Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Đạo đức hồ chí minh về tình yêu thương con người sống có tình nghĩa và vận dụng vào giáo dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.34 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ TÂM
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ
TÌNH YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI,
SỐNG CÓ TÌNH NGHĨA VÀ VẬN DỤNG VÀO
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
VĨNH PHÚC HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội-2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ TÂM
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ
TÌNH YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI,
SỐNG CÓ TÌNH NGHĨA VÀ VẬN DỤNG VÀO
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
VĨNH PHÚC HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số:60.22.03.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Phạm Ngọc Anh
Hà Nội-2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu được sử
dụng trong luận văn có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận
văn chưa được công bố qua bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào.


Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2014
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Tâm
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ về nhiều mặt của các thầy cô giáo, bạn bè và người thân.
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới
thầy giáo – PGS.TS Phạm Ngọc Anh - người hướng dẫn khoa
học - đã tận tình hướng dẫn tôi phương pháp nghiên cứu trong quá
trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa
Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội; Các lãnh
đạo, quản lý cùng các thầy, cô giáo trường Cao đẳng kinh tế - kỹ
thuật Vĩnh Phúc và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
cũng như trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi và là nguồn động viên tinh thần cho tôi trong suốt quá
trình hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Tâm
MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống quan điểm về đạo đức cách
mạng và tấm gương đạo đức của Người, chứa đựng nhiều giá trị bền vững, ổn
định. Trong đó, tình yêu thương con người, sống có tình nghĩa ở Hồ Chí Minh
là một nét sáng về đạo đức, hàm chứa giá trị nhân văn cao đẹp, có ảnh hưởng
đến sự hình thành nhân cách con người Việt Nam. Những giá trị đó rất cần

được nghiên cứu kỹ, theo chiều sâu để giáo dục cho thế hệ trẻ, nhất là thanh
niên – sinh viên.
Trong “Thư gửi thanh niên và nhi đồng Toàn quốc nhân dịp Tết
Nguyên Đán năm 1946”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Một năm khởi đầu
từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa Xuân của xã hội”.
Tuổi trẻ là sức mạnh, là công cụ tạo động lực cho sự phát triển của đất nước.
Và trong đó, sinh viên là một lực lượng hùng hậu có vai trò quan trọng. Sinh
viên là lực lượng xã hội đặc thù - họ là những trí thức tương lai của đất nước,
đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặc
biệt, sinh viên hiện nay sinh ra và lớn lên trong môi trường công nghệ thông
tin phát triển mạnh mẽ và xu thế hội nhập quốc tế. Trong đó, sinh viên Việt
Nam hiện nay là lớp người chịu nhiều ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực
từ những biến đổi của đất nước và thế giới. Sinh viên Việt Nam mang những
đặc điểm riêng ngoài các đặc điểm chung của người Việt Nam. Đó là: trẻ,
năng động sáng tạo, có tri thức, dễ tiếp thu cái mới, nhạy cảm với các vấn đề
chính trị xã hội, dễ thích nghi, luôn muốn được tự khẳng định mình trước mọi
người. Nhưng nói chung đại bộ phận sinh viên Việt Nam phát huy được
những ưu điểm và truyền thống tốt đẹp của các thế hệ sinh viên đi trước, thi
đua học tập, rèn luyện, tiếp thu tiến bộ khoa học, công nghệ, chủ động tiếp thu
những nét đẹp của sinh viên thế giới, tạo nên đặc trưng lớp sinh viên những
năm đầu thế kỉ XXI.
3
Song, bên cạnh những mặt tích cực, sinh viên cũng đang chịu sự tác
động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và xu hướng khu vực hóa,
quốc tế hóa. Một bộ phận sinh viên chạy theo lối sống thực dụng, có biểu hiện
xa rời các giá trị đạo đức truyền thống, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo
đức và lối sống. Như Đảng ta khẳng định: “tình trạng suy thoái, xuống cấp về
đạo đức, lối sống, sự gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, đáng lo ngại nhất
là trong giới trẻ”.
Cùng với xu hướng chung của sinh viên cả nước, sinh viên trường Cao

đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc cũng có những mặt tích cực cần phát huy
và những yếu tố tiêu cực cần sửa đổi. Đặc biệt về mặt tư tưởng, đạo đức. Để
xứng đáng là một “chủ nhân tương lai”của đất nước nói chung, của tỉnh nhà
nói riêng, ngoài việc nâng cao năng lực (cái tài) còn cần phải chú trọng đến
việc trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống (cái đức) theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Điều đó chỉ có được khi gia đình, nhà trường và xã hội
đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ tương lai
của chúng ta nói chung và sinh viên ở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Vĩnh Phúc nói riêng, đó là lý do tôi chọn “Đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu
thương con người, sống có tình nghĩa và vận dụng vào giáo dục đạo đức cho
sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc hiện nay”làm đề tài
cho Luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng và là một tấm gương tiêu biểu, mẫu
mực về đạo đức cách mạng nói chung. Những tư tưởng về đạo đức của Hồ
Chí Minh luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là kim chỉ nam cho cán bộ Đảng, Nhà
nước và các thế hệ người dân Việt Nam noi theo. Vì vậy, tư tưởng đạo đức
của Hồ Chí Minh luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu.
Thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau được
công bố trên các sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học trong và ngoài
4
nước. Ở đây tác giả xin được đưa ra một vài công trình nghiên cứu tiêu biểu
liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài như sau:
Các công trình nghiên cứu về đạo đức Hồ Chí Minh nói chung trong đó
có tình yêu thương con người, sống có tình nghĩa. Đó là: “Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng”(Nxb Sự thật, năm 1976); “Chủ tịch Hồ Chí Minh với
vấn đề đạo đức cách mạng”(Nxb Chính trị Quốc gia, năm 1993); “Tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh”của Lê Hữu Nghĩa (Nxb Lao động năm 2000); “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, của Lê Trọng Ân in trong tạp chí Triết học
số 1 năm 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức , của tác giả Thành Duy,

(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996) … Các công trình này đã khái
quái một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, trong đó có trình
bày những quan điểm đạo đức của Hồ Chí Minh về tình yêu thương con
người, sống có tình nghĩa khá đầy đủ.
- Về Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo đức cho sinh
viên hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên ở đây, tác giả chỉ
xin được đưa ra một số công trình cơ bản, tiêu biểu: Văn Tùng, Tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999;
Đoàn Nam Đàn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Hà Huy Thông (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức của người cán bộ quân sự, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh…
- Về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và việc giáo dục sinh viên hiện
nay có một số công trình nghiên cứu như sau: Dương Tự Nam, Thanh niên
học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, 2003; Nguyễn Hữu Đức ( chủ
biên), Giáo dục, rèn luyện thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, 2000; Đặng Quốc Bảo, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục, 2008, NXB Thanh niên; Trần Minh Đoàn (2002), Giáo dục
đạo đức cho thanh niên học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện
nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh…
5
Đặc biệt, qua việc thực hiện Chỉ thị 06 – CT/TW năm 2006 của Bộ chính
trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; Chỉ thị 03 – CT/TW năm 2011 về việc “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, hằng năm các tổ chức, đoàn
thể, các cấp chính quyền đều có chuyên đề hướng dẫn thực hiện học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho tất cả các đối tượng. Tầng lớp học
sinh, sinh viên trong cả nước nói chung là một trong những đối tượng được chú
trọng. Tuy nhiên, để nghiên cứu đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu thương con
người, sống có tình nghĩa như một đối tượng cụ thể thì chưa có công trình nào.

Đồng thời ở trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật Vĩnh Phúc, việc nghiên cứu
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu thương con
người, sống có tình nghĩa cho sinh viên hiện nay vẫn chưa có tác giả nào đề cập
một cách cơ bản và có hệ thống. Vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề
này với lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải cũng như đưa ra
phương hướng giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Nghiên cứu những giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về tình
yêu thương con người, sống có tình nghĩa, đánh giá thực trạng việc giáo dục
tình yêu thương con người, sống có tình nghĩa cho sinh viên trường Cao đẳng
Kinh tế - kỹ thuật Vĩnh Phúc, từ đó, đề xuất một số phương hướng, nội dung,
giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh
viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Khái quát cơ sở hình thành của đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu
thương con người, sống có tình nghĩa.
6
- Phân tích, làm rõ những giá trị của đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu
thương con người, sống có tình nghĩa.
- Đánh giá thực trạng giáo dục tình yêu thương con người theo đạo đức
Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu, nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu thương con người và sống có tình
nghĩa cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tư tưởng đạo đức, tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh về tình yêu thương con người, sống có tình nghĩa; Thực trạng giáo dục
tình yêu thương con người, sống có tình nghĩa cho sinh viên trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc theo di sản Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu thương con người, sống
có tình nghĩa.
- Đề tài còn nghiên cứu việc giáo dục tình yêu thương con người, sống
có tình nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc từ năm 2007 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm của chủ nghĩa
Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về đạo đức.
Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, tác giả vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp phương pháp phân
tích, tổng hợp, điều tra xã hội học…
7
6. Đóng góp mới của luận văn
- Trong luận văn này, tác giả muốn góp phần vào việc nghiên cứu tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu thương con người, sống
có tình nghĩa và vận dụng giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay, đặc biệt
cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc.
- Cũng từ đây cho chúng ta cách nhìn nhận đúng đắn, khách quan về đạo
đức, lối sống của sinh viên và việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Vĩnh Phúc theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
- Tác giả có đề xuất những phương hướng, giải pháp có tính khả thi cao
trong giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên của trường.
- Luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp nhà trường cũng

như Phòng Công tác chính trị, các giáo viên thuộc trường Cao đẳng Kinh tế -
kỹ thuật Vĩnh Phúc trong việc giáo dục học sinh, sinh viên theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo để nghiên cứu và giảng dạy ở các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Đoàn,
công tác sinh viên.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 02 chương, 07 tiết.
8
CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ TÌNH YÊU THƯƠNG
CON NGƯỜI, SỐNG CÓ TÌNH NGHĨA
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất sớm và có vai
trò quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Với tư cách là bộ
phận của triết học, những tư tưởng đạo đức đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước
đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Ở phương Tây, đạo đức có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos, cũng có
nghĩa là thói quen, tập quán. Theo phần gốc của khái niệm, khi nói đến đạo
đức là nói đến các thói quen, tập quán sinh hoạt và ứng xử của con người
trong cộng đồng, trong xã hội. Còn theo tiếng Latinh “đạo đức”bắt nguồn là
mos (moris)- có nghĩa là lề thói. Chúng ta có thể thấy, cả hai danh từ này về
bản chất đều nói đến những lề thói, tập tục thể hiện mối quan hệ giữa con
người với con người trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, sau này, với sự
phát triển chuyên sâu trong nghiên cứu, người ta phân biệt hai khái niệm:
ethicos là đạo đức học và moral là đạo đức.
Theo quan niệm ở phương Đông, khái niệm đạo đức lần đầu tiên xuất
hiện trong kinh văn của nhà Chu. Đạo có nghĩa là con đường, là đường sống
của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn
chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Quan

niệm này chủ yếu là của người Trung Quốc cổ đại mà theo đó, đạo đức chính
là những yêu cầu, những nguyên tắc do chính con người đặt ra trong cuộc
sống mà từ đó con người phải tuân theo.
Theo “Từ điển Bách Khoa Việt Nam”: “Đạo đức là một trong những
hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao gồm những chuẩn mực điều chỉnh
hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia
đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc hoặc toàn xã hội). Căn cứ vào những chuẩn
mực ấy, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện
9
và ác, về cái không được làm (vô đạo đức) và về nghĩa vụ phải làm”[65, 738-
739].
Trong “Từ điển Triết học”: “Đạo đức là một trong những hình thái ý
thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của
con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không trừ lĩnh vực
nào.”“Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu, lợi ích của xã hội
hoặc của giai cấp viểu hiện dưới hình thức những quy định và những sự đánh
giá đã được mọi người thừa nhận và đã thành hình một cách tự phát, được
củng cố bằng sức mạnh của tấm gương quần chúng, của thói quen, phong tục,
dư luận xã hội. Cho nên, những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn
phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu
sự ra lệnh của ai cả…Chúng khác phong tục đơn giản hoặc truyền thống đã
được duy trì bởi sức mạnh của một trật tự đã ổn định.”[60, tr 156-157]
Cùng với sự phát triển của xã hội, những ý thức và tư tưởng đạo đức
hình thành và phát triển. Tuy nhiên, trước khi quan niệm của Mác ra đời, khái
niệm “đạo đức”mới chỉ dừng lại ở những tư tưởng và chưa được giải quyết
một cách khoa học về nguồn gốc, bản chất của nó. Nguồn gốc của đạo đức
vẫn được coi là xuất phát từ “mệnh lệnh của thượng đế”, “từ ý niệm tuyệt
đối”hay là bản tính bất biến của con người mà sinh ra đã có… Những quan
niệm trước Mác không xuất phát từ điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội để
suy ra toàn bộ lĩnh vực tư tưởng trong đó có tư tưởng đạo đức. Chỉ đến Mác,

Ănghen, Lênin, đạo đức mới được nghiên cứu hệ thống.
Theo Triết học Mác – Lênin, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh một lĩnh vực riêng biệt trong tồn tại xã hội của con người. Giá trị
đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của
con người. Ở đây, đạo đức là sự phản ánh của các quan hệ xã hội được Mác
và Ănghen lập luận: trước khi sáng lập lý luận và nguyên tắc bao gồm cả triết
học và luận lý học, con người đã sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho
đời sống. Do đó, khi nói đạo đức là một hình thái ý thức xã hội của con người
10
là nói tới sự phản ánh tồn tại xã hội của con người. Đây là một quan niệm
mang tính cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo
và các nền đạo đức khác không thể đạt tới.
Như vậy, có thể định nghĩa đạo đức như sau: đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội thể hiện những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh sự
đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với xã hội.
Điều này được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, sức mạnh truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội.
Ở đây, đạo đức trước hết là một hình thái ý thức xã hội. Tức là, nó phản
ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực cuộc sống của con người bao gồm
những hoạt động sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống của
con người. Đạo đức cũng giống như các quan điểm triết học, chính trị, nghệ
thuật, tôn giáo… đều thuộc về kiến trúc thượng tầng. Và ở mỗi chế độ kinh tế
xã hội khác nhau thì quan điểm về nguồn gốc đạo đức có nhiều thay đổi theo
cơ sở đã sinh ra nó. Chúng ta sẽ thấy đạo đức của xã hội nguyên thủy khác
đạo đức của chế độ chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến hay đạo đức chế độ
tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức thường mang tính giai
cấp. Giai cấp thống trị luôn tìm cách duy trì và củng cố các mối quan hệ xã
hội đang có. Còn giai cấp bị bóc lột, tùy theo nhận thức về sự bất công từ
những quan hệ xã hội đó mà họ đứng lên đấu tranh chống lại, đồng thời đề ra
quan niệm đạo đức riêng của mình. Đạo đức không chỉ có tính giai cấp mà

còn có tính kế thừa. Mặc dù các chế độ xã hội thay thế nhau nhưng những
điều kiện sinh hoạt của xã hội không mất đi hoàn toàn. Tất nhiên sự kế thừa
này mang tính chọn lọc để phù hợp với xu hướng và điều kiện thực tại. Điều
này lý giải tại sao có những phẩm chất, nguyên tắc đạo đức được sinh ra từ
thời phong kiến nhưng vẫn tồn tại cho đến ngày nay… Từ đây, chúng ta cũng
có thể thấy sự phát sinh và phát triển của đạo đức còn là một quá trình do sự
phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
11
Một trong những nội dung để thấy được bản chất của đạo đức là: đạo
đức là một hiện tượng xã hội mang tính chuẩn mực bao gồm hệ thống những
giá trị. Và các hiện tượng đạo đức này thường được biểu hiện dưới những
hình thức khẳng định hoặc phủ định. Tức là, nó có thể tán thành hay phản đối
thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân với nhau và với cộng đồng trong
xã hội ấy. Sự ra đời, phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không
tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo
đức. Thông thường, nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển của
xã hội thì hệ thống giá trị ấy cũng mang tính tích cực, nhân đạo. Và ngược lại,
nếu nó không phù hợp thì hệ thống ấy sẽ mang tính tiêu cực, phi nhân đạo.
Những chuẩn mực đạo đức này thường có nội dung phù hợp với hệ thống ý
thức xã hội. Chính vì vậy mà trong cuộc sống nói chung, đạo đức có vai trò
khá quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người.
Trong quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất, xuất hiện những
hành vi không phù hợp với lối sống, suy nghĩ, thậm chí ảnh hưởng đến kết
quả của công việc. Điều này dẫn đến việc con người đã tạo ra nhiều cách thức
để điều chỉnh hành vi đó. Đó có thể là pháp luật, là tôn giáo hay đạo đức…
Đối với đạo đức, việc điều chỉnh hành vi của con người được thông qua các
khái niệm: thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa… Những khái
niệm này ở thời đại lịch sử nào cũng được đưa ra làm chuẩn mực đánh giá.
Tuy nhiên, nó có sự thay đổi theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ: Trong xã hội
có giai cấp thì những chuẩn mực đạo đức thường là của một giai cấp nhất

định đề ra cho hành vi của mỗi cá nhân. Trong khi đó, ở xã hội không giai cấp
thì những chuẩn mực ấy lại thường do yêu cầu của xã hội. Có một điều chung
là khi nó đã trở thành chuẩn mực thì xã hội hay các giai cấp trong xã hội đó
đều phải thừa nhận. Như vậy, mọi hành vi của cá nhân đều chịu sự giáo dục
cũng như sự đánh giá dựa trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của xã hội
thời kỳ đó. Điều này lý giải tại sao khi chúng ta hành động trái với những
chuẩn mực đạo đức xã hội sẽ cảm thấy lương tâm không thoải mái. Và ngược
12
lại, lương tâm chúng ta sẽ cảm thấy phấn khích nếu hành động phù hợp với
đòi hỏi của xã hội. Rõ ràng, ở đây đạo đức điều chỉnh hành vi của mỗi con
người. Điều cần lưu ý là các chuẩn mực đạo đức được phổ biến trong quan hệ
giữa người với người và không chịu sự điều chỉnh của các bộ máy nhà nước
và đó là các quan hệ tình cảm như: tình bạn, tình đồng chí, tình yêu… Trong
đạo đức bao giờ cũng chứa đựng cái phổ biến, cái văn minh làm thành hạt
nhân quan trọng với những đặc tính lý tưởng, đạo lý cao và những nguyên lý
đạo đức tốt đẹp được trao truyền từ đời này qua thời đại khác.
Khi bàn về khái niệm đạo đức, Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa
đạo đức là gì. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, thuật ngữ đạo đức được
Người dùng với ba nghĩa: Nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp.
Theo nghĩa rộng: Đạo đức là hình thái ý thức xã hội mà nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm
giàu tính người trong các quan hệ xã hội kể cả trong các quan hệ chính trị, tư
tưởng. Theo nghĩa hẹp: Đạo đức là các quy tắc, chuẩn mực dùng điểu chỉnh
hành vi con người trong quan hệ giữa người với người trong hoạt động sống.
Còn theo nghĩa rất hẹp: Đó là hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là hành động
cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với
người khác, thể hiện lương tâm hoặc bổn phậ cá nhân trong những hoàn cảnh
đặc thù không lặp lại.
Có thể nói, vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một
cách toàn diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư

đến việc công, từ lao động sản xuất ở địa phương đến chiến đấu ngoài mặt
trận, từ học tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến
đạo đức ở mọi phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc. Việc Hồ
Chí Minh nghiên cứu đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn nhận
mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời
sống xã hội và của mỗi con người.
13
1.1.2. Đạo đức cách mạng
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, không có một nền đạo đức nào chung cho
tất cả mọi người, mọi nơi, mọi quốc gia dân tộc. Và đạo đức cũng không phát
sinh từ ý muốn của Thượng đế hay ý niệm tuyệt đối theo Hêghen. Nó cũng
chẳng phải xuất phát từ ý chí hay bản tính của con người. Như phần trên tác
giả trình bày, đạo đức xuất phát từ đời sống thực tế và tình trạng kinh tế của
xã hội. Do đó, nó luôn thay đổi và mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai
cấp, giai cấp thống trị có đạo đức của họ và giai cấp bị trị cũng có đạo đức
riêng của mình. Đạo đức cách mạng chính là đạo đức của giai cấp công nhân
hay còn gọi là đạo đức cộng sản.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì đạo đức cách mạng không dạy con người phải
biết cư xử làm sao cho phải đạo làm người, nhưng nó lại chỉ ra cụ thể phải
làm gì để trở thành người cách mạng – một con người đấu tranh cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp khỏi áp bức bóc lột…Ở Việt
Nam, đạo đức cách mạng có xu hướng gắn liền với đạo đức truyền thống dân
tộc. Phải chăng đó là cách hiểu rộng rãi, cởi mở mà Hồ Chí Minh đã đưa ra
nhằm đem lại sự gần gũi, dễ hiểu với người nông dân Việt Nam khi làm cách
mạng? Bởi chỉ khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh quyết tâm ra đi tìm
đường cứu nước và quyết định chọn con đường cách mạng vô sản làm đường
đi của cách mạng dân tộc, thì khi đó mới hình thành khái niệm đạo đức cách
mạng ở Việt Nam.
Trên thực tế, đạo đức mà Hồ Chí Minh đề cập tới là đạo đức mới – đạo
đức cách mạng. Đây là một khái niệm mà có lẽ Hồ Chí Minh là người đưa ra

đầu tiên. Hồ Chí Minh chỉ rõ, người làm cách mạng phải có đạo đức cách
mạng. Dù vậy, nhưng đạo đức cách mạng không hề phủ nhận đạo đức truyền
thống. Đạo đức cách mạng được hình thành và phát triển trong những điều
kiện chính như: sự kế thừa đạo đức truyền thống được xem là tiền đề, là cơ sở
trực tiếp; những thắng lợi to lớn của phong trào cách mạng và kháng chiến
trong đó toàn dân tích cực tham gia; sự ảnh hưởng sâu rộng của chủ nghĩa
14
Mác – Lênin; và cuối cùng là bản thân Hồ Chí Minh – một con người tiêu
biểu cho sự biện chứng giữa truyền thống và cách mạng, giữa dân tộc và thế
giới. Tuy nhiên, xét đến cùng đạo đức cách mạng xuất hiện trong quá trình
đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu
hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương quý trọng con người; có
tinh thần quốc tế trong sáng. Đạo đức cách mạng ở đây được coi là gốc của
nhân cách, là gốc của cách mạng. Muốn cách mạng thành công thì người làm
cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Người viết: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[46, tr. 292]. Có đạo đức
cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không lùi bước, chán
nản…khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm tốn,
không kèn cựa, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo…Đạo
đức là gốc của cách mạng nhưng phải thấy rõ được người làm cách mạng phải
có cả đức và tài. Nếu không có cả đức và tài thì sẽ làm hại cho dân. Trong đức
có tài, tài càng lớn thì đức càng cao. Như vậy, đức và tài phải gắn kết trong
mối quan hệ biện chứng với nhau.
Hồ Chí Minh đã xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và
thực tiễn. Về mặt lý luận: Người đã để lại cho chúng ta một hệ thống quan

điểm sâu sắc và toàn diện về đạo đức. Đó là những quan điểm thực sự khoa
học, biện chứng phù hợp với tiến bộ của xã hội loài người. Đó là sự kết hợp
nhuần nhuyễn những quy tắc đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Về mặt
thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một mặt không thể thiếu của
cán bộ, đảng viên. Nói đến đây, chúng ta có thể thấy, bản thân Hồ Chí Minh
là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Người là đại diện mẫu mực
15
kết tinh tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất của người Việt Nam với đạo đức
người cộng sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Những quy tắc đạo đức của
Người nêu ra đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của cả dân tộc ta trong cuộc đấu
tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị
với các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Tóm lại, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là
nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con người. Vì vậy, tu dưỡng
đạo đức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự
nguyện dựa vào lương tâm và trách nhiệm của mỗi con người.
Vậy đạo đức cách mạng là cái đức, cái tài hình thành trong những
người làm cách mạng, mà đối tượng cụ thể ở đây là lực lượng tham gia vào
quá trình đấu tranh cho sự nghiệp của đất nước. Đó là sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đưa dân tộc Việt Nam sánh vai cùng các
dân tộc khác trên thế giới.
1.1.3. Đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hai phương diện này của đạo đức Hồ Chí Minh
thống nhất biện chứng, khi bóc tách từng mặt chỉ có ý nghĩa tương đối, tiện
cho việc nghiên cứu theo chiều sâu.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người, mỗi một dân tộc khác
nhau có hệ tư tưởng và quan niệm đạo đức khác nhau. Đối với dân tộc Việt
Nam cũng vậy, những tư tưởng đạo đức được kế thừa từ đời này qua đời
khác. Trong đó, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một sự kết tinh sâu sắc giữa

truyền thống và hiện đại. Một điều nổi bật trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh là tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa tập thể, vì tập thể và do tập thể. Đây
là đặc điểm lớn nhất và quan trọng nhất.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện,
sâu sắc về vị trí, vai trò của đạo đức, những chuẩn mực của đạo đức cách
mạng cơ bản và các nguyên tắc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Trong đó quan
16
điểm của Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức, yêu thương con người,
sống có tình nghĩa là một nội dung quan trọng.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn
diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc
công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học
tập công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở
mọi phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến
quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một
cách nhìn nhận mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa
dạng của đời sống xã hội và của mỗi con người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vừa là đạo đức Việt Nam, vừa là đạo đức cộng sản, vừa mang cốt cách
của văn hóa đạo đức phương Đông vừa mang dáng dấp của đạo đức phương
Tây.
Đạo đức Hồ Chí Minh không phải là đạo đức chỉ để tu luyện, đó là đạo
đức của hành động. Chỉ có hành động cách mạng thì tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh mới thể hiện được giá trị của mình. Theo đó, người có đạo đức là người
ý thức được rõ ràng mình cần phải làm gì và mình sẽ đi đến đâu để làm điều
đó. Trong sự nghiệp to lớn của cả tập thể, cả dân tộc thì mỗi người phải thấy
cho hết vị trí của mình. Trên cơ sở đó, hành động hết mình cho sự nghiệp
chung của dân tộc và nhân loại. Những tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất
nhân bản và cũng rất thực tế. Trong đó, người lao động sáng tạo ra của cải vật
chất và tinh thần của xã hội chiếm điạ vị quan trọng. Chính tư tưởng coi trọng
lao động ấy đã khiến cho đạo đức Hồ Chí Minh có một khả năng động viên

rộng lớn toàn xã hội vào sự nghiệp chung của dân tộc. Nói như vậy không có
nghĩa là tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh phát triển tự thân vào các tầng lớp xã
hội để đơm hoa kết trái. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí
Minh, Người luôn nêu cao tấm gương học tập, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức.
Cùng với đó, Người cũng đòi hỏi như vậy với các thế hệ con người Việt Nam.
Những lời dạy của Người được cả dân tộc và thế giới coi trọng, học tập. Và
17
khi tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng đạo đức xã hội
Việt Nam thì một lớp người mới hình thành trên cơ sở tư tưởng đạo đức mới
ấy. Đó là cả một thế hệ con người mới đã, đang và sẽ tiếp tục học tập, làm
việc theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một thời kỳ chuyển tiếp từ một
thời kỳ cũ sang một thời kỳ mới, khác hẳn các hình thái đạo đức trong xã hội
cũ. Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh không đơn thuần là ý chí chủ quan của
con người mà là kết quả của sự phát triển xã hội. Đây là một xã hội đang
vươn lên tới cái chân, thiện, mỹ mà con người luôn luôn muốn vươn tới
nhưng chưa đủ điều kiện để thực hiện nó. Trong xã hội mới, hình thành
những con người mới hoạt động trên nền tảng đạo đức mới. Ở nước ta, nền
tảng đạo đức mới ấy chính là tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Và bản thân Hồ
Chí Minh chính là mẫu người lý tưởng nhất về một tấm gương rèn luyện đạo
đức.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy được rằng: sống là
hành động và mỗi hành động là một sự cam kết có trách nhiệm và có tác động
đến số phận của tập thể, của xã hội
1.2. Cơ sở hình thành đạo đức Hồ Chí Minh về tình yêu thương con
người, sống có tình nghĩa
Một trong những giá trị quan trọng trong truyền thống tinh thần của dân
tộc ta là giá trị đạo đức và nhân văn. Khi nói đến chủ nghĩa nhân văn, chúng
ta hiểu một cách chung nhất là những nguyên lý triết học và đạo đức xã hội về
quan hệ giữa những con người với nhau. Với tư cách là một hiện tượng văn

hóa tinh thần, chủ nghĩa nhân văn bao hàm nội dung căn bản của quá trình
văn minh mà ở đó các chuẩn mực đạo đức, lý tưởng xã hội, tự do ý chí, sự
tương trợ và hợp tác, tôn trọng quyền và phẩm giá con người, công bằng, bình
đẳng, chính nghĩa… được biểu hiện ra với những hình thức đa dạng, phong
phú của nó. Các giá trị đạo đức truyền thống và nhân văn là phương thức tồn
tại của xã hội, chúng được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác để hình
18
thành nên những giá trị mới của xã hội. Trong việc xem xét cơ sở hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về tình yêu thương con người và sống có tình nghĩa,
tác giả xin được đưa ra ba nội dung chính mà trước tiên xin đề cập đến các giá
trị truyền thống Việt Nam.
1.2.1. Các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
Có thể nói rằng: các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam khá đa
dạng, phong phú. Trong đó, tinh thần yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng
đồng dân tộc của dân tộc Việt Nam, đại đoàn kết dân tộc đã hình thành và
củng cố trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Điều này tạo thành truyền
thống bền vững thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi con người Việt
Nam. Trong các giá trị truyền thống ấy, giá trị đầu tiên mà chúng ta cần phải
nói đến là: chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam.
Việt Nam có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chủ yếu
là lịch sử đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc. Điều này cho chúng ta
thấy tư tưởng chủ yếu của dân tộc Việt Nam là tinh thần yêu nước.
Sự hình thành và phát triển của tư tưởng yêu nước đi đôi với sự hình
thành và phát triển của quốc gia dân tộc. Chính vì vậy, lịch sử Việt Nam trải
qua bao nhiêu thời kỳ thịnh suy thì tư tưởng yêu nước có bấy nhiêu tiến lên
hay suy thoái. Một trong những sự kiện lịch sử khởi đầu cho tư tưởng yêu
nước là một nghìn năm dân tộc ta chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc
nhưng dân tộc Văn Lang ấy không những không mất đi mà quốc gia Văn
Lang lại được khôi phục thậm chí phát triển cao hơn – đất nước Đại Việt.
Chúng ta không thể kể hết những cảnh nhân dân bị xiềng xích và chém

giết. Bao nhà cửa bị phá hủy tan hoang. Bao của cải mà dân ta phải bỏ mồ
hôi, nước mắt để làm ra đã bị kẻ thù tước đoạt. Quân xâm lược còn tìm mọi
cách để thủ tiêu giá trị tinh thần của nhân dân ta, muốn đồng hóa nhân dân ta
theo lối sống của chúng, từ phong tục, tập quán đến cách ăn, ở, suy nghĩ và
hành động. Suốt hàng ngàn năm chiến đấu,với bao đời từ Bà Trưng, Bà Triệu,
Lý Bôn, Mai Hắc Đế rồi đến Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, nhân dân
19
ta đã liên tục chống lại sự nô dịch và đồng hóa ấy. Và cuối cùng đã quét sạch
quân xâm lược ra khỏi đất nước.
Phải chăng điều này có được là từ một hệ thống tư tưởng yêu nước hình
thành trên đất tổ Hùng Vương. Người Việt ta đã chủ động phát huy các giá trị
tinh thần của tổ tiên để lại. Chính vì vậy, chúng ta không bao giờ quên hình
ảnh Thánh Gióng quật tan lũ giặc xâm lăng bằng lũy tre làng hay hình ảnh hai
Bà Trưng cưỡi voi đè nát quân xâm lược. Rồi chiến thắng năm 938 dưới sự
lãnh đạo của Ngô Quyền đã khẳng định chủ quyền của dân tộc Việt. Qua bao
đời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, tất cả bọn họ đều đem quân sang đánh
chiếm nước ta. Nhưng tất cả chúng đều thất bại bởi các phong trào giải phóng
dân tộc. Như vậy tư tưởng yêu nước cứ tiếp tục được bồi đắp và phát triển
ngày một mạnh mẽ hơn. Và đến khi có điều kiện, tinh thần ấy, tư tưởng ấy
được khẳng định thông qua căn bản cụ thể hơn là những áng văn thơ, đồng
thời phát triển thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam.
“Nam quốc sơn hà, nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thu”
(Nam quốc sơn hà – Lý Thường Kiệt)
Lời nói ấy như một sự khẳng định, lời tuyên bố trước kẻ thù. Nó cũng
giống như một lời thể hiện tinh thần yêu nước hùng hồn của dân tộc. Tư
tưởng yêu nước của dân tộc tiếp tục phát triển và được biểu hiện rõ hơn cả
trong “Hịch Tướng Sĩ”– Trần Quốc Tuấn, đồng thời trở thành chủ nghĩa yêu
nước truyền thống Việt Nam trong “Bình Ngô Đại Cáo”– Nguyễn Trãi.
Nền độc lập của dân tộc tuy đã dành được, nhưng vẫn luôn bị đe dọa từ

đời này qua đời khác. Điều cay đắng không bao giờ quên được của nhân dân
ta là cảnh nhà tan, nước mất, dân lầm than. Đây cũng chính là động lực thôi
thúc nhân dân ta kiên cường giữ nước. Với khí thế quật cường của mình, nhân
dân ta qua các thời đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần đã không ngừng đổ máu để
đánh đuổi ngoại xâm và bảo vệ tổ quốc. Nhưng thành quả của độc lập cuối
cùng lại rơi vào giai cấp phong kiến trong nước, còn tự do thì chưa bao giờ có
20
được. Đó là khi đất nước không còn bóng ngoại xâm, khi địa vị thống trị của
giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng được củng cố thì cũng là lúc họ ngày
càng thoái hóa biến chất. Vua chúa sống trong xa hoa, nhung lụa bắt nhân dân
phục vụ, lao động vất vả. Và cảnh nhân dân đói rét đầy đường, lầm than cơ
cực, sống trong cảnh “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Những áp bức,
bóc lột của triều đình phong kiến đã làm nhân dân không thể chịu được, nhân
dân khắp mọi nơi đã liên tục nổi dậy. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân ta
cứ bùng lên, bị dập tắt rồi lại bùng lên. Đã bao triều đại bị lật đổ, bao ông vua
tàn bạo bị trừng phạt. Tuy vậy, nhưng xã hội Việt Nam chưa có điều kiện để
đổi mới, nhân dân chưa có con đường nào để giải phóng cho bản thân mình.
Lòng căm giận của nhân dân chỉ biết bộc lộ qua các câu ca dao, tục ngữ, rồi
những câu chuyện tiếu lâm đả kích vào tầng lớp vua chúa, thầy đồ, thầy
cúng…
Rồi đến một ngày, sự bạc nhược và phản bội của vua quan nhà Nguyễn
đã đẩy nước ta vào sự thống trị của thực dân Pháp. Từ đây, nhân dân lại chịu
cảnh chồng chất hai tầng áp bức: thực dân và phong kiến. Trong những ngày
tối tăm, khổ nhục, nhân dân ta lại tiếp tục đấu tranh bất khuất và anh dũng.
Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta
đã đi vào lịch sử oai hùng như: khởi nghĩa của Trương Định, phong trào Cần
Vương, cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng…Song, tất cả bị thực dân đàn
áp, chìm trong biển máu. Trong hoàn cảnh tối tăm của đất nước, Nguyễn Ái
Quốc đã tạo ra bước ngoặt lịch sử lớn nhất cho đất nước Việt Nam. Đó là tìm
được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành độc lập cho nhân dân.

Có lẽ chính truyền thống yêu nước, thương dân đã ăn sâu vào dòng máu mỗi
con người Việt nên nó đã một phần thúc đẩy Hồ Chí Minh vượt qua bao gian
nan vất vả nơi xứ người để đến với chân lý cách mạng, với chủ nghĩa Mác –
Lênin và quyết tâm lựa chọn con đường cách mạng vô sản để cứu nước. Với
con đường này, qua bao cuộc đấu tranh gian khổ, dân tộc ta đã giành được
độc lập, nhân dân đã có tự do. Thực tế đã chứng minh bằng những mốc lịch
21
sử quan trọng như: thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa; Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã
lập lại hòa bình ở Đông Dương, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng;
thắng lợi mùa xuân năm 1975 đã thống nhất đất nước, cả nước đi vào công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa; và công cuộc đổi mới đất nước năm 1986 đã
đưa Việt Nam dần thoát khỏi các quốc gia nghèo nàn lạc hậu trên thế giới, hội
nhập kinh tế thế giới.
Không thể phủ nhận được tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc
được hình thành, phát triển trong lịch sử và trải qua bao biến động, thăng
trầm. Mặc dù vậy nhưng nó đã gắn bó chặt chẽ mọi người trong cùng một
nước vào một tình yêu thương vô hạn, đồng thời nó gắn chặt vận mệnh của cả
dân tộc. Nó đã làm nên truyền thống dân tộc ta và được biểu hiện cụ thể bằng
lòng thương người, căm thù giặc, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Truyền thống ấy đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ đế Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh. Người đã nhận thức sâu sắc và luôn có ý thức nuôi dưỡng, phát
huy truyền thống đó. Bên cạnh đó, Người còn động viên nhân dân ta phát huy
nó để đánh giặc, giải phóng dân tộc. Điều này chứng tỏ truyền thống yêu
nước nồng nàn của dân tộc là một trong những cơ sở hình thành và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh về tình yêu thương con người.
Có lẽ, Độc lập – Tự do là cái quý nhất trên đời nên ngàn vạn Thanh
niên Việt Nam đời này qua đời khác đã đặt nó lên trên cả hạnh phúc, tuổi trẻ
và sinh mệnh. Đối với con người, có gì quý hơn chính cuộc sống của bản
thân, nhưng cuộc sống độc lập và tự do là niềm vui, là ước muốn mà thanh

niên Việt Nam kiên quyết từ chối cuộc sống làm nô lệ đê hèn để sẵn sàng
chiến đấu cho sự nghiệp của dân tộc. Không thấy được sự lựa chọn giá trị ấy
thì không thể thấy được hình ảnh của nhân dân ta trong những năm chiến đấu
vừa qua. Hàng triệu tấn bom đã giội trên đất nước ta nhằm hủy diệt mọi sinh
mệnh, mùa màng, nhà cửa. Bao thủ đoạn, âm mưu thâm độc của kẻ thù được
thi hành nhằm cám dỗ vật chất và lừa đảo về tinh thần. Nhưng không gì có thể
22

×