Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.6 KB, 61 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào Thế kỷ 21 ngành Giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 15 năm đổi mới
và thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình
thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường, trình độ dân trí được nâng
cao, chất lượng giáo dục có những chuyển biến bước đầu. Đảng và nhà nước ta luôn coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất
lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, xây dựng xã hội học
tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường
xuyên, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục.Trước đây, khi
còn trong chế độ bao cấp, ngành giáo dục nước ta chủ yếu chịu sự quản lý và đầu tư của
nhà nước, từ sau Đại hội VIII Đảng và Nhà nước khuyến khích mở cửa trong đầu tư
giáo dục, xã hội hóa giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư của ngành, giảm gánh nặng
đầu tư cho nhà nước, nâng cao hiệu quả trong đầu tư. Để đánh giá được tầm quan trọng
và hiệu quả của vốn ngân sách nhà nước đầu tư phát triển ngành giáo dục trong thời
gian qua, và vai trò của vốn NSNN cho giáo dục trong thời gian tới, đề tài được nghiên
cứu trong chuyên đề tốt nghiệp đó là: “Đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay”. Nội dung chính
của đề tài bao gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những vấn đề chung về đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước. Nội dung chính của chương nhằm tìm hiểu những
vấn đề chung nhất về đầu tư phát triển ngành giáo dục, vai trò của đầu tư phát triển
ngành giáo dục, vị trí nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển ngành giáo
dục.
Chương 2: Đánh giá tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước năm 2001 đến năm 2008. Nội dung chính của
chương xây dựng hình ảnh tổng quan về hiên trạng ngành giáo dục Việt Nam qua đó
đánh giá tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục từ nguồn vốn ngân sách nhà nước từ
năm 2001 đến nay.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp


Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu
tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trong thời gian
tới. Nội dung chính của chương đề cập đến chiến lược đầu tư phát triển ngành giáo dục
đến năm 2020 của Đảng và nhà nước, trên cơ sở đó cùng với tình hình đầu tư phát triển
ngành giáo dục đã đề cập đến ở chương 2, xây dựng nên một số giải pháp nhằm tăng
cường và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách
nhà nước trong thời gian tới.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH
GIÁO DỤC BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm và vai trò của đầu tư phát triển ngành giáo dục
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư phát triển ngành giáo dục
Đầu tư phát triển ngành giáo dục là hoạt động sử dụng các nguồn lực vật chất,
nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa kiến trúc hạ tầng mua sắm
trang thiết bị, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên
gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ
sở hạ tầng của ngành Giáo dục đang tồn tại và tạo và nâng cao chất lượng đào tạo của
ngành giáo dục.
1.1.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển ngành giáo dục
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 đến 2010 là : “Đưa đất nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại hóa”. Để thực hiện được nghị quyết mà Đảng và Nhà nước đã đề
ra cần tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội cho giáo dục, đầu tư giáo dục đào tạo ra
những con người có đạo đức, tri thức, tay nghề. Để tạo ra được những bước nhảy vọt
đó giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ có vai trò quyết định bởi ngành giáo dục giữ
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế

1.1.1.2.1. Góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình hoàn thiện hạ tầng xã hội, hạ tầng sản
xuất, thượng tầng kiến trúc của đất nước, một cách hoàn chỉnh và phục vụ tốt nhất cho
đời sống của con người. Hạ tầng xã hội là các công trình công cộng, được xây dựng để
phục vụ, nâng cao đời sống của cộng đồng, hạ tầng sản xuất là hệ thống các máy móc
thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm của đất nước, kiến trúc thượng
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
tầng là toàn bộ quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,…
cùng với đó là những thể chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể,… được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Mục tiêu công nghiệp hóa –
hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Như vậy, công nghiệp hóa không phải là chỉ
phát triển nền công nghiệp, mà là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất và dịch vụ
của nền kinh tế, cho đến các khâu trang thiết bị, phương pháp quản lý, tác phong lao
động, kỹ năng sản xuất. Để làm được điều này, cần phải có đội ngũ nguồn nhân lực
được qua đào tạo tỷ mỉ bài bản, trau chuốt từ đạo đức đến những kỹ năng nghề nghiệp.
Lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây, chúng ta chỉ quan niệm lao
động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng
nguồn lao động mỗi quốc gia (có thể ước tính bằng đầu người hay thời gian lao động).
Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến yếu tố phi vật
chất của lao động gọi là vốn nhân lực đó là nguồn nhân lực chất lượng cao, các lao động
có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những
lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao
động theo yếu tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phân
tích lợi thế và và vai trò quan trọng của nhân tố này trong tăng trưởng kinh tế của các
nước đang phát triển. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói riêng và các nước
đang phát triển nói chung được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố

vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước đang
phát triển còn thấp. Ngành giáo dục phát triển, đào tạo ra những thế hệ con người có đạo
đức, có trình độ sẽ thúc đẩy cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra nhanh và
đúng hướng. Con người được đào tạo, có khả năng tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật,
từ đó ứng dụng vào thực tiễn điều kiện ở Việt Nam, và phát huy được cơ sở vật chất đầu
tư, nếu đơn thuần chỉ đầu tư đổi mới trang thiết bị với những máy móc hiện đại nhưng
lực lượng lao động không có khả năng sử dụng, thì việc đầu tư đó không hiệu quả và
cũng không được coi là quá trình công nghiệp hóa.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
1.1.1.2.2. Góp phần phát triển và nâng cao trình độ công nghệ của
đất nước
Công nghệ kỹ thuật được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh mẽ
đến tăng trưởng trong điều kiện kinh tế hiện đại. Yếu tố kỹ thuật cần được hiểu theo
đầy đủ hai dạng: thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nẵm bắt kiến thức
khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý , thử nghiệm về cải tiến sản phẩm , quy
trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên
cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Yếu
tố công nghệ khi được xét trên khía cạnh toàn diện như trên công nghệ được xem như là
“chiếc đũa thần tăng them sự giàu có của cải xã hội”. Nguồn nhân lực đóng vai trò rất
quan trọng trong quá trình phát triển của công nghệ kỹ thuật, nguồn nhân lực được đào
tạo, trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết để tiếp cận với công nghệ hiện đại của thế giới
và có điều chỉnh phù hợp với nền sản xuất trong nước, tạo điều kiện nâng cao và phát
triển nền công nghệ trong nước. Hệ thống giáo dục đồng bộ, hoàn thiện sẽ tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao.
1.1.1.2.3. Góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mục tiêu của giáo dục là tạo ra con người có đạo đức, tri thức và kỹ năng; đào
tạo là là hình thức dậy dỗ nhằm tạo ra con người thành thạo kỹ năng nghề nghiệp. Giáo
dục cũng đồng thời cung cấp kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn
minh, nhưng vẫn giữ gìn được văn hóa truyền thống của dân tộc. Nền giáo dục nước ta
cũng đang tìm ra những biện pháp để đạt được những mục tiêu trên. Nước ta có lịch sử

lâu đời, đạo đức con người Việt Nam được hình thành từ sự đấu tranh sinh tồn với thiên
nhiên, tạo nên sức mạnh cộng đồng yêu thương bảo vệ nhâu mà còn tiếp thu được nhiều
nguồn tư tưởng và đạo đức của loài người trong đó có thể kể đến: Phật giáo dậy cho
con người có lòng từ bi, vị tha, yêu thương mọi sinh linh…, Nho giáo dậy cách cư xử
mối quan hệ giữa người với người, quan hệ với cha mẹ, với cộng đồng quốc gia và các
mối quan hệ xung quanh khác, hình thành nên hệ thống đạo đức “lễ, nghĩa, liêm, sỉ,
nhân, trí, tín, dũng”…, Thiên Chúa giáo và đạo Tin lành dậy lòng bắc ái, yêu tự do…,
tư tưởng của Karl Marx dậy sự bình đẳng, yêu thương, bênh vực quyền lợi của những
người ít của cải trong xã hội, đứng về phía quyền lợi người nghèo khó... Trong các
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
luồng tư tưởng và đạo đức của loài người quy tụ đến Việt Nam đã được con người Việt
Nam tiếp thu và chọn lọc, hình thành nên đạo đức tư tưởng văn hóa Việt Nam. Hơn 30
năm kể từ ngày độc lập, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống của nhân dân, cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới không
chỉ là hội nhập về kinh tế mà còn cả về mặt văn hóa. Vì vậy, giáo dục đào tạo sẽ mang
tính định hướng cho lớp trẻ có được những nhận thức đúng đắn, hiểu biết về những nét
văn hóa mạng tính truyền thống của dân tộc, để tự bản thân có được nhận thức và hình
thành những lối sống hiện đại nhưng vẫn duy trì được nét văn hóa của người Việt Nam.
Việc giáo dục cho từng cá nhân trong xã hội có được nhận thức, lối sống tốt là điều
kiện để Việt Nam có thể “hòa nhập nhưng không hòa tan”.
1.1.1.2.4. Góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp
Nguồn nhân lực là một trong những tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp. Đây
là một loại tài sản vô hình, không thể xác định được đặc điểm vật chất của chính nó
nhưng lại có giá trị lớn và có khả năng sinh ra lợi nhuận. Nó là thước đo hiệu quả kinh
doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trước mắt và trong
tương lai. Các loại tài sản hữu hình nói chung, việc sử dụng tài sản đồng nghĩa với việc
làm cho giá trị tài sản giảm đi, tuy nhiên, đối với tài sản trí tuệ, phạm vi và đối tượng sử
dụng của tài sản càng rộng thì giá trị tài sản càng lớn. Ngày nay, bằng việc xây dựng,
phát triển và sở hữu các tài sản trí tuệ có chất lượng tốt, uy tín và vị trí của doanh
nghiệp luôn được củng cố và mở rộng; khả năng cạnh tranh và thị phần của doanh

nghiệp được nâng cao. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là tài sản mà còn là nguồn
vốn của doanh nghiệp. Vốn trí tuệ tiềm ẩn trong mỗi con người, sau khi được đào tạo
qua trường lớp thì những kỹ năng kiến thức của con người sẽ càng ngày càng hoàn
thiện hơn. Nếu như hệ thống giáo dục ngay từ khi còn là học sinh phổ thông biết được
vai trò cũng như tầm quan trọng của vốn trí tuệ nhằm định hướng cho học sinh phát huy
khả năng tư duy, sáng tạo, năng lực tiềm ẩn trong chính bản thân mình, trở thành một
đội ngũ nhân lực là tài sản cũng là nguồn vốn quý giá nhất của doanh nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm và vị trí của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát
triển ngành giáo dục
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
1.1.2.1. Đặc điểm của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển
ngành giáo dục
Nguồn vốn ngân sách nhà nước, đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước
cho đầu tư, là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được dùng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực
cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông
thôn. Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế,
quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn
thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở
hữu nhà nước..). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát
triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể, đặc biệt phần ngân sách giành cho
ngành Y tế và Giáo dục đào tạo. Ngành giáo dục là một ngành mang tính chất khá đặc
thù, không giống như các ngành đầu tư vào phát triển sản xuất khác. Việc bỏ vốn đầu tư
vào Giáo dục đào tạo, không thể đo đếm hiệu quả bằng các chỉ tiêu kinh tế như doanh
thu, lợi nhuận; hiệu quả của hoạt động đầu tư phải sau một thời gian dài mới thấy được
hiệu quả. Chính vì vậy, đặc điểm đầu tiên của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu
tư phát triển ngành giáo dục đó là thành quả của hoạt động đầu tư phát triển không thể
lượng hóa bằng các con số về lợi nhuận một cách cụ thể, mà chỉ được nhận thấy qua

các chỉ tiêu về số trường lớp được xây dựng mới, tỷ lệ trẻ lên lớp, số học sinh giỏi trong
năm học, số giải đạt được trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc và quốc tế, tỷ lệ gia
tăng về quy mô học sinh, sinh viên hàng năm…
Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn vốn chủ yếu của quá trình đầu tư phát
triển ngành giáo dục, các nguồn vốn khác chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn đầu tư
phát triển ngành giáo dục. Quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng và
Nhà nước chưa được nhân thức một cách đầy đủ, giáo dục vẫn được xem là công việc
riêng của ngành giáo dục, chưa tạo ra một sự liên kết, phối hợp đồng bộ giữa các ngành,
các cấp và các nguồn lực trong xã hội, để phát triển sự nghiệp giáo dục một cách đúng
mức.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
Nguồn vốn ngân sách nhà nước giành cho đầu tư phát triển giáo dục đào tạo
ngày càng có xu hướng gia tăng, điều này đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối
với sự nghiệp Giáo dục và đào tạo, sự đáp ứng kịp thời với nhu cầu cần phải đầu tư
mới, đầu tư mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo của ngành giáo dục trong thời kỳ
mới.
1.1.2.2.Vị ví của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển
ngành giáo dục
Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính chủ yếu yế của ngành giáo dục. Nhà
nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục trong tương quan với các ngành khác. Trong văn kiện
Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định trên cơ sở nắm vững hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; trong thời gian từ nay đến năm
2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đi tắt đón đầu từ một đất nước kém phát triển thì
vai trò của giáo dục đào tạo lại càng có tính chất quyết định. Giáo dục đào tạo phải đi
trước một bước, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài để thực hiện
thành công các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Ở nước ta, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sử hữu,
nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa.

Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động được mở rộng, nhu cầu học
tập tăng lên; mặt khác, cũng thay đổi quan niệm về giá trị, ảnh hưởng đến việc lựa chọn
ngành nghề, động cơ học tập, các quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội. Tự do cạnh
tranh làm phân hóa giàu nghèo, làm tăng thêm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các
tầng lớp dân cư. Xã hội tạo điều kiện cho giáo dục phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi
giáo dục phục vụ đắc lực cho xã hội, kịp thời điều chỉnh cơ cấu và quy mô, nâng cao
trình độ đào tạo đáp ứng các nhu cầu đa dạng thực tiễn, tăng hiệu quả giáo dục, nhạy
bén và thích ứng nhanh với những buến động của nhu cầu nhân lực. Giáo dục đào tạo
giúp định hướng quan niệm về giá trị, bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách mới, năng lực
mới và đảm bảo công bằng về cơ hội học tập ở mọi cấp bậc học và trình độ đào tạo cho
mọi tầng lớp nhân dân. Với tầm quan trọng như trên, vì vậy, tỷ lệ ngân sách giành cho
giáo dục đào tạo ngày cang được nâng cao từ 15% năm 2000 lên 18 % năm 2005 và sẽ
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
là trên 20% vào năm 2010. Giáo dục đào tạo là một ngành khá nhạy cảm, đây không
phải là ngành kinh tế khi đưa tiền vào đầu tư sẽ ngay lập tức thu hồi được vốn và có lãi,
chính vì hiệu quả kinh tế không phát huy tác dụng trong thời gian ngắn, và lợi ích khi
đầu tư vào giáo dục mang lại cũng không thể cụ thể hóa bằng những con số như doanh
thu, chi phí như trong các lĩnh vực khác. Chính vì vậy, đầu tư vào giáo dục đào tạo đặc
biệt là những khu vực khó khăn đều phải sử dụng đến ngân sách nhà nước. Nguồn vốn
ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vung nông
thôn miền núi, cho đào tạo trình độ cao, cho những ngành khó thu hút đầu tư ngoài
ngân sách nhà nước. Có những chính sách đảm bảo bảo điều kiện học tập cho con em
gia đình nghèo và diện chính sách, cơ hội học tập cho con em gia đình nghèo.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước
1.2.1. Cơ chế chính sách và trình độ quản lý
Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn vốn chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước, tuy nhiên không phải khi Nhà nước quản lý ở tất cả mọi mặt thì nguồn vốn đó sẽ
phát huy tác dụng một cách tốt nhất. Trong giai đoạn phát triển hiện nay, để nguồn vốn
ngân sách phát huy hiệu quả trong hoạt động đầu tư phát triển giáo dục đào tạo thì việc

đổi mới cơ bản về tư duy và phương thức quản lý đầu tư giáo dục theo hướng mâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước, phân cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính chủ động và tự chịu
trách nhiệm của các địa phương của các cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu quả
các vấn đề bức xúc, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động đầu
tư. Phân chia nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, ban ngành chịu trách nhiệm rõ ràng về
các vấn đề được giao. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo
dục, xây dựng cơ chế chính sách và quy chế quản lý nội dụng và chất lượng đào tạo, tổ
chức thanh tra kiểm tra, và hệ thống các chỉ tiêu kiểm tra chất lượng của hoạt động đầu
tư xây dựng. Vì vậy, để đảm bảo cho nguồn vốn đầu tư được bố trí hợp lý cần phải tăng
cường chất lượng của công tác lập kế hoạch, tiến hành dự báo thường xuyên và tăng
cường cung cấp thông tin về lượng vốn cần thiết cho đầu tư phát triển.
1.2.2. Đăc trưng của ngành giáo dục trong thời kỳ mới
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
Với quan điểm chỉ đạo “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, phát triển giáo dục là
nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, vì vậy nhà nước giành sự quan tâm rất lớn trong phát
triển ngành giáo dục.Cuộc cách mạng khoa học công nghệ sẽ tiếp tục phát triển với
những bước nhảy vọt trong thế kỷ 21, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp
sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tác động tới tất cả các
lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Khoảng cách giữa các phát minh khoa học công nghệ và áp dụng vào thực tiễn ngày
càng rút ngắn, kho tàng kiến thức nhân loại ngày càng đa dạng phong phú, tăng theo
cấp số nhân. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, vừa là
quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển
để bảo vệ lợi ích của quốc gia. Sự cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia sẽ ngày càng
quyết liệt hơn đòi hỏi phải tăng năng suất lao đông, nâng cao chất lượng hàng hóa và
đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng. Các phương tiện truyền thông, mạng viễn
thông , Internet tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hóa, đồng thời cũng dang
diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Sự phát triển mạnh

mẽ của khoa học công nghệ, sự phát triển năng động của nền kinh tế, quá trình hội nhập
và toàn cầu hóa dang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các
nước trở nên hiện thực hơn và nhanh hơn. Khoa học công nghệ trở thành động lực cơ
bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nêng tảng của sự phát triển khoa học
– công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai
trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiện và năng lực của
các thế hệ hiện nay và mai sau. Đây là đòi hỏi khách quan cần có sự quan tâm và đầu tư
phát triển ngành Giáo dục. Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Bối
cảnh trên đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ những quan niệm về chất
lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống
giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép kín chuyển sang mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã
hội, gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học – công nghệ và ứng dụng ; nhà giáo thay
vì chỉ truyền đạt tri thức, chuyển sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận
thông tin một cách có hệ thống, có tư duy phân tích và tổng hợp. Đầu tư cho giáo dục từ
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
chỗ được xem là phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư cho phát triển. Nguồn vốn giành
cho đầu tư giáo dục cũng có những chuyển biến về cơ cấu, hiện nay phần lớn nguồn
vốn đầu tư cho giáo dục là từ ngân sách nhà nước, nhưng trước những thay đổi của bối
cảnh quốc tế, cơ cấu nguồn vốn thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nguồn vốn ngân
sách nhà nước, gia tăng tỷ trọng nguồn vốn của các cá nhân tổ chức trong nước và
ngoài nước, giảm gánh nặng của nhà nước và tăng chất lượng đào tạo, đổi mới hệ thống
cơ sở vật chất .
1.2.3. Các nhân tố về kinh tế xã hội
Do đặc điểm kết cấu của cơ sở hạ tầng giáo dục của Việt Nam, các trường đại
học phân bố không đồng đều, thường tập trung ở các thành phố lớn, vì vậy mà nguồn
vốn giành cho đầu tư phát triển ngành giáo dục đạo tạo cũng có sự phẩn bổ không đồng
đều giữa các tỉnh, thành phố trong cả nước. Nguồn vốn ngân sách hàng năm giành cho
các ngành tăng giảm phụ thuộc rất nhiều vào tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm.
Nếu tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm lớn thì phần ngân sách giành để đầu tư phát
triển cho ngành Giáo dục nói riêng và các ngành khác nói chung sẽ có xu hướng tăng

lên. Các khoản thu ngân sách nhà nước bao gồm: thu từ kinh tế Nhà nước, thu từ doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà
nước, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu phí, lệ phí,…các khoản thu này
chịu ảnh hưởng rất nhiều của các nhân tố kinh tế như: tăng trưởng kinh tế hàng năm,
lạm phát, điều kiện kinh tế thế giới…
1.2.4. Một số nhân tố khác
Quan điểm phát triển của nhà nước, đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến
các định hướng phát triển của các ngành nói chung và của ngành giáo dục nói riêng.
Quan điểm phát triển của nhà nước sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu, định hướng phát triển,
cơ cấu nguồn vốn đầu tư. Điều này có thể thấy rất rõ ràng khi xét quan điểm đầu tư
của nhà nước đối với an ninh quốc phòng và các ngành kinh tế, dịch vụ đặc biệt là ở
khu vực tư nhân. An ninh quốc phòng là ngành chỉ có sự tham gia của nguồn vốn của
nhà nước, nhà nước có những quy định rất chặt chẽ để quản lý hiệu quả sử dụng của
nguồn vốn. Đối với các ngành kinh tế dịch vụ thì cơ cấu nguồn vốn rất phong phú và
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
đa dạng có thể có sự góp mặt của rất nhiều các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát
triển, đối với những ngành này nhà nước chỉ chỉ đạo về chủ trường, quy hoạch, không
trực tiếp quản lý đến cách thức sử dụng nguồn vốn. Theo từng thời kỳ, Nhà nước có
quản điểm phát triển khác nhau phù hợp với điều kiện khách quan và sự phát triển của
đất nước. Hiện nay, với quan điểm xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc,
khoa học, hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công bằng trong giáo
dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà nước xây dựng cơ chế, chính
sách giúp đỡ người nghèo học tậo, khuyến khích những người học giỏi phát triển tài
năng. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe
và thẩm mỹ, phát triển được năng lực của cá nhân, đào tạo những người lao động có
kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học – công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh,
đảm bảo sự hợp lý về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vung miền; mở rộng
quy mô trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả, kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.
Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý

luận gắn liền với thực tiến, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã
hội. Với quan điểm phát triển như trên, Nhà nước đang ngày càng khuyến khích sự
tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào đầu tư phát triển ngành Giáo dục và Đào tạo
toàn diện.
Đặc điểm đầu tư vào ngành giáo dục, đầu tư phát triển giáo dục đào tạo
không giống với đầu tư phát triển các ngành sản xuất. Hiệu quả của quá trình đầu tư chỉ
có thể thấy được sau một quá trình rất dài. Có thể thấy, việc bỏ ra chi phí để đào tạo
một con người bắt đầu tư khi cho trẻ đi học mẫu giáo rồi trải qua các bậc học tiểu học,
trung học, đại học; sau các bậc học này mới có thể thấy người công dân đó cống hiến
được những gì cho xã hội; và những cống hiến này cũng rất khó để lượng hóa được
thành các con số doanh thu, lợi nhuận, NPV…để đánh giá xem dự án đầu tư đó có hiệu
quả hay không hiệu quả. Vì đặc trưng này nên rất ít các tổ chức, cá nhân muốn tham gia
vào đầu tư phát triển, nguồn vốn chủ yếu cho phát triển của ngành hiện nay chủ yếu là
nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn đi vay viện trợ nước ngoài.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
1.3. Nội dung đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước
1.3.1. Đầu tư theo cấp học
Hệ thống giáo dục của Việt Nam tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng
hóa được hình thành với đầy đủ các cấp học từ giáo dục mầm non, giáo dục trung học,
giáo dục thường xuyên, giáo dục đại học và cao đẳng, giáo dục chuyên nghiệp. Với
những đặc thù của từng bậc học, nhà nước cũng đã có những phương hướng, nội dung
cụ thể để đầu tư hoàn thiện các cấp học, cụ thể:
• Đối với giáo dục mầm non, nhà nước đã có những quy định chuẩn nghề nghiệp
giáo viên mầm non làm căn cứ để các giáo viên và các cơ sở giáo dục thực hiện, ban
hành chiến lược đầu tư đổi mới trong giáo dục mầm non, ban hành chính sách mới về
giáo dục mầm non như quy hoạch đất đai, hỗ trợ giáo viên ngoài công lập, mua sắm
trang thiết bị, đồ chơi; xây dựng trường chuẩn quốc gia, bồi dưỡng chuyên môn chi đội
ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Trong thời gian vừa qua, đầu tư GDMN không chỉ
hướng đến đổi mới phương thức giảng dạy, đầu tư thêm đồ chơi, khuôn viên trong

trường học, mà đầu tư GDMN đã được chú trọng đến vấn đề ứng dụng CNTT trong các
cơ sở GDMN, đến nay đã có 4.821 trường (đạt 39%) được trang bị máy vi tính và các
phần mền vui chơi, dinh dưỡng, quản lý. Quy mô học sinh mầm non ngày càng gia
tăng, đặc biệt tỷ lệ học sinh đi học ngoài công lập chiếm một tỷ lệ lớn khoảng trên 70
%.
• Đối với giáo dục tiểu học, nhà nước không trực tiếp quản lý mà đã tăng cường
giao quyền chủ động cho các địa phương, các nhà trường, và các giáo viên trong việc
xây dựng các kế hoạch dạy học, thực hiện chương trình, sách giáo khoa, soạn giáo án và
chịu trách nhiệm về chất lượng giảng dậy và học tập. Các địa phương đac tiếp tục chỉ
đạo đầu tư đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học mua
sắm hoặc tự làm, đã có những buổi phụ đạo cho học sinh yếu kém từng tuần, từng
tháng, từng học kỳ. Số học sinh học 2 buổi một ngày có xu hướng tăng, kết quả của học
sinh học 2 buổi / ngày cao hơn hắn những học sinh chỉ học 1 buổi / ngày. Với sự đầu tư
đổi mới cơ sở vật chất, xây dựng biên soạn mơi sách giáo khoa, đổi mới phương pháp
giảng dậy, chất lượng dạy học ở tiểu học tương đối ổn định và ngày càng vững chắc,
trong năm học 2007 – 2008 kết quả học tập 2 môn Tiếng Việt và Toán như sau: loại
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
giỏi môn tiếng Việt đạt 38,32 %, môn Toán đạt 46,18%; loại yếu môn Tiếng Việt là
6,65 %. Ngành giáo dục đang nỗ lực thực hiện phổ cập giáo dục, các địa phương tiếp
thục triển khai công tác Xóa mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học. Đến tháng 7 năm
2008, đã có 42 / 64 tỉnh đạt chuẩn phổ cập GDTH đúng độ tuổi. Công tác phổ cập giáo
dục tiểu học của 22 tỉnh còn gặp rất nhiều khó khăn, cần phải có sự quan tâm đầu tư,
tập trung chỉ đạo tích cực từ trung ương đến địa phương.
• Đối với giáo dục trung học (THCS & THPT), các sở GD & ĐT đã chú ý chỉ
đạo áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng
các phần mềm tiện ích vào dạy học, đổi mới hình thức thức kiểm tra, đánh giá học sinh
theo hướng đòi hỏi hiểu bài, biết vận dụng kiến thức, hạn chế chỉ học thuộc lòng, xét
cho lên lớp đúng tiêu chuẩn. Trong học kỳ II năm học 2007 – 2008, Bộ GD & ĐT chỉ
đạo đánh giá toàn diện chương trình và sách giáo khoa mới ở tất vả các môn học, tất cả
các lớp từ lớp 1 đến lớp 11. Trên cơ sở những ý kiến đóng góp, Bộ đã tiến hành khắc

phục những thiếu sót, bất cập của các cấp học theo hướng bố trí kế hoạch thời gian năm
học phù hợp với điều kiện thực tế và tiếp tục chỉ đạo thực hiện chương trình, sách giáo
khoa trên qui mô toàn quốc và ở các vùng, miền khác nhau. Đối với cấp THCS và
THPT, việc đầu tư tiếp tục đổi mới chương trình sách giáo khoa và tổ chức phân ban
lớp 10 bắt đầu triển khai đại trà ở lớp 11, công việc này được chỉ đạo nghiêm túc, trong
tất cả các khâu tập huấn giáo viên, trang bị sách giáo khoa và đồ dùng học tập , theo
dõi, kiểm tra, hội giảng rút kinh nghiệm.
• Đối với giáo dục thường xuyên (GDTX), trong những năm vừa qua các địa
phương đã chú trọng việc quản lý và cấp phát chứng chỉ ngoại ngữ, tin học; đầu tư thiết
bị dạy học tối thiểu, tăng cường cơ sở vật chất, trang bị thêm phòng học máy vi tính cho
các trung tâm GDTX; các trung tâm giáo dục thường xuyên là nơi có giáo viên giảng
dậy không ổn định, hầu hết là các giáo viên từ các trường THPT trong địa phương, vì
vậy cần có những chính sách để thu hút các giáo viên dậy ở các trung tâm GDTX. Sau
một thời gian thực hiên đề án “xây dựng xã hội học tập”, một số mục tiêu trong đề án
đã được thực hiện và đem lại hiệu quả rõ rệt như: phát triển, mở rộng hệ thống GDTX,
trung tâm GDTX và trung tâm học tập cộng đồng; đa dạng hóa nội dung, chương trình
giáo dục ngày cang đáp ứng được nhu cầu học tập của nhiều đối tượng trong xã hội
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
thiết thực phục vụ sự phát triển kinh tế trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, ngoại ngữ,
công nghệ thông tin, truyền thông và dịch vụ.
• Đối với giáo dục cao đẳng, đại học: nhằm đáp ứng được yêu cầu của xã hội và
nhu cầu của người học, nhà nước tăng cường đầu tư phát triển cho đào tạo đại học, cao
đẳng; xây dựng thêm các trường mới, mở rộng quy mô giảng dậy, xây dựng và cải tạo
thêm các công trình phục trợ như: nhà tập thể thao, xây dựng và cải tạo mới thư viện,
xây dựng thêm các khu ký túc xá đáp ứng nhu cầu về chỗ ở cho sinh viên. Đối với đào
tạo sau đại học, nhằm nâng cao trình độ của cán bộ giảng viên trong các trường ĐH,
CĐ và TCCN. Với mục tiêu phân đấu đào tạo 20.000 tiến sĩ vào năm 2020 nhiều cơ sở
đào tạo tiến sĩ thạch sĩ đã tích cực đầu tư trang thiết bị, tăng cường đội ngũ giảng viên
có học hàm, học vị để mở thêm chuyên ngành đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ.
• Đối với giáo dục chuyên nghiệp (GDCN), đây là bậc đào tạo được giành

nguồn lực đầu tư ít hơn so với các bậc học khác, vốn đầu tư chủ yếu được dùng đầu tư
nâng cao chất lượng giảng dậy, tăng cường cơ sở vật chất. Trong bậc đào tạo này thời
lượng đào tạo thực hành chiếm từ 50 đến 75 % tổng thời lượng của toàn bộ chương
trình, chính vì vậy trong thời gian qua, nhiều trường TCCN thuộc các ngành kỹ thuật đã
mời doanh nghiệp tham gia xây dựng và đóng góp ý kiến về chương trình đào tạo.
1.3.2. Đầu tư theo nhiệm vụ
Vốn ngân sách nhà nước giành cho Giáo dục và Đào tạo hàng năm được chia
theo nhiệm vụ cụ thể: Chi đầu tư xây dựng cơ bản, Chi thường xuyên, Chi cho các
chương trình mục tiêu quốc gia, và hợp tác đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật nước
ngoài. Trong đó:
• Chi đầu tư xây dựng cơ bản thường chiếm khoảng 23,8 % trong tổng vốn đầu
tư từ ngân sách nhà nước hàng năm, được sử dụng để đầu tư xây dựng mới như Trung
tâm đào tạo Trường Đại học Kinh tế quốc dân, trường Đại học Tây Bắc, trung tâm giáo
dục quốc phòng…, dự án môi trường, dự án công cộng, dự án thể dục thể thao, các dự
án theo mục tiêu.
• Chi thường xuyên là phần chi lớn nhất trong tổng vốn đầu tư ngân sách nhà
nước giành cho Giáo dục và Đào tạo, thường chiếm trên 50%. Bao gồm: chi thường
xuyên cho sự nghiệp giáo dục, được chi cho các bậc học giáo dục mầm on, trung học,
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
đào tạo đại học, cao đẳng, sau đại học, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, các nhiệm
vụ toàn ngành và chỉ đạo chuyên môn toàn ngành: Tổ chức kỳ thi Olympic Vật lý quốc
tế, các nhiệm vụ thi cử (hỗ trợ thi THPT, học sinh giỏi quốc gia, cải tiến thi tuyển sinh
ĐH, CĐ và kiểm định chất lượng giáo dục các bậc học, thi học sinh giỏi quốc tế), chi
vốn đối ứng các dự án vay nợ, viện trợ…; chi sự nghiệp nghiên cứu khoa học; chi sự
nghiệp đảm bảo xã hội; chi sự nghiệp kinh tế: chi điều tra cơ bản, thực hiện điều tra cơ
bản, quy hoạch ở các lĩnh vực cấp thiết của lĩnh vực cấp thiết của ngành nhằn phục vụ,
chỉ dạo, quản lý và xậy dựng chính sách, chi thực hiện các chương trình quốc gia về bảo
hộ lao động, án toàn lao đông, chi xúc tiến hợp tác giáo dục, nghiên cứu các chính sách
đầu tư nước ngoài và mô hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; chi sự nghiệp bảo vệ
môi trường; chi quản lý hành chính…

• Chi chương trình mục tiêu quốc gia, phần chi này thường chiếm khoảng
5,83% trong tổng ngân sách nhà nước giành cho giáo dục và đào tạo. Bao gồm: Chi
chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo: Đổi mới chương trình, nội dung
sách giáo khoa và tài liệu giảng dậy (hoàn thiện sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu
dậy học tự chọn…), đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường (tăng cường
năng lực đào tạo cán bộ tin học, đào tạo giáo viên, mua sắm thiết bị, phần mềm, tài liệu
tham khả cho dạy tin học một số khoa công nghệ thông tin của các trường đại học, cao
đẳng nhằm tiếp tục thực hiện Chương trình phát triển nguồn nhân lực về công nghệ
thông tin…), đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục, hỗ
trợ giáo dục miêng núi, vùng dân tộc thiểu số và vùng có nhiều khó khăn, tăng cường
cơ sở vật chất cho các trường học (cải tạo, sửa chữa, xây dựng, tăng cường trang thiểt
bị - đầu tư theo chiều sâu), chi cho một số chương trình mục tiêu quốc gia khác
(chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường, dự án phòng chống ma túy trong trường
học, chương trình phòng chống tội phạm…).
• Chương trình hợp tác đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật nước ngoài chiếm
khoảng 10 % tổng ngân sách nhà nước giành cho giáo dục. Đây là khoản chi mới phát
sinh trong những năm gần đây bao gồm chi đào tạo cho lưu học sinh nước ngoài, chi
quản lý trong nước, đào tạo phối hợp, bồi dưỡng ngoại ngữ…
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
Chương 2: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH GIÁO DỤC BẰNG
NGUỒN VỐN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2008
2.1.Tổng quan tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục từ năm 2001 đến năm
2008
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
2.1.1. Hiện trạng hệ thống giáo dục của Việt Nam
2.1.1.1. Những thành tựu
Trải qua gần 20 năm đổi mới, ngành giáo dục và đào tạo đã thu được những
thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng
cấp cơ sở vật chất cho nhà trường, trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng giáo dục
đã có những cải thiện đáng kể.

Hiện nay, Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh thống
nhất và đa dạng hóa được hình thành với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm
non đến sau đại học. Mạng lưới các trường phổ thông được xât dựng rộng khắp trên
toàn quốc. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú và bán trú cho con em
các dân tộc ít người. Các trường, lớp và trung tâm dậy nghề phát triển dưới nhiều hình
thức, các lớp dậy nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Các trường đại học cao đẳng được
thành lập ở hầu hết các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các địa phương. Cơ sở
vật chất kỹ thuạt các trường được nâng cấp, cải thiện. Số trường lớp được xây dựng
theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Hệ thống giáo dục đã bước đầu được đa dạng hóa
cả về loại hình, phương thức và nguồn lực…từng bước hòa nhập với xu thế chung của
giáo dục thế giới. Từ một hệ thống chỉ có các trường công lập và chủ yếu là loại hình
chính quy đến nay đã có nhiều trường ngoài công lập, có nhiều loại hình không chính
quy, có các trường mở, có phương thức đào tạo từ xa, phương thức liên kết đào tạo với
nước ngoài.
Quy mô giáo dục tăng nhanh, bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội, hang năm
quy mô đào tạo tăng trung bình 5% một năm, phấn đấu đến năm 2010 tổng quy mô đào
tạo đại học, cao đẳng đạt khoảng 200 sinh viên / 1 vạn dân. Các ngành công nghệ thông
tin và một số ngành kỹ thuật – công nghệ trọng điểm khác quy mô đã có những chuyển
biến đáng kể đáp ứng các yêu cầu định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước.
Yêu cầu về công bằng xã hội trong giáo dục cơ sở về cơ bản đã được dảm bảo, giáo dục
ở các vùng miền núi và dân tộc thiểu số có những chuyển biến tích cực, đã thành lập
hon 260 trường dân tộc nội trú và hơn 120 trường ban trú. Cả nước đã hoàn thành công
tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
Gần 96% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ, số năm trung bình đi học đạt 7,5 %. Về cơ
bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục. Công tác xã hội hóa giáo
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
dục đã đem lại kết quả bước đầu, các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào
việc huy động trẻ đến trường, xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường
đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Tỷ trọng nguồn kinh
phí xã hội đóng góp cho giáo dục ngày càng tăng đạt khoảng gần 30% năm 2007.

Chất lượng giáo dục có chuyển biến trên một số mặt. Trình độ hiều biết, năng lực tiếp
cận tri thức mới của bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao; giáo dục trung học phổ
thông chuyên đạt trình độ cao của khu vực và trên thế giới, số học sinh phổ thông đạt
các giải quốc gia và quôc tế ở một số môn học ngày càng tăng. Số đông sinh viên tốt
nghiệp đại học và cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự lập, năng
động sáng tạo trong công việc. Chất lượng đào tạo của một số ngành khoa học cơ bản
và khoa học công nghệ được nâng cao một bước. Giáo dục đại học đã từng bước hoàn
thiện về chất lượng và phương pháp giảng dậy, đào tạo được một đội ngũ đông đảo cán
bộ khoa học kỹ thuật từ cử nhân, thạc sĩ cho đến tiến sĩ, đã và đang công tác và có
những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế.
2.1.1.2. Những yếu kém
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhìn chung, ngành giáo dục nước ta còn
yếu về chất lượng, mất cân đối về cơ cấu , hiệu quả giáo dục chưa cao; giáo dục chưa
gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, đào tạo chưa gắn với sử dụng, đội ngũ giáo viên còn yếu,
cơ sở vật chất còn thiếu, chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục và công tác
quản lý chậm đổi mới, một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỷ cương chậm được khắc
phục.
Chất lượng giáo dục nói chung còn thấp một mặt chưa tiếp cận được với trình độ
tiến tiến trong khu vực và trên thế giới, mặt khác chưa đáp ứng được với các ngành
nghề trong xã hội. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp, kỷ luật lao động, khả năng làm
việc nhóm, các kỹ năng mềm như: tinh thần hợp tác, khả năng giao tiếp, khả năng làm
việc nhóm, khả năng tự tổ chức công việc… còn hạn chế.
Hiệu quả hoạt động giáo dục chưa cao. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so với
số lượng học sinh nhập học đầu năm còn thấp, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa.
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp; còn nhiều học sinh sinh viên sau khi tốt nghiệp
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
chưa có việc làm. Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc
phục nhưng vẫn bị mất cân đối. Công tác chỉ đạo cũng như tâm lý xã hội vẫn còn nặng
nề về đào tạo đại học, chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nghề, đặc biệt là đào tạo

nghề ở trình độ cao. Việc tăng quy mô đào tạo trong những năm gần đây chủ yếu vẫn
diễn ra ở bậc đại học, tỷ lệ học sinh, sinh viên cao đẳng kỹ thuật công nghệ và trung
học chuyên nghiệp và học nghề còn thấp và tăng chậm. Công tác dự báo, quy hoạch
định hướng ngành nghề đào tạo chưa tốt, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu về ngành
nghề của xã hội. Cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp tập
trung quá nhiều vào các thành phố lớn, khu công nghiệp lớn. Giáo dục ở vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất khó khắn. Chưa chú trọng đúng mức đến các
hình thức giáo dục không chính quy bên ngoài nhà trường, đặc biệt là các hình thức
giáo dục giành cho người đang lao động.
Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và nhìn chung thấp về chất lượng, chưa đáp
ứng được yêu cầu vừa phải tăng nhanh quy mô vừa phải đảm bảo nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Đặc biệt là đội ngũ giảng viên các trường đại học ít có điều kiện
thường xuyên tiếp cận, cập nhật tri thức và thành tựu khoa học công nghệ mới của thế
giới. Cơ sở vật chất của nhiều nhà trường còn thiếu thốn, chưa giải quyết triệt để tình
trạng các lớp học 3 ca, vẫn còn những lớp học tranh tre nứa lá ở các vùng sâu, vùng xa;
thư viện, trang thiết bị phục vụ giảng dậy và học tập còn rất thiếu thốn và lạc hậu.
Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại
hóa. Chương trình giáo dục còn mang nặng tính lý thuyết, nặng về thi cử, chưa thực sự
chú trọng đến tính sáng tạo, phát triển năng lực thực hành và hướng nghiệp, chưa gắn
bó chặt chẽ với nhu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu của
người học, chưa gắn bó hiệu quả với nghiên cứu khoa học – công nghệ triển khai ứng
dụng. Giáo dục trí lực chưa kết hợp hữu cơ với giáo dục phẩm chất đạo đức, nhân cách
công dân, trách nhiệm với xã hội, ý thức tự tôn dân tộc…các hình thức thi cử còn lạc
hâu, cách tuyển sinh đại học còn nặng nề và tốn kém.
Công tác quản lý giáo dục còn kém hiệu quả. Một số hiện tượng tiêu cực, thiếu
kỷ cương trong giáo dục đào tạo chưa được ngăn chặn kịp thời. Các hiện tượng thương
mại hóa giáo dục như mua bằng, bán điểm, tuyển sinh vượt chỉ tiêu, thu chi sai nguyên
tắc làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà trường, của các giáo viên. Hiện tượng gian lận
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
trong kiểm tra, thi cử của học sinh, sinh viên ảnh hưởng xấu đến nhân cách và thái độ

lao động của người học sau này. Nhìn chung, chất lượng và hiệu quả nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của đất
nước trong giai đoạn phát triển mới.
2.1.2. Tình hình về vốn đầu tư vào giáo dục từ năm 2001 đến năm 2008
Đầu thế kỉ XXI, nền giáo dục của loài người có những bước tiến lớn với nhiều
thành tựu mọi mặt. Hầu hết các quốc gia nhận thức sự cần thiết và cấp bách phải đầu tư
cho giáo dục, đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư có lãi lớn nhất cho tương lai mỗi
dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi gia đình và mỗi cá nhân. Trong 5 năm cuối thể kỷ XX và 5
năm đầu thế kỷ XXI tất cả các tỉnh, thành phố, vùng miền trên cả nước đã đầu tư mạnh
mẽ cho giáo dục. Đơn cử như Yên Bái là một tỉnh miền núi nghèo , có nhiều vùng đặc
biệt khó khăn, song đã đầu tư tới 248,4 tỷ VNĐ để xóa phòng học tạm, trong đó có tới
54 tỉ VNĐ là ngân sách của địa phương. Tính đến năm 2006 có 89 % phòng học được
kiên cố hóa và từng bước xây dựng hệ thống trường đạt chuẩn quốc gia, hiện nay có 28
trường đạt chuẩn quốc gia, và nhiều tỉnh thành có điều kiện kinh tế khó khăn nhưng
những hoạt động đầu tư cho giáo dục đào tạo của địa phương luôn được đặt lên hàng
đầu. Ở phạm vi gia đình cũng vậy, có rất nhiều gia đình nông dân thu nhập không cao
hoặc các gia đình công chức bình thường không dư dật về kinh tế nhưng vẫn cố gắng
đầu tư cho con, cháu học hành. Nhiều dòng họ lập quỹ khuyến học, trợ giúp và khen
thưởng con em khi đạt được thành tích cao trong học tập. Đối với Đảng và Nhà nước
luôn giành một lượng vốn khoảng 20% vốn ngân sách nhà nước hàng năm để đầu tư
phát triển ngành giáo dục. Nhưng với 20% vốn ngân sách hàng năm không đủ để đáp
ứng nhu cầu đầu tư phát triển của ngành giáo dục. Ngoài vốn ngân sách, nhà nước luôn
đổi mới cơ chế chính sách cho phù hợp với điều kiện mới nhằm thu hút các nguồn vốn
khác giành cho đầu tư phát triển ngành giáo dục như vốn ODA, FDI, nguồn vốn cho
vay từ ngân hàng thế giới WB,…Đặc biệt là nguồn vốn ODA đóng góp phần lớn vào
việc đáp ứng nhu cầu đầu tư của ngành giáo dục. Thống kê cho thấy nguồn vốn ODA
chiếm 5% tổng vốn ngân sách nhà nước giành cho giáo dục, với tỷ lệ trên nguồn vốn
này hàng năm đã đóng góp một phần đáng kể vào cải thiện chất lượng giáo dục, có thể
thấy ngân sách nhà nước giành cho bậc cao đẳng đại học chiếm 9 % tổng ngân sách nhà
Chuyên để thực tập tốt nghiệp

nước giành cho giáo dục, nếu không có sự đóng góp của nguồn vốn này thì nguồn vốn
ngân sách nhà nước không đủ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở bậc học được coi là
tạo ra nguồn lực phát triển đát nước. Để duy trì được những nguồn vốn này chúng ta
cần phải sử dụng thật sự có hiệu quả, hiệu quả cảu việc thực hiện các dự án giáo dục
vốn vay ODA không chỉ nhìn nhận ở góc độ giải ngân, mà quan trọng nhất là học sinh
được nhận được gì từ những cơ sở vật chất do đầu tư xây dựng mang lại.
2.2. Đánh giá tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước từ năm 2001 đến nay
2.2.1. Những kết quả đã đạt được
2.2.1.1. Tổng quan về vốn đầu tư qua các năm
Tổng chi NSNN giành cho giáo dục đào tạo ngày càng có xu hướng tăng năm
2008 lượng vốn này ước khoảng 79.004 tỷ đồng đạt 20% tổng chi NSNN.
Bảng 2.1: NSNN chi cho ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Ước tính
2009
Tổng chi
NSNN giành
cho Giáo dục
13.752 15.814 18.312 29.298 40.140 58.369 68.802 79.004 92.370
Nguồn: Tổng cục Thống Kê
Ngân sách của nhà nước giành cho ngành giáo dục ngày càng tăng, năm 2001 so
với năm 2002 là 15,8 % và các năm tiếp theo là 16,4 %; 17,8 % đến năm 2008 là 20%
và con số này sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Tuy nhiên, so với nhu cầu phát triển
chung của ngành và các địa phương thì lượng vốn này mới chỉ đáp ứng được một phần,
chủ yếu là thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm của ngành: chương trình đổi
mới sách giáo khoa, chương trình kiên cố hóa trường, lớp học, tăng cường cơ sở vật
chất các cơ sở giáo dục đào tạo, tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô, góp phần trực
tiếp cho việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Theo cơ chế phân cấp ngân sách

của từng địa phương, vẫn còn một số Sở GD- ĐT không được thông báo vốn đầu tư
XDCB của ngành trên địa bàn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc tham gia quản lý,
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
điều hành và đánh giá thực hiện vốn đầu tư hàng năm, cũng như việc xây dựng quy
hoạch, kế hoạch tăng cường cơ sở vật chất cho toàn ngành
Biểu đồ 2.1: Tổng chi NSNN giành cho giáo dục giai đoạn 2001 - 2008

2.1.2. Phân bổ vốn đầu tư theo địa phương, theo các cấp học
Bảng 2.2: Phân bổ vốn ngân sách giáo dục đào tạo qua các năm
Đơn vị : Tỷ đồng
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Ước tính
2009
Tổng chi cho
GD – ĐT địa

phương
10086 13054 13574 23787,7 32740 33210 53264 60271 62901
Tổng chi cho
GD – ĐT
5033 6526 7815 8190,3 74000 13410 16538 18730 21899
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
trung ương
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Vụ Đầu Tư – Bộ Tài chính về vốn NSNN giành
cho giáo dục giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Cơ cấu phân bổ vốn cho Giáo dục đào tạo của cho các địa phương và trung ương
khá hợp lý, và được điều chỉnh một cách hợp lý theo các chương trình, mục tiêu cần đạt
được trong năm. Trong các năm vừa qua tổng vốn NSNN giành cho giáo dục có xu
hướng ngày càng tăng, vì vậy nhìn chung ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo địa
phương cũng có xu hướng tăng, đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục đào tạo ở các địa
phương nói chung và toàn quốc nói riêng. Lượng vốn ngân sách nhà nước giành cho các
địa phương không phải được phân chia đều cho 64 tỉnh thành phố trong cả nước mà
được phân chia theo các tiêu chí như: nhu cầu về vốn của từng địa phương, các chương
trình dự án quan trọng cần phải thực hiện, các khu vực có hoàn cảnh điều kiện kinh tế
xã hội khó khăn (miền núi, vùng dân tộc ít người). Do sự phân bố của các trường đại
học cao đẳng ở Việt Nam không đồng đều. Các trường đại học cao đẳng lớn tập trung
hầu hết ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…, những trường
đại học tập trung ở các thành phố lớn là những trường đại học trọng điểm, là trường đi
đầu trong quá trình hội nhập với nền giáo dục đại học cao đẳng của các nước trong khu
vực và quốc tế, vì vậy mà các địa phương này được phân bổ lượng vốn ngân sách nhiều
hơn so với các tỉnh thành phố còn lại. Với mục tiêu thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho tất cả các tầng lớp nhân dân trong
xã hội, người dân ở tất cả các vùng miền trong cả nước. Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng
dân tộc ít người, vùng khó khăn, đặc biệt là đối với các tỉnh mới thành lập cơ sở vật
chất còn hết sức khó khăn như: Lai Châu, Đắc Nông, Hậu Giang, trong đó đặc biệt quan
tâm đến hệ thống trường nội trú và cụm xã. Vốn đầu tư giành cho hỗ trợ giáo dục miền

núi, vùng dân tộc ít người và vùng có nhiều khó khăn thường chiếm 10 – 11 % ngân
sách giành cho giáo dục địa phương. Phần kinh phí này chủ yếu đầu tư xây dựng các
trường, đổi mới trang thiết bị giảng dạy, tập trung đầu tư cho hệ thống các trường phổ
thông dân tộc nội trú các cấp: trường, lớp học, chỗ ở cho học sinh nội trú, hệ thống thư
viện, sách truyện…
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
Thực hiện đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, đẩy mạnh
giáo dục toàn diện trong tất cả các cấp học. Đồng thời với việc tăng cường chất lượng
và hiệu quả, tiếp tục mở rộng quy mô các cấp học và trình độ đào tạo phù hợp:
Đối với cấp học mầm non: Với mục tiêu đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều được
chăm sóc, giáo dục bẳng những hình thức thích hợp, tạo điều kiện phát triển tòan diện
về thể chất, trí tuệ, thẩm mỹ. Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến trường từ 12% năm 2000 lên
15 % năm 2005 và 18% năm 2010, trẻ từ 3 – 5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo
từ 50% năm 2000 lên 58 % năm 2005 và 67 % vào năm 2010, riêng trẻ em 5 tuổi tăng
tỷ lệ huy động đến mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1 từ 81 % năm 2000 lên 85 % vào
năm 2005 và 95 % năm 2010; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo
dục mầm non xuống dưới 20 % vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010.
Đối với cấp học phổ thông: Thực hiện giáo dục toàn diện về đạo đức, cung cấp
học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp, tiếp cận trình độ các nước
phát triển trong khu vực, xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ
động, tích cực, sáng tạo, lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận
dụng kiến thức vào cuộc sống. Bậc tiểu học, tăng tỷ lệ huy động học sinh đến trường từ
95 % năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99 % năm 2010, bổ sung cơ sở sở vật chất cho
hoạt động dạy và học cho giáo viên và học sinh trong trường, nhằm hỗ trợ dự án đổi
mới nội dung sách giáo khoa. Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô
thị, vùng kinh tế phát triển vào năm 2005, và cố gắng đến năm 2010 đạt phổ cập trong
cả nước. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74 % năm 2000 lên năm
80% năm 2005 và 90 % vào năm 2010. Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm
đảm bảo cho học học sinh có học vấn phổ thông trung học, cơ bản theo một chuẩn
thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp

học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phân luồng sau trung học phổ thông, để học sinh chọn ngành nghề phù hợp
sau khi tốt nghiệp, tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38%
năm 2000 lên 45% năm 2005 và 50 % vào năm 2010.
Đối với bậc học đại học cao đẳng, đây là bậc học có lượng vốn đầu tư lớn nhất
so với các bậc học khác, đây là bậc học đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao,
phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao
Chuyên để thực tập tốt nghiệp

×