Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Thực trạng và đề xuất biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.24 MB, 51 trang )

Lời mở đầu
Hiện nay nước ta đang bứớc trên con đường công nghiệp hóa hiện đại
hoá đất nước, mục tiêu chính hướng tới là phát triển kinh tế, nâng cao cuộc
sống người dân nhưng đi kèm với phát triển kinh tế là tình trạng ô nhiễm
môi trường ngày càng gia tăng và có dấu hiệu nghiêm trọng ảnh hưỏng đến
chất lượng cuộc sống người dân. Ô nhiễm môi trường hiện đang là một vấn
nạn mà tất cả các quốc gia phải hứng chịu và thế giới đang chung tay cùng
nhau chống lại vấn nạn này. Nước ta cũng không thể đứng ngoài cuộc chiến
này và hiện đang có những nổ lực to lớn nhằm chống lại ô nhiễm môi
trường. Chúng tôi xin đưa ra một bản báo cáo về tình trạng ô nhiễm môi
trưòng của nước ta nhằm giúp mọi người có những hiểu biết và quan tâm
hon đến môi trưòng bản báo cáo này dựa trên các tại liệu được chúng tôi thu
thập trong thời gian gần đây và một phần dựa vào những hiểu biết của chúng
tôi về các vấn đề môi trường dưới sự chỉ dẩn tận tình của giáo viên bộ môn
cô Nguyễn Thị Thanh Thuỷ chúng tôi chân thành cám ơn cô đã giúp chúng
tôi hoàn thành bản báo cáo này.
1
Lý luận về các vấn đề môi trưòng
I. Các khái niệm cơ bản.
1. Khái niệm môi trường
Môi trường là tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con
người có ảnh hưởng tới con người và tác động qua lại với các hoạt động
sống của con người như: Không khí, nước, đất, sinh vật, xã hội loài
người…
2. Ô nhiễm môi trường
Là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu
chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.
Nguyên nhân ô nhiễm môi trường là các hoạt động nhân tạo của con
người hoặc các quá trình tự nhiên. Có nhiều phương pháp đánh giá mức độ ô
nhiễm môi trường, dựa vào tình trạng sức khỏe và bệnh tật của con người và
sinh vật, dựa vào các thang tiêu chuẩn chất lượng môi trường.


Ví dụ:
Nồng độ bụi, CO
2
, SO
2
…vượt tiêu chuẩn cho phép tại các đô thị và khu
công nghiệp, được gọi là ô nhiễm không khí.
Ô nhiễm nước là sự thay đổi thành phần và tính chất của nước, có hại cho
hoạt động sống bình thường của sinh vật và con người, bởi sự có mặt của
một hay nhiều hóa chất lạ vượt qua ngưỡng chịu đựng của sinh vật.
Tại Điều 92 luật bảo vệ môi trường 2005, có 3 cấp độ ô nhiễm môi
trường là:
• Ô nhiễm: Hàm lượng một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu
chuẩn về chất lượng môi trường.
• Ô nhiễm nghiêm trọng: Khi hàm lượng của 1 hoặc nhiều hóa chất,
kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 3 lần
trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất vượt quá tiêu chuẩn
về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên.
• Ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng: Khi hàm lượng của một hoặc nhiều
hóa chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường
từ 5 lần trở lên hoặc hàm lượng của 1 hoặc nhiều chất gây ô nhiễm
khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 10 lần trở lên.
2
3. Suy thoái môi trường
Là sự suy giảm về chất lượng và số lượng thành phần môi trường, gây
ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật.
Ví dụ:
Hiệu ứng nhà kính đang gia tăng do sự gia tăng của khí CO
2
từ 0,028%

vào năm 1850 lên 0,035% vào năm 1960 và các khí nhà kính khác như CH
4
,
CFC…làm cho nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên 0,6
0
C trong vòng 100 năm
qua và khoảng 1
0
C trong 50 năm tới . Sự thay đổi này đã và đang gây ra các
biến đổi khí hậu toàn cầu, các thiên tai như lũ lụt, hạn hán và dâng cao mực
nước biển.
Tầng Ô zôn bị phá hủy: Tầng chứa khí ozon hay là tầng ozon ở độ cao 18
– 25 Km có khả năng hấp thụ trên 90% tia tử ngoại trong bức xạ mặt trời,
Khi tầng ozon bị suy giảm, lượng tia tử ngoại chiếu xuống mặt đất gia tăng
gây ra ung thư da, suy giảm miễn dịch ở người, giảm năng suất sinh học của
động thực vật. Tháng 10- 1985, các nhà khoa học Anh phát hiện ở tầng khí
ozon Nam Cực xuất hiện một lỗ thủng bằng diện tích nước Mỹ. Năm 1987,
các nhà khoa học liên bang Đức phát hiện hiện tượng thủng tầng ozon ở
vùng trời Bắc Cực. Hiện nay, trên nhiều thành phố lớn và vùng gần cực trái
đất tồn tại lỗ thủng tầng ozon. Nguyên nhân chủ yếu gây a sự suy thoái và
thủng tầng ozon là việc sử dụng khí CFC và các khí NO
x
.
Sa mạc hóa đất đai: Do nhiều nguyên nhân như bạc mầu, mặn hóa, phèn
hóa, khô hạn. Bên cạnh đó, việc sử dụng đất canh tác cho các mục đích phi
nông nghiệp đang gia tăng. Hiện nay, có 14 triệu km
2
đất canh tác, vào đầu
thế kỉ XXI theo dự báo: một phần ba diện tích này bị sử dụng vào mục đích
phi nông nghiệp.

Suy thoái trữ lượng nước ngầm biểu hiện bởi giảm công suất khai thác,
hạ thấp mực nước ngầm, lún đất.
Suy thoái các hệ sinh thái biển như hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái rừng
ngập mặn, cỏ biển…Suy giảm trữ lượng các loài sinh vật biển và giảm tính
đa dạng sinh học biển.
Rừng đang bị suy giảm về số lượng và chất lượng: Hiện nay toàn thế giới
có khoảng gần 3 tỷ ha rừng với lượng gỗ khoảng 300 tỷ m
3
. Hàng năm,
khoảng 30 triệu ha rừng bị suy giảm do khai thác gỗ và các nguyên nhân
khác. Nhiều khu rừng nhiệt đới đang bị khai thác và bị hủy diệt, trong đó có
3
các khu rừng ở khu vực Đông Nam Á. Nguyên nhân suy giảm diện tích rừng
là khai thác gỗ củi quá mức, mở rộng diện tích đất nông nghiệp, xây dựng
các công trình công nghiệp và dân sinh và suy thoái môi trường.
Số loài động thực vật bị tiêu diệt đang gia tăng: Tổng số các loài sinh vật
đã biết là 30 triệu, so với khoảng 100 triệu loài có thể phát hiện trên trái đất.
Hàng năm, trung bình có khoảng 30.000 loài bị diệt chủng. Đây là tổn thất
rất lớn của con người. Nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự suy giảm số
lượng các chủng loài động thực vật là sự suy thoái chất lượng môi trường
sống, mất nơi cư trú, khai thác, săn bắn quá mức và các nguyên nhân tự
nhiên khác.
4. Sự cố môi trường
Là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của con người
hoặc biến đổi thất thường của thiên nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến
đổi môi trường nghiêm trọng.
Một số sự cố môi trường điển hình thường xảy ra và để lại hậu quả nguy
hại đối với con người và thiên nhiên là:
Bão, lũ lụt, hạn hán, nứt đất, động đất, sụt lở đất, núi lửa phun, mưa axit,
mưa đá, biến động khí hậu và thiên tai khác

Hỏa hoạn, cháy rừng, sự cố kỹ thuật của cơ sở sản xuất kinh doanh, công
trình kinh tế, khoa học, kĩ thuật, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng gây
nguy hại cho môi trường.
Sự cố trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác và vận chuyển khoáng sản, dầu
khí, sập hầm mỏ, phụt dầu, tràn dầu, vỡ đường dẫn dầu, dẫn khí, đắm tàu, sự
cố tại cơ sở lọc hóa dầu và các cơ sở công nghiệp khác.
Sự cố trong lò phản ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử, nhà máy sản
xuất, tái chế nhiên liệu hạt nhân, kho chứa phóng xạ.
Tai biến địa chất là một dạng tai biến môi trường phát sinh trong thạch
quyển, các dạng tai biến địa chất chủ yếu gồm phun núi lửa, động đất, nứt
đất, lún đất.
Trượt lở đất đá là một dạng biến đổi bề mặt trái đất. Tại đây một khối
lượng đất đá khác theo các bề mặt đặc biệt , bị trọng lực kéo trượt xuống các
địa hình thấp. Hiện tượng trượt lở đất thường xuyên xuất hiện một cách tự
nhiên trong các vùng núi vào thời kì mưa nhiều hàng năm.
5. Kiểm soát ô nhiễm môi trường
4
Là tổng hợp các hoạt động của Nhà Nước, tổ chức, cá nhân nhằm loại
trừ, hạn chế những tác động xấu đối với môi trường, phòng ngừa ô nhiễm
môi trường, khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường gây nên.
Mục đích của kiểm soát ô nhiễm môi trường là phòng ngừa, khống chế
để ô nhiễm môi trường không xảy ra. Nói cách khác, kiểm soát ô nhiễm môi
trường là quá trình con người chủ động ngăn chặn các tác động xấu đến môi
trường từ các hoạt động phát triển kinh tế xã hội. Còn nếu vì những lí do
khác nhau mà ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra thì kiểm soát ô nhiễm môi
trường chính là hoạt động xử lý, khắc phục hậu quả, phục hồi lại tình trạng
môi trường như trước khi bị ô nhiễm.
Chủ thể của kiểm soát ô nhiễm môi trường không chỉ là Nhà Nước mà
còn là các doanh nghiệp, các cộng đồng dân cư, các hiệp hội ngành nghề,
các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.

Biện pháp thực hiện: Không chỉ được thực hiện bằng các biện pháp mệnh
lệnh – kiểm soát, bằng các công cụ hành chính mà còn được thực hiện đồng
bộ bằng các công cụ kinh tế, các biện pháp kỹ thuật, các giải pháp công
nghệ, các yếu tố xã hội và yếu tố thị trường… trong đó yếu tố thị trường,
yếu tố xã hội ngày càng được quan tâm, cân nhắc và lựa chọn.
Nội dung hay các hình thức pháp lý của kiểm soát ô nhiễm môi trường:
Thu thập, quản lý, công bố các thông tin về môi trường, xây dựng và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch kiểm soát ô nhiễm, ban hành và áp dụng các tiêu
chuẩn môi trường, quản lý chất thải, xử lý khắc phục tình trạng môi trường
bị ô nhiễm…
THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY
I Đối với những vấn đề môi trường toàn cầu.
Sau hơn 30 năm kể từ Hội nghị đầu tiên về môi trường của thế giới
(Stockholm 1972) đến nay, cộng đồng thế giới đã có nhiều nỗ lực để đưa
vấn đề môi trường vào các chương trình nghị sự ở cấp quốc tế và quốc gia.
Tuy vậy hiện trạng môi trường toàn cầu được cải thiện không đáng kể. Môi
trường chưa được lồng ghép với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Dân số
toàn cầu tăng nhanh, sự nghèo đói, sự khai thác, tiêu thụ quá mức các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, sự phát
5
thải quá mức "khí nhà kính" v.v... là những vấn đề bức xúc có tính phổ biến
trên toàn cầu.
Trong "tuyên bố Johannesburg về phát triển bền vững" năm 2002 của liên
hợp quốc đã khẳng định về những thách thức mà nhân loại đang và sẽ phải
đối mặt có nguy cơ toàn cầu là:
" Môi trường toàn cầu tiếp tục trở nên tồi tệ. Suy giảm đa dạng sinh học tiếp
diễn, trữ lượng cá tiếp tục giảm sút, sa mạc hoá cướp đi ngày càng nhiều đất
đai màu mỡ, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đã hiển hiện rõ ràng.
Thiên tai ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Các nước đang phát triển
trở nên dễ bị tổn hại hơn. Ô nhiễm không khí, nước và biển tiếp tục lấy đi

cuộc sống thanh bình của hàng triệu người."
Một nghiên cứu được công bố tại Hội nghị lần thứ 9 các khu vực hoang dã
thế giới (WILD-9) vừa kết thúc tại Mexico đã khẳng định tổn thất và suy
thoái môi trường tự nhiên trên thế giới gây thiệt hại hàng năm từ 2,5 đến 4,5
nghìn tỉ USD . WILD-9 nhấn mạnh đã đến lúc phải cảnh báo nhân loại rằng
việc không quản lý Trái Đất một cách bền vững đang khiến ít nhất hơn 1 nữa
hành tinh không được bảo vệ
Thách thức khổng lồ mà nhân loại đang phải đối mặt trong thế kỷ 21 như
Trái Đất ấm lên, khan hiếm nước sạch, ô nhiễm, các nguồn lợi biển bị khai
thác cạn kiệt, nạn sa mạc hoá, sản xuất lương thực không bền vững... không
thể giải quyết được nếu không bảo vệ được hơn 50% diện tích đất liền và
các đại dương.
Sự cố môi trường tuy ít xảy ra nhưng luôn để lại hậu quả vô cùng nghiêm
trọng kể cả về người và của cho các nước. trong những năm gần đây thế giới
đã phãi hứng chịu những trận động đất mạnh kèm theo đó là song thần,
những cơn bão lớn ,lũ lụt hạn hán xãy ra triền miên , hoạt động trở lại của
những núi lửa gây ra lo ngại cho thế giới, bên canh đó nhiều sự cố do con
người tạo ra cũng gây ra tổn thất lớn như tràn dầu cháy rừng đang dặt ra cho
thế giới nhiều thách thức cần giải quyết
-II ) Đối với những vấn đề môi trường của việt nam.
1 ) ô nhiễm môi trường
1.1 ) thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay
Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát
triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển
6
kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình trạng tách rời
công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra phổ biến
ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường diễn ra
phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ
yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động

làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3
loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Trong ba
loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và
làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn
cho phép.
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến ngày 20/4/2008 cả
nước có 185 khu công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đến hết năm
2008, cả nước có khoảng trên 200 khu công nghiệp. Ngoài ra, còn có hàng
trăm cụm, điểm công nghiệp được Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quyết định thành lập. Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban
khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội, tỉ lệ các khu công nghiệp
có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi
chỉ đạt 15 - 20%, như Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công
nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như không
vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu công nghiệp đã hoạt
động có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã
vận hành) và 20 khu công nghiệp đang xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình
quân mỗi ngày, các khu, cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn
chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác. Tại Hội nghị triển khai Đề
án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai ngày 26/2/2008, các
cơ quan chuyên môn đều có chung đánh giá: nguồn nước thuộc lưu vực sông
Sài Gòn - Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm nặng, không đạt chất lượng mặt
nước dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt. Theo số liệu khảo sát do Chi cục
Bảo vệ môi trường phối hợp với Công ty Cấp nước Sài Gòn thực hiện năm
2008 cho thấy, lượng NH3 (amoniac), chất rắn lơ lửng, ô nhiễm hữu cơ (đặc
biệt là ô nhiễm dầu và vi sinh) tăng cao tại hầu hết các rạch, cống và các
điểm xả. Có khu vực, hàm lượng nồng độ NH3 trong nước vượt gấp 30 lần
tiêu chuẩn cho phép (như cửa sông Thị Tính); hàm lượng chì trong nước
vượt tiêu chuẩn quy định nhiều lần; chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn từ 3 - 9

7
lần... Tác nhân chủ yếu của tình trạng ô nhiễm này chính là trên 9.000 cơ sở
sản xuất công nghiệp nằm phân tán, nằm xen kẽ trong khu dân cư trên lưu
vực sông Đồng Nai. Bình quân mỗi ngày, lưu vực sông phải tiếp nhận
khoảng 48.000m3 nước thải từ các cơ sở sản xuất này. Dọc lưu vực sông
Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ
có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp
vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp
nhận... Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ
hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm
nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con
nông dân.
Một trong những vụ ô nhiễm gây ra nhiều bức xúc đối với dư luận nhất là vụ
việc ô nhiễm nước trên sông Thị Vãi của công ty Vedan. Công ty Vedan đã
thiết kế và lắp đặt hệ thống bơm, đường ống kỹ thuật để bơm dịch thải sau
lên men của Nhà máy sản xuất bột ngọt và Lysine từ bể chứa bán âm và bồn
chứa theo hệ thống đường ống (có đoạn chôn ngầm, có đoạn đi trên bề mặt
đất) ra cầu cảng số 1 qua đường ống cao su gân thép chìm sâu dưới sông Thị
Vải và cầu Cảng số 2 qua 2 trụ bơm cũng được cắm sâu xuống lòng sông
nhằm đổ trực tiếp ra sông Thị Vải.
Việc lắp đặt hệ thống xả dịch thải trên của Công ty Vedan là trái với quy
trình kỹ thuật xử lý chất thải, không đúng với nội dung báo cáo đánh giá tác
động môi trường đã được phê duyệt.
Hệ thống ống chằng chịt, trong đó có
8
nhiều đường ống ngầm xả thẳng nước thải chưa qua
xử lý xuống sông Thị Vải.
Theo tính toán của đoàn kiểm tra, tổng lượng dịch thải sau lên men xả trực
tiếp ra sông Thị Vải đã xác định được tính đến ngày 25/92008 từ xưởng
Lysinee và các bể chứa là 105.600 m

3
/tháng.
Theo kết quả đánh giá, sông Thị Vải đã thành dòng sông chết do mỗi ngày
phải tiếp nhận gần 94.000 m
3
/ngày/đêm từ các khu công nghiệp thuộc các
tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đặc biệt là hiện tượng ô nhiễm các chất
hữu cơ khu vực thượng lưu trải dài khoảng 7km trong tổng số 76km. Kết
quả kiểm tra cho thấy chỉ số DO thấp dưới giới hạn cho phép, hàm lượng
COD vượt tiêu chuẩn cho phép 2-5 lần, hàm lượng N-NH
3
vượt từ 4-8 lần
tiêu chuẩn cho phép. Chất lượng nước sông hiện nay không thể dùng cho
mục đích sinh hoạt, nên chủ yếu để khai thác giao thông, nuôi trồng thuỷ sản
và không thể phục vụ việc tưới tiêu thuỷ lợi theo quy chuẩn quốc gia về
chất lượng nước mặt.
Việc gây ô nhiễm của Vedan là vô cùng nghiêm trọng, mức độ ô nhiễm của
Vedan gây ra cho sông Thị Vải là 77% và đã khiến cho sông Thị Vải trở
thành dòng sông chết. ảnh hưởng của nó trên 1 đoạn sông dài 10-11km trong
phạm vi 9 xã của 3 tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh. Trên
thực tế mức độ gây ô nhiễm của Vedan không chỉ có thế. Sông Thị Vải với
chiều dài gần 80 km chảy qua TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh: Đồng Nai, Bà
Rịa -Vũng Tàu. Đây là dòng sông mang nguồn nước mặn, lợ với với chế độ
bán nhật triều và hệ động thực vật từ thượng đến hạ nguồn rất phong phú, đa
dạng. Tuy vậy, hiện nay dòng sông đang bị ô nhiễm nặng bởi ngày đêm phải
hứng chịu hàng chục ngàn khối nước thải trực tiếp từ các nhà máy, khu công
nghiệp đổ vào. Tại cửa cảng Nhà máy lân phốt phát thuộc Khu công nghiệp
Gò Dầu ở xã Phước Thái, huyện Long Thành (Đồng Nai), nước thải qua các
cửa cống tuôn màu đen đặc. Còn cửa xả nước thải của Công ty cổ phần
Vedan Việt Nam cũng tương tự và nước thải cũng trực tiếp từ cửa cống xả

thẳng ra sông. Vì vậy, khu vực từ cửa cảng Thị Vải đến lưu vực Nhà máy
Vedan Việt Nam, bầu không khí đậm đặc mùi hôi thối bốc lên. Ngòai việc bị
viêm xoang, những người sống ven con sông này cũng bị điêu đứng bởi tình
trạng cá tôm nuôi bị chết phơi bụng hàng loạt, vì vậy những dãy hồ nuôi cá
9
dọc bờ sông thuộc địa bàn xã Long Thọ bị bỏ không từ nhiều năm nay.
Không những thế, tình hình sức khỏe của người dân sống gần sông cũng
đang bị đe dọa.
Vedan đã phải ký nhận vào một văn bản hành chính, theo đó thừa nhận 10
hành vi vi phạm của mình:
1. Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên trong trường hợp
thải lượng thải từ 50m3/ngày đến dưới 5.000 m3/ngày đối với Nhà máy sản
xuất tinh bột biến tính của Công ty; vi phạm khoản 11, Điều 10, nghị định số
81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
2. Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên trong trường hợp
thải lượng nước thải từ 50m3/ngày đến dưới 5.000m3/ngày đối với các Nhà
máy sản xuất bột ngọt và Lysin của Công ty; vi phạm khoản 8 Điều 10, Nghị
định số 81/2006/NĐ- CP.
3. Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên trong trường hợp
thải lượng nước thải từ 50m3/ngày đến dưới 5.000/ngày đối với các nhà máy
khác của Công ty; vi phạm khoản 8, Điều 10, Nghị định số 81/2006/NĐ-
CP.
4. Nộp không đầy đủ các số liệu điều tra, khảo sát, quan trắc và các tài liệu
liên quan khác cho cơ quan lưu trữ dữ liệu thông tin về môi trường theo quy
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; vi phạm khoản 4, Điều 27, Nghị
định số 81/2006/NĐ- CP.
5. Không đăng ký cam kết bảo vệ môi trường với cơ quan quản lý Nhà nước
về bảo vệ môi trường đối với trại chăn nuôi heo; vi phạm khoản 3, Điều 8,
Nghị định số 81/2006/NĐ- CP.

6. Không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa
công trình vào hoạt động đối với Dự án đầu tư nâng công suất đối với phân
xưởng sản xuất Xút- Axít từ 3.116 tấn/ tháng lên 6.600 tấn/ tháng; vi phạm
khoản 3, Điều 9, Nghị định số 81/2006/NĐ- CP.
10
7. Không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa
công trình vào hoạt động đối với Dự án đầu tư nâng công suất đối với các
Nhà máy bột ngọt từ 5.000tấn/ tháng lên 15.000 tấn/tháng; tinh bột biến tính
từ 2.000 tấn/ tháng lên 4.000 tấn/tháng; Lysin từ 1.200 tấn/tháng lên 1.400
tấn/ tháng; bột gia vị cao cấp 20 tấn/tháng; PGA 700 tấn/năm; phân Vedagro
70.000 tấn/năm (rắn); 280.000 tấn/ năm (lỏng) về cảng 12.000 tấn; vi phạm
khoản 3, Điều 9, Nghị định số 81/2006/NĐ- CP.
8. Thải mùi hôi thối, mùi khó chịu trực tiếp vào môi trường không qua thiết
bị hạn chế môi trường; vi phạm điểm b, khoản 1, Điều 11, Nghị định số
81/2006/NĐ- CP.
9. Quản lý chất thải nguy hại không đúng quy định về bảo vệ môi trường, vi
phạm khoản 3, Điều 15, Nghị định số 81/2006/NĐ- CP.
10. Công ty xả nước thải vào nguồn nước không đúng vị trí quy định trong
giấy phép; vi phạm khoản 4, Điều 9, Nghị dịnh 34/2005/NĐ- CP ngày
17/3/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong tài
nguyên nước.
Vedan đã vi phạm các luật sau trong luật môi trường năm 2005 sau:
Điều 50 quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị khu dân cư
Điều 10.2 vi phạm tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh
Điều 81 thu gom xử lý nước thải
Điều 81 khoản 2 hệ thống sử lý nước thải phảo đảm bảo các yêu cầu
sau:
- Có quy trình công nghệ phù hợp với loại nước thải cần sử lý
- Đủ công suất phù hợp với loại nước thải cần phát sinh
- Xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường

- Của xả nước thải và hệ thống tiêu thoát phải đặt ở vị trí thuận
lợi cho việc kiểm tra, giám sát vận hành thường xuyên
Công ty vedan có thiết kế hệ thống xử lý nước thải nhưng vẫn có 1
đường ống kỹ thuật xả trực tiếp một lượng lớn nước thải chưa qua xử lý
xuống sông Thị Vải. Chất thải bị đổ xuống sông chủ yếu là dịch thải lỏng
chứa nước mật rỉ đường và các chất đặc sau khi chế biến từ các bể chứa lớn
có dung tích 6.000-15.000m3. Hệ thống đường ống xả nước thải được thiết
11
kế đi chìm, có trụ bơm cắm sâu xuống lòng sông Thị Vải, tránh không bị
phát hiện.
Hệ thống xử lý nước thải của Công ty Vedan được lắp đặt không
đúng với nội dung báo cáo trong đánh giá tác động môi trường.
Điều 93 khoản 3
a)Thực hiện các yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường quy định tại khoản 2 Điều này trong quá trình điều tra, xác định
phạm vi, giới hạn, mức độ, nguyên nhân, biện pháp khắc phục ô nhiễm và
phục hồi môi trường.
b) Tiến hành ngay các biện pháp để ngăn chặn, hạn chế nguồn gây ô
nhiễm môi trường và hạn chế sự lan rộng, ảnh hưởng đến sức khoẻ và đời
sống của nhân dân trong vùng;
c) Thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi
trường theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường quy định
tại khoản 2 Điều này;
d) Bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
Trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân cùng gây ô nhiễm môi trường
thì cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường quy định tại khoản 2
Điều này có trách nhiệm phối hợp với các bên liên quan để làm rõ trách
nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi
trường.

Từ khi vụ việc Vedan xả nước thải chưa qua xử lý xuống sông Thị
Vải bị phát hiện vào tháng 9/2008, cho đến tháng 8/2010 hội nông dân 3 tỉnh
đã nhiều lần nhóm họp với Vedan và cơ quan chức năng để xác định mức
bồi thường. Tuy nhiên, công ty này luôn bảo vệ quan điểm của mình là đưa
ra "mức hỗ trợ" thấp hơn rất nhiều.
Cụ thể, nông dân TP HCM yêu cầu bồi thường 45,7 tỷ đồng, Vũng
Tàu 53 tỷ đồng, Nai 120 tỷ đồng. Nhưng phía Vedan luôn yêu cầu nông dân
đưa ra bằng chứng va thiếu thiện chí khi khắc phục hậu quả và Vedan chỉ
chịu trả cho TP HCM 7 tỷ đồng, Vũng Tàu: 10 tỷ đồng, Đồng Nai 15 tỷ
đồng.
12
Về vấn đề khắc phục hậu quả ô nhiễm sông Thị Vải đã và đang được
bộ Tài nguyên và môi trường kết hợp với các bên liên quan nhằm sớm đưa
ra được các phương án khắc phục hiệu quả nhất nhưng nhìn về lâu về dài
muốn giải quyết dứt điểm được ô nhiễm trên sông Thị Vải trước hết cần giải
quyết được vấn đề xã thải ra sông của các doanh nghiệp mà trước hết là quản
lý môi trường của nhà nước về xử lý ô nhiễm tại các cụm khu công nghiệp
điều này đòi hỏi các cấp chính quyền cần kiêm quyết trong việc bảo vệ môi
trường và xử lý rắn trong những trường hợp gây ô nhiễm
Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa đáp
ứng được những tiêu chuẩn về môi trường theo quy định. Thực trạng đó làm
cho môi trường sinh thái ở một số địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân cận với các khu công
nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường. Họ phải sống chung
với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công nghiệp... Từ đó,
gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh quyết liệt của người dân
đối với những hoạt động gây ô nhiễm môi trường, có khi bùng phát thành
các xung đột xã hội gay gắt.
Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ
công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát

triển các làng nghề có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường
do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng.
Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử dụng trong các
làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và Nox thải ra trong quá
trình sản xuất khá cao. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam,
hiện nay cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền
thống, đang giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả
lao động thường xuyên và lao động không thường xuyên#. Các làng nghề
được phân bố rộng khắp cả nước, trong đó các khu vực tập trung phát triển
nhất là Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Tây Bắc bộ, Đồng bằng sông
Cửu Long. Riêng ở Đồng bằng sông Hồng có 866 làng nghề, chiếm 42,9%
cả nước. Hình thức các đơn vị sản xuất của làng nghề rất đa dạng, có thể là
gia đình, hợp tác xã hoặc doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sản xuất mang tính tự
phát, sử dụng công nghệ thủ công lạc hậu, chắp vá, mặt bằng sản xuất chật
chội, việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải ít được quan tâm, ý thức
13
bảo vệ môi trường sinh thái của người dân làng nghề còn kém, bên cạnh đó
lại thiếu một cơ chế quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng của Nhà
nước, chưa có những chế tài đủ mạnh đối với những hộ làm nghề thủ công
gây ô nhiễm môi trường và cũng chưa kiên quyết loại bỏ những làng nghề
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nên tình trạng ô nhiễm môi trường tại
các làng nghề ngày càng trầm trọng và hiện nay đã ở mức “báo động đỏ”.
Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của những người dân
làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận,
gây phản ứng quyết liệt của bộ phận dân cư này, làm nảy sinh các xung đột
xã hội gay gắt.
Chúng ta hãy xem xét vấn đề ô nhiễm của làng nghề Bát Tràng


Làng gốm Bát Tràng: đâu đâu cũng thấy phế thải từ gốm
Những năm trước đây, , gần 1.000 lò nung gốm bằng than đốt hàng trăm tấn
than và vật liệu làm cho đường bẩn, bụi, không khí, môi trường ô nhiễm,
nồng nặc mùi than. Các lò gốm sứ thủ công nằm sát nhà ở của dân, theo kiểu
14
"3 cùng" (ăn, ở, sản xuất), chưa được tách riêng, người dân Bát Tràng ngộp
trong bầu không khí ô nhiễm nặng, khí than nồng nặc đến tức thở, với 70%
dân số bị mắc bệnh rối loạn đường hô hấp và hơn 80% bị đau mắt hột. Mỗi
năm, Bát Tràng tiêu thụ khoảng 70.000 tấn than, phát thải ra không khí
khoảng 130 tấn bụi và thải ra môi trường 6.800 tấn tro xỉ…
Mức độ ô nhiễm làng nghề ảnh hưởng rất lớn tới đơi sống của người dân
xung quanh. rác thải từ các lò nung gốm hầu hết là đất đá, lượng rác thải này
không thể phân hủy hay chôn lấp hầu hết được vứt ra các bãi trống nhưng
lượng rác này tích tụ nhiều năm đã khiến cho đâu đâu cũng là phế thải gốm
nó ảnh hưởng trực tiếp tới diện tích đất ở đây không canh tác cũng không
kinh doanh được . trong khi đó bụi bẩn khói từ lo gốm phát tán ra không khí
làm ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân sống quanh đây cũng như người
dân đi lại qua đây mùi khói bụi nồng nặc ảnh hưởng rất nhiều tới hô hấp và
các bệnh liên quan trong nhiều trường hợp còn gây ra khó thở và ngạt thở
lượng CO2 thoát ra ngoài không khí còn ảnh hưởng tới không khí góp phần
vào ô nhiểm trầm trọng hơn không khí
Trước thực trạng ô nhiễm môi trường, năm 2006, Ban quản lý Dự án nâng
cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa phối
hợp cùng UBND xã Bát Tràng, Hiệp hội gốm sứ Bát Tràng triển khai dự án
“Thúc đẩy ứng dụng lò gas nung gốm tiết kiệm năng lượng” tại làng nghề.
Mặc dù các lò ga có nhiều ưu việt nhưng giá thành cao cần có diện tích mặt
bằng và vốn đầu tư…, nên vẫn còn gần 200 lò đốt gốm bằng than gây ô
nhiễm môi trường đang hoạt động. Tuy các đường ngõ xóm đã được xã và
dân bê tông, cứng hóa, nhưng các đường trục của xã còn là đường đất, chưa
có rãnh thoát nước, mới mưa đã lầy lội, mới nắng đã bụi, khổ cả dân và

khách. Nước sinh hoạt cũng chỉ gọi là sạch tạm thời.
Bên cạnh các khu công nghiệp và các làng nghề gây ô nhiễm môi trường, tại
các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm cũng ở mức báo động. Đó là các ô nhiễm
về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn... Những
năm gần đây, dân số ở các đô thị tăng nhanh khiến hệ thống cấp thoát nước
không đáp ứng nổi và xuống cấp nhanh chóng. Nước thải, rác thải sinh hoạt
(vô cơ và hữu cơ) ở đô thị hầu hết đều trực tiếp xả ra môi trường mà không
15
có bất kỳ một biện pháp xử lí nào ngoài việc vận chuyển đến bãi chôn lấp.
Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày người dân ở các thành phố
lớn thải ra hàng nghìn tấn rác phần lớn lượng rác thải này được thu gom đến
địa điểm chôn lấp ở phía ngoại thành, vẫn chưa có các biện pháp xử lý rác
hiệu quả hơn được sử dụng như tái chế hay tái sử dụng được áp dụng. lượng
rác thải này nếu không được sử lý 1 cách triệt để sẽ gây ra ô nhiễm môi
trường rất nghiêm trọng khu vực xung quanh các khu chôn lấp như ô nhiễm
đất, nước không khí… đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước ngầm sẽ rất nguy
hiễm nếu nguồn nước ngầm tại tại đây bị ô nhiễm nó sẽ ãnh hưởng đến
nguồn nước ngầm sử dụng không chỉ ngoại thành mà cả trong nội thành.như
vậy chúng ta xử lý môi trường tại 1 khu vực nhưng lại gây ra ô nhiễm tại 1
khu vực khác mà có thể tác động gây ô nhiễm trở lại cho khu vưc đã được
xử lý. Trong khi đó tại các cơ sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn mét khối
nước thải độc hại mỗi ngày nguồn nước thải này là nguyên nhân chính dẫn
đến ô nhiễm nghiêm trọng các con sông trong nội thành dẫn đến nguồn nước
sinh hoạt bị ô nhiễm. đặc biệt vẫn còn nhiều cơ sở sản xuất lớn ở trong nội
thành sẽ rất nguy hiểm cho người dân khi phải sống chung ,vụ nước sinh
hoạt ở khu Trung Hòa Nhân Chính bị ô nhiễm là 1 minh chứng về ô nhiễm
nguồn nước tại hà Nội . Nghiên cứu mới đây nhất của Liên đoàn Quy hoạch
và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc cho thấy mức ô nhiễm asen trong
nguồn nước ở Hà Nội đã lên tới 40 lần so với mức độ cho phép, nhiều điểm
khác có mức ô nhiễm tới 20 lần. Ô nhiễm amôni (NH4+) cũng vượt mức cho

phép 20 – 30 lần. Cùng với đó tốc độ lún ở một số điểm trong thành phố
cũng đã tới mức báo động. TS Nguyễn Văn Đản, Liên đoàn trưởng Liên
đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc cho biết kết quả
nghiên cứu mới đây của Liên đoàn cho thấy việc khai thác và đi kèm với đó
là chất lượng nước ngầm của thành phố ở nhiều khu vực đã ở mức đáng báo
động. Theo nghiên cứu này, về cơ bản nguồn nước ngầm tự nhiên ở Hà Nội
là sạch dù lượng sắt và mangan trong nước ở Hà Nội khá lớn. Điều quan tâm
nhất hiện nay về mặt nước nhiễm bẩn ở Hà Nội là hàm lượng asen (còn gọi
là thạch tín), amôni (NH4), sinh ra từ các vật chất hữu cơ, xác động vật, chất
thải lỏng và rắn…, trong nước quá cao. Những điểm ô nhiễm asen đáng lưu
ý mà Liên đoàn ghi nhận được là ở Đan Phượng (Hà Tây cũ) với mức 0,4
microgram/lít – cao hơn 40 lần so với tiêu chuẩn cho phép (tiêu chuẩn cho
phép là 0,01 microgram/lít). Một số khu vực ở Hà Nội cũng bị xếp vào diện
16
phải báo động như khu vực Nam Dư thuộc huyện Thanh Trì với những điểm
ô nhiễm Hoàng Mai, Quỳnh Lôi…ở mức 0,1 đến 0,2 microgram/lít (cao gấp
10 đến 20 lần so với mức cho phép). Một số điểm khác mức ô nhiễm chừng
10 lần so với mức cho phép cũng được ghi nhận như khu vực ven sông
Hồng. Khu vực phía Bắc Hà Nội không có ghi nhận hiện tượng nhiễm asen.
Tình trạng ô nhiễm không khí trong khu vực nội đô xảy ra rất nghiêm trọng
số lượng phương tiện quá nhiều nhu cầu đi lại lớn các phương tiện giao
thông thải ra hàng trăm tấn bụi, khí độc mỗi ngày lượng khí bụi này tích tụ
trong không khí rất nguy hiểm cho người đi đường trong khi thành phố gần
như chưa có các biện pháp hữu hiệu để xử lý ngoại trừ việc phun nước trên
các tuyến đường nhưng thời gian phun nước thường vào sáng sớm khi mà
lượng khí thải không lớn không giúp giãm thiểu được nồng độ khí thải vào
giờ cao điểm khi số lượng phương tiện lưu thông lớn Tại các đô thị lớn như
Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, ô nhiễm không khí, chất thải rắn, nước thải đã tới
mức đáng báo động. Theo số liệu quan trắc của Sở Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội, không khí ở hầu hết các khu vực dân cư nội đô đều bị ô

nhiễm. Đặc biệt, các khu vực như đường Khuất Duy Tiến, Quốc lộ 32,
đường Nguyễn Trãi… ô nhiễm bụi đang ở mức cao nhất Hà Nội và xu
hướng ngày càng gia tăng. Các khu vực ngã tư có mật độ xe lưu thông cao,
nồng độ bụi cũng vượt quy chuẩn cho phép. Kết quả quan trắc bụi giao
thông 6 tháng đầu năm 2009 cho thấy tại 250 điểm đo kiểm, có 180 điểm có
hàm lượng bụi lơ lửng vượt quy chuẩn. Nồng độ bụi tại TP Hồ Chí Minh
cũng có xu hướng ngày càng gia tăng và vượt từ 1,08 - 1,55 lần so với tiêu
chuẩn cho phép. Bụi là vấn đề đáng lo ngại nhất bởi đến 89% giá trị quan
trắc không đạt chuẩn. Ô nhiễm không khí tại khu công nghiệp cũng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống. Khảo sát gần đây cho thấy, lĩnh
vực công nghiệp chiếm 40% nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường. Trong
tổng số khoảng 34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày, thì Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh có mức benzen và sunfua đioxit đáng báo động.
Một trong những điển hình về ô nhiễm môi trường tại đô thị là vấn đề ô
nhiễm sông Tô Lịch
17
Sông Tô Lịch chảy trong địa phận Hà Nội. Dòng chính sông Tô Lịch chảy
qua các quận, huyện: Thanh Xuân, Hoàng Mai, Thanh Trì. Sông Tô Lịch là
một trong những con sông lớn ở Hà Nội nhưng hiện nay đã trở thành nơi
thoát nước thải của thành phố. Do tốc độ đô thị hoá, quy hoạch xây dựng
thiếu đồng bộ, sự thiếu ý thức của những người dân sống ở ven sông Tô
Lịch đã làm cho con sông trở nên ô nhiễm nặng nề.
Một trong những cống nước đổ xuống sông Tô Lịch
Cũng theo bộ Tài nguyên - Môi trường, hầu hết các con sông thuộc nội
thành Hà Nội đều nhiễm khuẩn hữu cơ vượt gấp từ 3 tới 5 lần mức cho
phép; đối với nước thải sinh hoạt thì mức độ vượt tiêu chuẩn vượt tới hàng
chục lần, thậm chí hàng trăm lần. Sông Tô Lịch đã có dấu hiệu ô nhiễm kim
loại nặng, vào mùa khô mức độ ô nhiễm càng trở nên trầm trọng. Kết quả
kiểm tra gần đây cho thấy lượng ôxy hòa tan (DO) đạt rất thấp. Lượng ôxy

18
hóa học trong nước vượt từ 7 tới 8 lần; ôxy sinh học vượt 7 lần. Lượng
khuẩn coliform trong nước cũng cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.
Nước ở sông Tô Lịch có màu đen, có váng, cặn lắng và có mùi tanh.
Việc ô nhiễm sông Tô Lịch ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của người dân thủ
đô, không chỉ ảnh hưởng tới nguồn nước sinh hoạt mà còn ảnh hưởng rất lớn
tới cuộc sống của người dân. hàng ngày người dân vẫn phải ngửi mùi tanh
bốc lên từ sông,mùi tanh này rất khó chịu và rất có hại cho sức khỏe, nhiều
hoạt động kinh doanh vui chơi giải trí xung quanh sông trước kia giờ hầu
như không còn do mùi khó chịu của sông, người dân không dám sử dụng
nguồn nước của sông do ô nhiễm, hệ sinh thái sông Tô Lịch bị suy giãm
trầm trọng các loài cá không thể sống được tình trạng cá chết sãy ra thường
xuyên. Không chỉ ảnh hưởng tới người dân nó còn ảnh hưởng tới khách du
lịch tới Hà Nội và hình ảnh của Hà Nội trong mắt bạn bè năm châu. Sông Tô
Lịch là sông chảy qua khu vực nội đô thành phố nơi là trung tâm của cả
nước, khách du lịch khi đến đây thường hay tránh những khu vực bị ô nhiễm
và không trong lành sông Tô Lịch là điển hình nhất về ô nhiễm tại Hà Nội và
là 1 trong những địa điểm các khách du lịch không muốn tham quan không
những thế vấn đề ô nhiễm sông Tô Lịch là vấn đề nổi cộm của thành phố
trong nhiều năm gần đây cũng đã khiến cho hình ảnh của thành phố mất dần
trong mắt bạn bè khi nhắc tới Hà Nội. không chỉ ảnh hưởng tới người dân
Hà Nội mà nó còn ảnh hưởng tới người dân hạ lưu sông Nhuệ và sông Đáy
nơi cuối nguồn sông Tô Lịch làm thay đổi hệ sinh thái nơi đây suy giãm
nguồn lợi thủy sản làm chết hoặc giãm nhiều loài cá ảnh hưởng đến sinh
hoạt người dân nơi đây nơi mà tạp quán sinh hoạt còn lạc hậu vẫn sử dụng
nguồn nước sông làm nguồn nước chính
Nguyên nhân gây ô nhiễm ở sông Tô Lịch chính là tốc độ tăng dân cư quá
nhanh, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã xả nước thải sinh hoạt, nước thải công
nghiệp xuống sông. Chỉ với một đoạn ngắn từ đường Bưởi tới Cầu Giấy có
hơn trăm cống xả lớn, nhỏ đổ xuống con sông Tô Lịch.

Đã có nhiều ý kiến đưa ra về giải pháp các cải tạo sông Tô Lịch. Hiện nay
thành phố đang tiến hành 1 số giải pháp cải tạo sông Tô Lịch Theo đề án của
Sở Tài nguyên Môi trường, đoạn sông được chọn để xử lý là đầu nguồn sông
(tại cửa điều tiết nối với Hồ Tây) đến điểm hợp lưu với sông Lừ (thuộc
19
phường Hoàng Liệt). Theo đó, đơn vị chức năng sẽ tiến hành thu gom nước
thải theo từng đoạn và xử lý bằng trạm xử lý quy mô nhỏ tại các cửa xả lớn,
nước sau xử lý lại bổ cập cho sông Tô Lịch.Ngoài ra, sông Tô Lịch sẽ được
bổ cập nước để pha loãng giảm nồng độ ô nhiễm. Tuy nhiên, mối quan ngại
của cơ quan chức năng là các kênh mương đã bị ngắt quãng trong quá trình
đô thị hóa. Ngoài ra, Sở TNMT còn đề xuất với UBND thành phố cơ chế
khuyến khích các hộ dân ứng dụng chế phẩm vi sinh, hóa sinh để xử lý nước
thải, đặc biệt là nước đen từ bể phốt, trước khi thải ra cống chung đổ xuống
sông Tô Lịch. Các khu nhà ở, công trình mới xây dựng đều phải có công
nghệ xử lý nước thải triệt để, hiệu quả để đảm bảo nước thải trước khi ra môi
trường.
Theo một kết quả nghiên cứu mới công bố năm 2008 của Ngân hàng thế giới
(WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất,
nước, không khí, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô
nhiễm đất nặng nhất. Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên
hợp quốc, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu châu á về mức độ ô
nhiễm bụi.
Không chỉ tại các đô thị mới gặp các vấn đề về môi trường, khu vực nông
thôn cũng đang gặp các vấn đề nghiêm trọng về môi trường. Do nhận thức
còn kém phong tục tập quán lạc hậu và ý thức người dân đang làm cho các
khu vực nông thôn gặp các vấn đề về ô nhiễm môi trường. hàng ngày rác
thải sinh hoạt của người dân được xả trực tiếp ra môi trường không qua xử
lý một số nơi có điểm tập kết chôn lấp tập chung nhưng việc tập kết rác thải
gặp rất nhiều khó khăn do tập quán sinh hoạt của người dân và cũng do ý
thức của người dân , trong khi đó các cơ sở sản xuất nhỏ các cơ sở chăn nuôi

hàng ngày cũng thải ra lượng chất thải không nhỏ do hạn chế về nhận thức
và cũng do lợi nhuận việc sử lý môi trường được bỏ sang 1 bên hậu quả là
xuất nhiều loại dịch nguy hiểm cho gia súc gia cầm mà tốc độ lan truyền rất
nhanh khó kiểm soát trong khi đó tại các làng nghề xuất hiện nhiều loại bệnh
nguy hiểm điển hình là các căn bệnh phổi thận , ung thư.. Ô nhiễm môi
trường nông thôn góp phần gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng
đồng. Tỷ lệ mắc các bệnh lý ở một số địa phương xấp xỉ 50% dân số; đặc
biệt mắc nhiều các bệnh như ung thư, mắt hột, đường ruột, tiêu chảy... Ô
nhiễm nguồn nước, đất, không khí... đe doạ đến sức khoẻ người dân nông
20
thôn. Nhiều “làng ung thư” đã xuất hiện ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ, Hải
Phòng; gần đây xuất hiện dịch bệnh, các loại bệnh lạ... trong đó có phần liên
quan đến môi trường. Có thể lấy ví dụ tại các lưu vực sông bị ô nhiễm ở xã
Hoàng Tây (tỉnh Hà Nam), tỷ lệ mắc bệnh đường ruột ngày càng tăng, trong
đó 21% trẻ em dưới 5 tuổi bị mắc bệnh tiêu chảy; 86% trẻ em bị mắc bệnh
giun đũa; 76% mắc bệnh giun tóc... Các xã Hòa Hậu, Bồ Đề, Vĩnh Trù,
nghiên cứu cho thấy 94,4% giếng khoan có hàm lượng asen (thạch tín). khi
đó các cấp cũng chưa quan tâm nhiều đến môi trường tại khu vực nông thôn
do nhiều nguyên nhân đây là vấn đề then chốt để giải bài toán về ô nhiễm tại
đây. Ông Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên&Môi trường
Việt Nam, cho biết nếu vào cuối những năm 1960, chỉ có khoảng 0,48%
diện tích đất canh tác sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thì hiện nay là 100% với
trên 1.000 chủng loại thuốc, trong đó nhiều loại thuốc có độc tính cao. Ông
Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên&Môi trường Việt
Nam, cho biết nếu vào cuối những năm 1960, chỉ có khoảng 0,48% diện tích
đất canh tác sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thì hiện nay là 100% với trên
1.000 chủng loại thuốc, trong đó nhiều loại thuốc có độc tính cao. Hằng
năm, nước ta sử dụng trung bình 15.000 - 25.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật.
Bình quân 1ha gieo trồng sử dụng đến 0,4 - 0,5 kg thuốc bảo vệ thực vật. Sử
dụng không hợp lý, không tuân thủ theo đúng những quy định nghiêm ngặt

về quy trình sử dụng nên thuốc bảo vệ thực vật gây nhiều tác hại cho chính
người sử dụng thuốc và người tiêu dùng nông sản và thực phẩm có chứa dư
lượng thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời ảnh hưởng đến môi trường sống.Báo
cáo tổng hợp của Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên&Môi trường, mỗi
năm hoạt động nông nghiệp phát sinh khoảng 9.000 tấn chất thải nông
nghiệp nguy hại, chủ yếu là thuốc bảo vệ thực vật, trong đó không ít loại
thuốc có độ độc cao đã bị cấm sử dụng. Ngoài ra, cả nước còn khoảng 50 tấn
thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu tại hàng chục kho bãi; 37.000 tấn hóa chất
dùng trong nông nghiệp bị tịch thu đang được lưu giữ chờ xử lý. Môi trường
nông thôn đang phải gánh chịu những bất lợi từ hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Nước ta có trên 77% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn với cơ
cấu ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ. Trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, khu vực nông thôn
mang tính chiến lược, trước mắt cũng như lâu dài. Vì vậy, nông thôn chi phối
21
và tác động nhiều mặt đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường quốc
gia.
Ô nhiễm môi trường biển cũng đang xảy ra với mức độ báo động do sức ép
về kinh tế khả năng quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên biển kém. ô
nhiễm dẫn đến sự cạn kiệt các tài nguyên cá, nhất là các loài cá ven bờ; tính
đa dạng sinh học ngày càng bị đe doạ do phá huỷ môi trường sống như rừng
ngập mặn, rạn san hô; axit hoá đất do phát quang rừng ven biển trên các
vùng đất phèn để làm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; ô nhiễm biển do
dầu bởi vận tải biển, các hoạt động khai thác dầu ngoài khơi và các sự cố
tràn dầu; ô nhiễm do nước cống đô thị không được xử lý; sử dụng hoá chất
trong nông nghiệp và công nghiệp không quản lý chặt chẽ.
Những sự cố tràn dầu như thế này cũng là một trong những nguyên nhân gây
ô nhiễm môi t rường biển (ảnh internet)
Thêm vào đó, các loại thiên tai như bão, lũ và xâm nhập mặn tác động lớn
tới môi trường biển và có xu hướng trầm trọng thêm bởi các hoạt động của

con người. Theo số liệu thống kê cho thấy, khoảng 70% ô nhiễm biển và đại
22
dương có nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ các chất xả thải của các thành
phố, thị xã, thị trấn, từ các ngành công nghiệp, xây dựng, hoá chất...trong đó
đáng kể nhất và nguy hại nhất là các chất thải từ các nhà máy thông qua hệ
thống cống rãnh, xả thải ra biển và đại dương một lượng lớn các chất bồi
lắng, hoá chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các chất phóng xạ.
Hàng năm, trên 100 con sông ở nước ta thải ra biển 880km
3
nước, 270 - 300
triệu tấn phù sa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm biển, như các chất
hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại khác từ các khu dân
cư tập trung; từ các khu công nghiệp và đô thị; từ các khu nuôi trồng thuỷ
sản ven biển và từ các vùng sản xuất nông nghiệp. Đến năm 2010, dự tính
lượng chất thải sẽ tăng rất lớn ở vùng nước ven bờ, trong đó dầu khoảng
35.160 tấn/ 1 ngày, nitơ tổng số 26 - 52 tấn/ngày và tổng amonia 15 - 30 tấn/
ngày. Ô nhiễm dầu ngày càng gia tăng .Đáng chú ý là tình trạng ô nhiễm
biển do dầu có xu hướng gia tăng, phức tạp hơn, số lượng tàu thuyền gắn
máy loại nhỏ, công suất thấp, cũ kỹ và lạc hậu tăng nhanh, nên khả năng thải
dầu vào môi trường biển nhiều hơn. Các tàu nhỏ chạy bằng xăng dầu đã thải
ra khoảng 70% lượng dầu thải vào biển. Ngoài ra, hoạt động của tàu thương
mại qua tuyến hàng hải quốc tế cắt qua Biển Đông cũng thải vào biển Việt
Nam một lượng lớn dầu rò rỉ, dầu thải và chất thải sinh hoạt mà đến nay
chưa thể thống kê đầy đủ. Hiện nay, hàm lượng dầu trong nước biển của
Việt Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu chuẩn Việt Nam và vượt rất xa
tiêu chuẩn Hiệp hội các Nước Đông Nam Á (ASEAN). Đặc biệt, có những
thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng dầu đạt mức 1,75
mg/l, gấp 6 lần giới hạn cho phép; vịnh Hạ Long có 1/3 diện tích biển hàm
lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73 mg/l. Các vụ tai nạn tàu dầu và tai
nạn hàng hải là một trong những nguồn chính gây nên tình trạng ô nhiễm

biển do dầu tại Việt Nam (chiếm khoảng 43% tổng lượng dầu được đưa vào
Việt Nam). Năm năm qua, chỉ tính các vụ tai nạn gây sự cố tràn dầu trên 50
tấn đã có hơn 50 vụ.Đáng chú ý là các vụ tràn dầu nghiêm trọng những năm
gần đây có xu hướng tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường nhất là
các vùng nuôi trồng thuỷ sản.Theo thống kê 1992 - 2006, có 35 vụ sự cố tràn
dầu xảy ra tại Việt Nam, trong đó, điển hình là vụ tàu Neptune Aries đâm
vào cầu cảng Cát Lái - TP. Hồ Chí Minh (tràn 1.864 tấn dầu DO), được đền
bù 4,2 triệu USD/19 triệu USD theo đánh giá; tàu Kasco Monrovia tại Cát
Lái - Thành phố HCM (tràn 518 tấn dầu DO). Gần đây, do thời tiết xấu, tàu
23
Ðức Trí chở 1.700 tấn dầu FO đã bị chìm tại vùng biển Bình Thuận trong
khi vào khu vực Mũi Né (Phan Thiết) để tránh gió. Đa phần các sự cố tràn
dầu là do đâm va của tàu dầu, trong đó: 56% số vụ < 700 tấn và 100% số vụ
> 700 tấn. Bên cạnh đó, vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm
dò và khai thác dầu khí, ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn,
trung bình mỗi năm hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải
dầu khí, trong đó có 20 - 30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa
và nơi xử lý. Chất lượng môi trường đi xuống cũng đang làm cho môi
trường biển bị ô nhiễm. Báo cáo hiện trạng môi trường đã chỉ ra rằng chất
lượng môi trường biển và vùng ven biển tiếp tục bị suy giảm. Trầm tích biển
ven bờ là nơi trú ngụ của nhiều loài sinh vật đáy đặc sản, nhưng chất lượng
cũng thay đổi. Một số vùng ven bờ bị đục hoá, lượng phù sa lơ lửng tăng đã
ảnh hưởng đến du lịch, giảm khả năng quang hợp của một số sinh vật biển
và làm suy giảm nguồn giống hải sản tự nhiên. Nước biển của một số khu
vực có biểu hiện bị axit hoá do độ pH trong nước biển tầng mặt biến đổi
trong khoảng 6,3 - 8,2. Nước biển ven bờ có biểu hiện bị ô nhiễm bởi chất
hữu cơ, kẽm (Zn), một số chủng thuốc bảo vệ thực vật. Hiện tượng thuỷ
triều đỏ xuất hiện tại vùng biển Nam Trung Bộ, đặc biệt là tại Khánh Hoà,
Ninh Thuận, Bình Thuận làm chết các loại tôm cá đang nuôi trồng ở các
vùng này. Chất lượng môi trường biển thay đổi dẫn đến nơi cư trú tự nhiên

của loài bị phá huỷ gây tổn thất lớn về đa dạng sinh học vùng bờ. Có khoảng
85 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 70 loài đã được đưa
vào sách đỏ Việt Nam. Hiệu suất khai thác hải sản giảm. Thêm vào đó, tình
trạng dùng các ngư cụ đánh bắt cá có tính chất huỷ diệt diễn ra khá phổ biến
như xung điện, chất nổ, đèn cao áp quá công suất cho phép…làm cạn kiệt
các nguồn lợi hải sản ven bờ. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về
trữ lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt.
Theo Hội khoa học kỹ thuật
biển Việt Nam, trên 70% các chất gây ô nhiễm từ nguồn lục địa đổ ra vùng
cửa sông và ven biển, sau đó do sự tương tác ở vùng biển, các chất nguy hại
này tích luỹ lại với hàm lượng ngày càng cao tại ven bờ. Kết quả quan trắc ở
những khu vực lân cận thuộc các cảng biển cho thấy, tỷ lệ nước biển ở đây ô
nhiễm dầu, mỡ đều vượt chuẩn cho phép tới vài chục lần. Ví dụ như Đà
Nẵng 24,6 mg/lít, Ninh Thuận 18,1, Phú Yên 14,7 và Khánh Hòa 14,6
mg/lít. Đó là chưa kể trên vùng biển nước ta bình quân mỗi năm xảy ra từ 5-
24
7 vụ tai nạn các tàu, thuyền tràn dầu đổ vào biển hàng ngàn tấn hiện đang
làm cho môi trường biển bị ô nhiễm trầm trọng hơn
1.2 ) nguyên nhân
Tình trạng ô nhiễm môi trường nêu trên có nhiều nguyên nhân chủ quan,
khách quan khác nhau, song tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
1.2.1 ) những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ
môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo
thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo
vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động
kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất.
Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng
bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban
hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế
hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh

tế... trong việc bảo vệ môi trường.
1.2.2 ) quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực
lượng Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả
hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối
với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi
trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục,
phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường. Rất ít trường
hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; còn các biện pháp xử lí khác
như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉnh
hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng
nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết,
doanh nghiệp trây ỳ nên cũng không có hiệu quả.
1.2.3 ) các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức
đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách
nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm
tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất
dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ
biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án
đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí
25

×