tăng 8% so với năm 2008. Nhằm
đáp ứng nhu cầu cao của thị trường, hạn chế tình trạng các cửa hàng xe máy tăng
giá bán xe, Honda Việt Nam đã tăng công suất từ 1,23 triệu xe (theo kế hoạch) lên
1,372 triệu xe trong năm 2009. Hiện Honda Việt Nam đã tăng từ 2 ca sản xuất lên 3
ca/ngày, dự kiến lượng xe máy đưa ra thị trường năm 2010 là 1,65 triệu chiếc, tăng
5% so với 2009.(nguồn: ) Sau hơn 10 năm đi vào hoạt
động, công ty Honda Việt Nam đã từng bước trưởng thành và đứng vững trên thị
trường xe máy Việt Nam, xứng đáng được coi là đối thủ nặng ký nhất của Lifan
Việt Nam.
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
- Suzuki Việt Nam: Công ty Suzuki là một hãng xe lớn của Nhật Bản, bắt đầu
hoạt động tại thị trường Việt Nam từ 1996. Với khẩu hiệu “Ride the winds of

charge”, Suzuki chấp nhận thách thức trong việc cải tiến công nghệ nhằm đem lại
những sản phẩm xe máy tinh tế đem lại cảm xúc hoàn toàn mới cho người sử dụng.
Suzuki với hệ thống đại lý rộng khắp có mặt rộng khắp cả nước (hơn 16 đại lý và
trung tâm bảo hành) nhằm phục vụ khách hàng một cách chu đáo thuận tiện, có
chương trình chăm sóc miễn phí cho các loại xe Suzuki trên toàn quốc. Hệ thống
này là sự kết hợp hiệu quả của các cửa hàng Suzuki 3S đảm nhiệm tất cả các dịch
vụ liên quan, đó là bán hàng (sales), dịch vụ hậu mãi (after sales services) và cung
cấp phụ tùng Suzuki chính hiệu. Tất cả, từ cấu trúc tổng thể cho đến từng chi tiết,
vật dụng nhỏ, kết hợp tạo lên một hình ảnh nhất quán, hài hòa, đầy sáng tạo cho tất
cả các cửa hàng Suzuki toàn quốc. Chính nhờ sự nỗ lực không ngừng nên thị trường
của Việt Nam, Suzuki ngày càng được mở rộng trên thị trường xe máy Việt Nam.
Trong sự kiện hàng loạt các doanh nghiệp kinh doanh xe máy lần lượt khởi công
xây dựng thêm nhà máy năm 2007, Liên doanh Suzuki Việt Nam tuy “khiêm tốn”
hơn các công ty khác nhưng vẫn tiếp tục xây dựng thêm nhà máy thứ hai tại Long
Bình với số vốn 20 triệu USD trên diện tích 20 ha đất. Đến năm 2009, tuy không
đạt được nhiều kết quả khả quan như các tay anh chị khác trong nghề nhưng Suzuki
Việt Nam vẫn là được coi là một đối thủ đáng gờm với Lifan.
- Yamaha Việt Nam: Công ty Yamaha Motor Việt Nam là doanh nghiệp liên
doanh giữa công ty Yamaha Motor Nhật Bản, Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam
và công ty công nghiệp Hong Leong Industries Berhad Lalaysia, được chính thức
thành lập vào tháng 4 năm 1999. Dù là kẻ đến sau nhưng Yamaha đã chiếm được vị
trí tương đối vững chắc trong thị trường xe máy Việt Nam. Sản phẩm của hãng
được nhiều người ưa thích, dặc biệt là giới trẻ. Yamaha tung ra thị trường với nhiều
loại xe từ xe số, xe phanh đĩa, xe gaz với kiểu dáng màu sắc rất trẻ trung và đa
dạng. Chủng loại của Yamaha Việt Nam rất phong phú và đa dạng, rất hợp thời
trang. Yamaha còn có chiến lược quảng cáo, tiếp thị rộng rãi, có hình thức “mua trả
góp” với mức lãi suất hợp lý nhằm thu hút khách hàng. Những sản phẩm của các
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
hãng này thường được giới trẻ ưa chuộng bởi sự thời trang về màu sắc cũng như
kiểu dáng của nó. Phương châm của tập đoàn Yamaha là Kando – tức chiếm lấy trái

tim khách hàng. Như vậy trong một thời gian hoạt động Yamaha Motor Việt Nam
đã tìm thấy thế mạnh đó trên thị trường xe máy Việt Nam. Năm 2007, lượng xe máy
của công ty này bán ra đạt 505 nghìn xe, năm 2006 là 340 nghìn xe và năm 2008 là
700 nghìn xe. Sau nhà máy thứ nhất đặt ở Sóc Sơn, Yamaha Việt Nam cũng đang
xây dựng nhà máy thứ hai tại KCN Nội Bài với kế hoạch từ cuối năm 2008 đã đi
vào hoạt động. Vốn đầu tư cho hai nhà máy sản xuất xe máy của công ty này là 123
triệu USD và năng lực sản xuất cũng xấp xỉ 1,5 triệu chiếc/năm. Trong năm 2009,
Yamaha cũng đã gặt hái được nhiều thành công nhờ việc bán hàng với nhiều mẫu
xe đa dạng và phong phú. Với dải sản phẩm tương ứng liền mạch với mức tiền từ
15.000.000VND cho tới 33.000.000VND, Yamaha Việt Nam là một trong những
hãng xe máy có chiến lược bán hàng hiệu quả và đạt doanh số cao. Yamaha Việt
Nam được biết đến nhờ những mẫu xe mang phong cách thể thao và trẻ trung
hướng tới giới trẻ như: Yamaha Nouvo LX, Exciter, Jupiter và Taurus
Rõ ràng, thị trường xe máy Việt Nam đang là mảnh đất “màu mỡ” cho các
hãng. Số liệu thống kê từ Tổng cục thống kê, hiện nay trên thị trường có khoảng 17
triệu xe máy các loại, và theo dự báo của Viện Chiến lược - Chính sách Công nông
thì con số này có thể tăng lên hơn thế nữa, năm 2015 khoảng 31 triệu xe, và 2020
khoảng 35 triệu chiếc, và do đó cuộc chiến cạnh tranh và tranh giành thị phần giữa
các liên doanh lắp ráp xe trong nước sẽ ngày càng trở nên quyết liệt hơn nữa.
2.1.2.2 Khó khăn từ các yếu tố khách quan
Việt nam và Trung quốc có thể nói là khá thuận tiện về mặt vị trí địa lý, do đó
từ khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đến nay thì hàng hóa
Trung Quốc tràn sang Việt Nam khá nhiều. Nhất là khi Việt nam – Trung quốc ký
kế thương mại tự do giữa ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) chính thức đi vào hoạt
động từ 1/1/2010 thì hàng hóa Trung quốc tràn sang Việt Nam có thể nói là ồ ạt.
Đây là một thuận lợi và cũng là một khó khăn đối với các doanh nghiệp Trung quốc
đã kinh doanh và xây dựng thương hiệu tại Việt Nam như Lifan. Bởi lẽ, không chỉ
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
có hàng hóa của các doanh nghiệp có tên tuổi của Trung Quốc tràn sang mà bên
cạnh đó cũng có không ít các sản phẩm không rõ nhãn hiệu cũng xuất hiện với

lượng ngày càng lớn trên thị trường Việt Nam.
Theo website , một phần rất lớn các linh kiện xe Trung Quốc
nhập về Việt nam lắp ráp IKD từ năm 2001 đã làm nảy sinh một loạt vấn đề, mà
chủ yếu là chất lượng và quản lý chất lượng. Mới đầu, các doanh nghiệp lắp ráp
trong nước chỉ nhập khẩu động cơ cùng bộ khung (đã có hệ thống điện xe). Còn các
phụ tùng khác do công nghiệp địa phương Trung Quốc làm nhái mác về sau theo
đường “cửu vạn”, do đó lách được không ít thuế nhập khẩu. Sau này, “chiêu” ấy ít
được dùng hơn nhờ các cơ sở trong nước kịp nhập cuộc “đại gia công” phụ tùng cho
xe Trung Quốc. Các chuyên gia ở Hội Cơ khí Việt Nam từng nhận xét, xe máy
Trung Quốc là tác nhân chính vực dậy hàng loạt xưởng cơ khí vốn sống lay lắt ở
Nam Định, Hà Nam nhờ gia công khung, càng, vành xe Các phần khác như săm
lốp, chi tiết bằng nhựa, ống xả, nhông xích thì đã sẵn. Cứ thế, giá xe Trung Quốc
từng tháng giảm dần Nhưng chính điều này lại dẫn tới vấn đề chất lượng của xe:
những bộ phận quan trọng như vành, càng, khung không được kiểm soát chặt chẽ về
mặt chất lượng. Chất lượng của các xe này thực sự đã là: “ con sâu làm rầu nồi
canh”, làm ảnh hưởng không ít tới uy tín của các doanh nghiệp liên doanh Trung
Quốc chính thức khi người tiêu dùng nhắc đến xe Trung Quốc là nhắc đến các loại
xe chóng hỏng và kém chất lượng, trong khi rất nhiều các doanh nghiệp có thương
hiệu trên thị trường thì chất lượng đảm bảo hơn nhiều, như Lifan năm 2002 đã lắp
ráp xe với tỷ lệ nội địa hóa là 25% và hiện nay đạt 41%. Theo Lifan Việt Nam, ít
nhất có khoảng 30% trong các loại xe của Trung Quốc hiện có mặt ở thị trường Việt
Nam là xe giả, nhái hãng nổi tiếng của Lifan, Longcin, Jailing… mà tập trung chủ
yếu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và các thị trấn nhỏ, với giá bán rất thấp.(
nguồn: báo cáo thị trường 2009 của Chi nhánh Hà Nội). Điều này không chỉ khiến
cho người Việt Nam lo lắng về chất lượng hàng hóa mà họ tiêu dùng có đảm bảo
hay không mà còn ảnh hưởng rất lớn đến những hãng có thương hiệu được đăng ký
đàng hoàng trên thị trường như Lifan.
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
2.2 Chiến lược phát triển thị trường của công ty
2.2.1 Chiến lược về giá

Lifan là một công ty liên doanh giữa Tập đoàn Lifan Trung Quốc và công ty
VIEXIM Việt Nam, nguồn vốn đầu tư chính từ chủ đầu tư Trung Quốc, Tổng giám
đốc cũng là người Trung Quốc, do đó phương châm và chiến lược kinh doanh đều
ảnh hưởng bởi cách kinh doanh của người Trung Quốc. Khi xâm nhập vào thị
trường Việt nam, công ty Lifan Việt Nam đã áp dụng chiến thuật kinh doanh của
người Trung Hoa, đó là: Lãi ít trên một sản phẩm, bù lại thu lãi lớn nhờ bán được số
lượng sản phẩm vượt trội, nói vắn tắt, chiến thuật này là "lãi ít, lượng nhiều” và
"người tốt hơn, ta rẻ hơn". Hai chiến thuật này không phải lần đầu tiên do Lifan áp
dụng ở Việt Nam mà trước đó khá nhiều công ty Châu á áp dụng và được cả Lifan
áp dụng ở các mặt hàng khác và các thị trường khác. Lấy chuyện sản xuất xe hơi
của Hàn Quốc và Trung Quốc làm ví dụ. Xe hơi là sản phẩm dường như là của
riêng các nước Âu Mỹ và Nhật Bản. Ngành công nghiệp ô tô của Hoa Kỳ luôn được
coi là kinh tế mũi nhọn của nước này và trên thực tế xe hơi Anh, Pháp, Đức, Hoa
Kỳ luôn khống chế thị trường ô tô thế giới. Chỉ tới những năm 60 của thế kỷ XX, xe
ô tô Nhật Bản mới len lỏi được vào thị trường Hoa Kỳ. Trái ngược với xe Mỹ to
vật, kềnh càng nghênh ngang chạy trên đường và ngốn xăng khủng khiếp thì xe
Nhật nhỏ gọn, ít hao xăng. Vào thị trường Mỹ đúng vào thời kỳ khủng hoảng năng
lượng, xe Nhật đã chiếm ưu thế. Các nước đi sau như Hàn Quốc, Trung Quốc rất
khó lọt vào thị trường Âu Mỹ. Nhưng với chiến thuật "đi sau một bước", Hàn,
Trung đã tìm cách kết hợp công nghệ cao từ những công ty đa quốc gia chuyên sản
xuất xe hơi với lao động rẻ ở nước mình để tạo ra loại xe thích hợp, rồi từ đó tự
thiết kế những mẫu xe mới dáng đẹp, ít hao xăng và bán với giá rẻ. Hãng Huyndai
của Hàn Quốc từ chỗ là ông vua của loại xe giá rẻ vài ngàn đô một chiếc đã tiến đến
sản xuất những dòng xe Sedan giá từ 30.000 đô la - 40.000 đô la được thị trường Âu
- Mỹ ưa chuộng (trong khi các dòng xe đắt tiền ở những nước này giá thường gấp
đôi). Còn Trung Quốc, hãng Lifan kiên trì với xe giá rẻ, mới đây đã xuất vài chục
nghìn xe hơi giá vài nghìn USD vào thị trường châu Âu đã khiến người tiêu dùng ở
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
đây thích thú và các nhà sản xuất ô tô khác kinh ngạc. Trong thời buổi lạm phát, giá
xăng tăng vùn vụt, những chiếc xe của Lifan, Huyndai quả là một giải pháp tốt cho

việc đi lại. Như thế dù đi sau người, nhưng có chiến lược đúng và chiến thuật thích
hợp, xe hơi Trung Quốc, Hàn Quốc vẫn từng bước len chân vào thị trường Âu - Mỹ
khó tính vốn được các đại gia o bế. Trở về với xe máy Lifan tại thị trường Việt
Nam, cụ thể là Lifan đã sử dụng “chiến thuật” là theo mẫu của các động cơ có sẵn
trên thị trường đã sản xuất một loạt sản phẩm xe máy với giá bán thấp kỷ lục để
xuất trên thị trường Đông Nam Á, Châu phi, trong đó có Việt Nam. Ý đồ này đã
thực sự thành công trên thị trường Việt Nam vì một phần lớn người lao động Việt
Nam có nhu cầu mua xe máy song lại có thu nhập thấp, hoặc những người có nhu
cầu đổi xe máy mới nhưng lại không đủ tiền, Ưu điểm vượt trội của xe máy Lifan
Việt Nam là giá bán rất thấp, tùy thuộc vào từng chủng loại, động cơ mà giá bán chỉ
dao động khoảng 7 – 10 triệu đồng (xe số). Người Việt Nam đã có thể thỏa mãn nhu
cầu của mình với những sản phẩm đa dạng, phong phú mà giá bán chỉ bằng 1/3 đến
½ giá bán của một số hãng nổi tiếng hơn như: Honda, Yamaha, Tuy chất lượng
của các loại xe máy này vẫn không thể tốt bằng xe máy của các hãng tên tuổi khác,
nhưng bước đầu Lifan vẫn xâm nhập tốt và hiện nay vẫn đang phát triển trên thị
trường Việt Nam. Nhờ hai chiến thuật về giá này mà Lifan đã tìm được chỗ đứng
vững trên thị trường Việt Nam, theo số liệu công ty tháng 1 năm 2010, số lượng xe
máy Lifan đã tiêu thụ trên thị trường trong 7 năm qua là 100.000 xe.
2.2.2 Chiến lược xúc tiến khuyếch trương:
Chiến lược xúc tiến, khuyếch trương bao gồm mọi hoạt động của công ty
nhằm truyền bá những thông tin về sản phẩm và dịch vụ của công ty với đối tượng
là toàn bộ công chúng nói chung và người tiêu dùng - khách hàng mục tiêu nói
riêng, nhằm mục đích giới thiệu, kích thích, thuyết phục khách hàng hiểu biết, chấp
nhận, ưa thích, tin tưởng cuối cùng là mua hàng. Chiến lược này được chia thành
các nội dung cụ thể, đó là:
- Quảng cáo: Hoạt động quảng cáo mà công ty thực hiện là toàn bộ những
phương thức nhằm thông tin với người tiêu dùng và thuyết phục họ mua sản phẩm
SV: Nguyễn Thị Minh Huệ Lớp: Kinh tế quốc tế 48B
của nhà máy. Mỗi đợt quảng cáo gắn với một sản phẩm và một giai đoạn tiêu thụ
nhất định. Tuy nhiên các hoạt động quảng cáo đều thống nhất trong chiến lược

chung. Công ty khi tiến hành truyền thông phải xác định có người tiếp nhận thông
tin của mình người nhận tin chính là khách hàng mục tiêu của công ty. Đối với mỗi
sản phẩm hình thức quảng cáo lại khác nhau cho phù hợp với đặc tính của sản
phẩm.
- Quyết định nội dung truyền đạt: Đối với sản phẩm Lifan ra đời từ 2000 đến
nay đã không còn quá xa lạ với người tiêu dùng. Bởi vậy mục tiêu của hoạt động
quảng cáo trong giai đoạn hiện nay là:
+ Làm cho hình ảnh xe Lifan luôn ở vị trí hàng đầu trong tâm trí người tiêu
dùng, tăng số lượng hàng tiêu thụ trên thị trường truyền thống.
+ Thuyết phục mọi người sử dụng sản phẩm xe máy Lifan, mỗi thị trường mới,
khẳng định lại uy tín và chất lượng của từng loại sản phẩm. Mục tiêu này đã được
thực hiện hết sức thành công qua việc lựa chọn khẩu hiệu quảng cáo: ” ENJOY
LIFAN, ENJOY LIFE”. Khẩu hiệu này đã khẳng định được vị trí của sản phẩm xe
máy Lifan trên thị trường, khuyến thích người Việt Nam dùng xe Lifan.
- Khuyến mãi
Hoạt động khuyến mại của Công ty Lifan Việt Nam rất đa dạng và phong phú
nhưng có thể chia thành ba loại theo đối tượng mục tiêu của các chương trình
khuyến mãi cụ thể:
+ Khuyến mãi nhằm thúc đẩy, hỗ trợ, và khuyến khích nỗ lực bán hàng của lực
lượng bán hàng.
+ Khuyến mãi vào lực lượng bán hàng của công ty chủ thông qua hình thức thi
đua và thưởng trên doanh số tiêu thụ ở cửa hàng hoặc địa phương mà mình quản lý.
+ Khuyến mãi nhằm khuyến khích người tiêu dùng dùng hoặc tiếp tục sử dụng
những sản phẩm của công ty, thông qua một số chương trình như chiết khấu giảm
giá khi khách hàng mua nhiều, phát hành miễn phí cho người tiêu dùng, phiếu mua
hàng, trả lại một phần tiền, thi cá cược, trò chơi, thưởng tiền đồ vật, hay tặng mũ
bảo hiểm, áo mưa khi khách hàng mua xe trong những đợt khuyến mại hay cho

×