1
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ HẢO
MSSV:6116178
ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG
CỦA DAZAI OSAMU
Luận văn tốt nghiệp
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hƣớng dẫn: Ths.GV. TRẦN VŨ THỊ GIANG LAM
Cần Thơ, 2014
2
ĐỀ CƢƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG.
CHƢƠNG 1. MỐT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1. Một số vấn đề chung về tiểu thuyết
1.1.1. Đặc điểm nội dung
1.1.2. Đặc điểm nghệ thuật
1.2. Vài nét về lịch sử xã hội và văn học Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai
1.2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội
1.2.2. Tình hình văn học
1.3. Nhà văn Dazai Osamu và tiểu thuyết Tà dƣơng
1.3.1. Dazai Osamu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.3.2. Tiểu thuyết Tà dương
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG
2.1.Vẻ đẹp truyền thống và vẻ đẹp của tầng lớp quý tộc Nhật Bản
2.2. Bi kịch nhân sinh của xã hội hậu chiến
2.3. Khát vọng vƣợt thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn để tồn tại.
2.4. Tình yêu trong tiểu thuyết Tà dƣơng
2.5. Tình cảm gia đình trong tiểu thuyết Tà dƣơng
3
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT TÀ DƢƠNG
3.1. Kết cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết Tà dƣơng
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Tà dƣơng
3.2.1. Xây dựng nhân vật thông qua ngoại hình và hành động
3.2.2. Nghệ thuật khắc hoạ tâm lí nhân vật
3.3. Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Tà dƣơng
3.4. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
3.4.1. Không gian thời gian thực
3.4.2. Không gian thời gian của chiều sâu tâm lí
PHẦN KẾT LUẬN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
4
PHẦN MỞ ĐẦU
5
1. Lí do chọn đề tài.
Nhật Bản là một cường quốc kinh tế thế giới, có một lịch sử lâu đời, một nền
văn hóa phong phú và một nền văn học độc đáo. Nhật Bản không chỉ là đất nước xinh
đẹp của Kimono, hoa anh đào của ngọn núi lừng danh Phú Sĩ với vẻ đẹp lộng lẫy và
huyền ảo nơi hun đúc nên bao tâm hồn văn nhân Nhật Bản mà Nhật Bản có lẽ còn ấn
tượng hơn bởi một hiện tượng thần kì, từ một đất nước đổ nát sau chiến tranh, đã vươn
lên thành một siêu cường quốc trên thế giới, sự phát triển đó khiến nhân loại ngưỡng
vọng và khâm phục về ý chí nghị lực của dân tộc này, một dân tộc dám sống cho niềm
tin và sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng của mình.
Văn học Nhật trải dài theo tiến trình phát triển hàng nghìn năm của đất nước,
đây là nền văn học có thể sánh ngang với các nền văn học lớn trên thế giới không chỉ
vì bề dày lịch sử mà còn về tính chất phong phú và độc đáo, khối lượng thông tin đồ sộ
và hấp dẫn. Văn học hiện đại Nhật Bản cũng hòa mình vào việc khẳng định vị thế
vững vàng của văn học dân tộc trên văn đàn thế giới, những tài năng văn chương như:
Akutagawa Ryunosuke, Kawabata Yasunari, Kenzaburo Oe, Mori Ogai… từ lâu đã trở
nên quen thuộc với bạn đọc năm châu, và sẽ là thiếu sót khi tìm hiểu về văn học Nhật
Bản, đặc biệt là văn học hiện đại mà lại không nhắc đến tác giả Dazai Osamu.
Dazai Osamu là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Nhật Bản thời kì vừa chấm dứt
Đại chiến thế giới thứ hai, trên nền cảnh của một xã hội Nhật điêu tàn và sự vỡ mộng
cay đắng của niềm tự tôn dân tộc chủ nghĩa mang tên Nippon. Văn nghiệp của Dazai
không đồ sộ như nhiều nhà văn Nhật Bản khác nhưng ông lại có những tác phẩm để
đời, Tà dƣơng là một tác phẩm như thế.
Tà dƣơng, một trong những cuốn “tiểu thuyết Nhật Bản bán chạy nhất thời
hậu chiến”[6; tr.7] đã đưa Dazai lên hàng tác gia nổi tiếng nhất thời bấy giờ, góp phần
khai sinh một từ ngữ mới cho tiếng Nhật vẫn còn được sử dụng cho đến ngày hôm
nay: Tà dƣơng tộc. Tác phẩm nói đến tâm thức tan hoang của toàn Nhật Bản thời hậu
chiến thông qua sự sa sút của một gia đình quý tộc phải sống cuộc đời thường dân,
Tà dƣơng thực sự đã vươn tới những vấn đề mang tính nhân loại sâu sắc, đặc biệt là
cuộc vật lộn của con người trong hành trình cuộc đời để tìm thấy bản ngã đích thực
6
của mình, những khát khao cháy bỏng, những giá trị truyền thống tốt đẹp và cả những
ý nghĩa đích thực của cuộc sống, nhà văn Dazai đã chạm vào nơi sâu thẳm nhất trong
tâm hồn con người, khiến mỗi lần đọc xong tác phẩm của ông, người đọc không khỏi
giật mình ngỡ ngàng vì bắt gặp chính bản thân trong đó.
Tà dƣơng là một tiểu thuyết đặc sắc, có nhiều vấn đề để nghiên cứu. Vì thế,
người viết đã chọn thực hiện đề tài Đặc điểm nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết Tà
dương của Dazai Osamu với mong muốn đóng góp một phần vào việc tìm hiểu và
phát hiện thêm những điều kỳ diệu, độc đáo trong văn chương Dazai Osamu, đồng thời
góp phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu văn học nước ngoài trong bối cảnh mở cửa thân
thiện, học hỏi và giao lưu văn hóa hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Dazai Osamu là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Nhật Bản sau
Thế chiến, tiếc là cho đến nay việc dịch thuật các tác phẩm, việc nghiên cứu về nghệ
thuật tiểu thuyết cũng như những đóng góp của ông đối với văn học chưa được chú
trọng ở Việt Nam. Tà dƣơng là một trong những cuốn tiểu thuyết tạo nên tên tuổi của
nhà văn, nhưng chưa có một công trình lớn nào nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu về
tác phẩm này, chủ yếu chỉ dừng lại ở việc lặp lại thông tin tiểu sử, đưa ra tóm tắt, nhận
xét sơ lược hoặc chỉ ra đặc sắc của tác phẩm ở khía cạnh nhỏ mà chưa có tính chất bao
quát.
Một số bài nghiên cứu về cuộc đời tác giả, đặc điểm cơ bản về nội dung và
nghệ của tiểu thuyết như: Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản (Nguyễn Nam Trân),
Dazai Osamu tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản (Phạm Vũ Thịnh), Tà dƣơng, sống
hay không sống (Hoài Nam), Hơn cả cái chết (Đặng Khánh Ly) và bài viết Cảm
nhận về Tà dƣơng của nhà phê bình hiện đại Nhật Bản Kakuta Mitsuyo đã được dịch
giả Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ, in thay cho lời kết của tiểu thuyết Tà
Dƣơng …
Công trình Tổng quan Lịch sử văn học Nhật Bản, tác giả Nguyễn Nam Trân
trong phần viết về Buraiha và tiểu thuyết thông tục mới của chương Đoạn đường vượt
thoát hậu chiến, trên cơ sở nêu ra những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời và những
sáng tác tiêu biểu của nhà văn, Nguyễn Nam Trân đã chỉ ra những điều kiện ảnh
7
hưởng đến con người, phong cách văn chương và mối quan hệ của nhà văn với các tác
giả đương thời. Tác giả của công trình này cũng phác hoạ những nét cơ bản nội dung
mà Tà dƣơng chứa đựng và cho rằng đây là tiểu thuyết mà “Tác giả Dazai Osamu đã
gửi gắm tâm sự của mình…trình bày tình cảm tuyệt vọng trước xã hội mới cũng như
đưa ra tín điều luân lý của ông”[13]
Tác giả Phạm Vũ Thịnh trong bài viết Dazai Osamu – Tiểu thuyết gia hiện đại
Nhật Bản không chỉ nêu những nét tiêu biểu trong cuộc đời nhà văn mà còn cho thấy
sợi dây liên hệ giữa con người tiểu thuyết gia này với các nhân vật trong tác phẩm của
ông “tác phẩm của Dazai Osamu hàm chứa một nỗi bi quan sâu đậm, điều không có gì
lạ ở một người đã nhiều lần muốn tự tử chấm dứt đời mình. Các nhân vật tiểu thuyết
của ông cũng quan niệm chuyện tự tử như phương cách duy nhất có thể thay thế cho
đời sống địa ngục của họ”[10] sau đó tác giả này đã chứng minh cho luận điểm của
mình bằng cách chỉ ra tâm lí khinh bạc với cuộc sống của Yoko và Naoji những nhân
vật chính trong hai tiểu thuyết tiêu biểu của Dazai Osamu là Thất lạc cõi ngƣời và Tà
dƣơng.
Tà dƣơng sống hay không sống của tác giả Hoài Nam đề cập tới tác phẩm
bằng cách nêu đặc điểm của các nhân vật trung tâm “ba số phận cuộc đời nhuốm màu
của tà dương theo những cách khác nhau, nhưng đều để lại dư vị đắng chát trong
người đọc khi cuốn sách đã gấp lại”[9]. Trong đó, nhân vật Kazuko đại diện cho khả
năng sống, tưởng như mong manh, dễ vỡ nhưng đằng sau và bên trong đó là cả một
khối sống mạnh mẽ, cậu em trai Naoji đại diện cho khả năng không sống là mẫu hình
nhân vật văn học “Người xa lạ” kiểu Nhật Bản hoang mang mất định hướng. Tà
dƣơng phản ánh tâm trạng vỡ mộng và bế tắc đến cùng cực của một bộ phận nào đó
người Nhật thời hậu chiến, nhưng sống hay không sống trong Tà dƣơng còn là sự nhận
thức về một nỗi đau trong đời sống tinh thần của thời hiện đại đó là cái tầm thường
đang dần bức tử cái cao nhã. Đây có thể coi là bài viết có cái nhìn sâu sắc đối với tác
phẩm Tà dƣơng và nhà văn Dazai Osamu.
Đặng Khánh Ly trong bài viết Hơn cả cái chết đã thể hiện sự ngưỡng mộ tác
giả tiểu thuyết trong việc nắm bắt tâm lí nhân vật, đặc biệt là tâm lí phụ nữ, Đặng
Khánh Ly đã nêu ra những chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm để chứng minh cho nhận
định của mình, như lời lẽ trong thư gửi Uehara, sự chuyển biến tâm lí của nhân vật
8
Kazuko, nét tinh tế của người mẹ qua cử chỉ hành động, sự mẫn cảm của cậu em trai
Naoji với ý thức về sự lạc loài của bản thân trước thế gian. Ngoài ra, tác giả còn phát
hiện ra nét bút tài hoa của Dazai Osamu trong việc xây dựng các hình ảnh trong
truyện, hình ảnh con rắn và Kazuko, hình ảnh hoa quỳnh và Naoji, hình ảnh người mẹ
và một quá khứ đẹp đẽ vĩnh viễn mất đi Dưới dạng một bài viết cảm nhận chủ quan
nhưng Đặng Khánh Ly đã mang lại những cảm xúc mới mẻ, tạo ra một cái nhìn khá
đầy đủ về tác phẩm.
Bài viết Cảm nhận về Tà dƣơng của nhà phê bình hiện đại Nhật Bản Kakuta
Mitsuyo là bài viết khá đặc biệt, nói về quá trình mà nhà phê bình này hiểu Tà dƣơng.
Mười tuổi, mặc dù yêu thích nhưng Kakuta chỉ có thể kết luận mình không hiểu lắm
khi đọc tác phẩm lần đầu tiên, ngoài 20 tuổi là cảm giác phiền phức, ngại ngùng và
phải cho mãi đến 30 tuổi tác giả mới thẩm thấu được tiểu thuyết Tà dƣơng, mới hiểu
được những điều mà nhà văn Dazai Osamu gửi gắm. Ngoài ra, Kakuta Mitsuyo còn
thể hiện sự ngưỡng mộ của mình khi nhận ra sự tươi mới hiện đại của ngôn từ được
tiểu thuyết gia sử dụng trong tác phẩm “ngôn ngữ thật mới mẻ tân kì đến mức dường
như đã vượt qua khoảng cách giữa thời đại được viết và thời đại được đọc”[6; tr.187]
bài viết này cũng như là một minh chứng cho nhận định của Hoàng Long khi dịch giả
này cho rằng “tác phẩm của Dazai được nhiều người nữ yêu thích đến tận hôm nay vì
ông rất hiểu tâm lí phụ nữ và đưa vào trong tác phẩm của mình một cách chân
thành”[6; tr.10]
Các nhận định cũng như bài viết của những người nghiên cứu đi trước dù ít ỏi
nhưng là những công trình quý báu cho việc giới thiệu nhà văn Dazai Osamu đến với
độc giả Việt Nam góp phần khẳng định vị trí, làm sáng tỏ tài năng, sự sáng tạo và
những đóng góp của Dazai với nền văn học Nhật Bản, và cũng là nền tảng cho người
viết trong việc tìm hiểu, thực hiện đề tài của mình.
3. Mục đích nghiên cứu.
Qua quá trình tiếp cận với tác phẩm người viết mong muốn đạt được những
mục đích sau: Trước hết, làm sáng tỏ cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật của
tiểu thuyết Tà dƣơng, để góp phần lý giải nguyên nhân khiến nó trở thành tác phẩm
quan trọng gây tiếng vang và mang Dazai Osamu đến gần hơn với người đọc. Bên
9
cạnh đó, thực hiện đề tài này là cơ hội để tích lũy thêm những kiến thức mới về văn
học, đất nước và con người Nhật nói chung, cũng như về nhà văn Dazai Osamu một
tiểu thuyết gia, tiếng nói văn học Nhật Bản tiêu biểu của thời kỳ vừa chấm dứt Thế
chiến thứ hai - một con người sống và viết cùng một nghĩa như nhau, thành thực mà bi
đát.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, người viết đã khảo sát văn bản trên cuốn Tà dƣơng
Dazai Osamu do Hoàng Long dịch của NXB Hội Nhà văn phối hợp Phương Nam
Book giới thiệu năm 2012, từ đó rút ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của
tiểu thuyết. Ngoài ra người viết cũng tham khảo các tác phẩm cùng tác giả và một số
tài liệu có liên quan để phân tích, liên hệ so sánh nhằm giúp đề tài được sáng tỏ và
hoàn thiện hơn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Sử dụng đúng và có hiệu quả các phương pháp luận nghiên cứu khoa học sẽ
tạo cho người viết những bước đi đúng hướng. Những phương pháp được vận dụng
trong quá trình nghiên cứu bao gồm:
Phương pháp lịch sử_xã hội: Nội dung và nghệ thuật ít nhiều chịu sự chi phối
của nền văn học và hoàn cảnh thời đại mà người cầm bút đang sống, vì vậy nghiên cứu
tiến trình lịch sử và hoàn cảnh xã hội giúp người nghiên cứu có cái nhìn đúng đắn hơn
về đối tượng đang khảo sát.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: là một trong những phương pháp được vận
dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu đề tài. Dựa vào một số nhận xét, đánh giá
của các nhà phê bình, nghiên cứu và sự phân tích dựa trên văn bản tác phẩm mà người
viết đưa ra những nhận xét, đánh giá của mình để bài viết mang tính khoa học và
thuyết phục hơn.
Phương pháp tiểu sử: Tìm hiểu mối quan hệ giữa cuộc đời đối với sự nghiệp
sáng tác của nhà văn, tìm ra sự ảnh hưởng để lý giải vấn đề trọng tâm.
10
Phương pháp so sánh - đối chiếu: là một phương pháp không thể thiếu. Bằng
phương pháp so sánh đối chiếu các tác phẩm giúp ta có thể đi sâu hơn từng khía cạnh
và làm sáng tỏ vấn đề.
11
PHẦN NỘI DUNG
12
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1. Một số vấn đề chung về tiểu thuyết.
So với các thể loại khác, tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn, nó là một thể loại văn
chương đang biến chuyển và còn chưa định hình, nghiên cứu về tiểu thuyết cũng như
xác lập hệ thống quan niệm về thể loại văn học này trong lý luận văn học là một vấn
đề có tính thời sự cao, đòi hỏi bề dày tâm huyết của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu,
phê bình, dịch thuật…
Định nghĩa về tiểu thuyết, công trình 150 thuật ngữ văn học của Lại Nguyên
Ân khẳng định, tiểu thuyết là “tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số
phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây
được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ
cấu của nhân cách” [2; tr.325]
Trong công trình Lí luận văn học tác giả Phương Lựu (chủ biên), tiểu thuyết
được coi “là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại.
Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng
lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể
các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [5; tr.387].
Ngoài ra còn có rất nhiều nhận định khác về thể loại tiểu thuyết, nhưng dù cho
sơ khai hay hiện đại thì chúng cũng giao nhau ở một số điểm nhất định, có thể hiểu
tiểu thuyết là một thể loại của văn học dưới hình thức tự sự, có dung lượng lớn, có khả
năng tái hiện hiện thực cuộc sống cũng như miêu tả số phận con người trong các mối
quan hệ xã hội một cách sâu rộng.
1.1.1. Đặc điểm nội dung
Trên cơ sở so sánh với một số thể loại văn học khác, Phương Lựu và các tác
giả trong công trình Lí luận văn học đã đưa ra sáu đặc điểm cơ bản về nội dung của
tiểu thuyết như sau:
Đặc điểm đầu tiên làm tiểu thuyết khác với sử thi (anh hùng ca) và ngụ ngôn,
tiểu thuyết nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư, yếu tố đời tư được xem là chất tiểu thuyết,
là đặc trưng nổi bật của thể loại. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống hiện tại không ngừng
biến đổi, phản ánh sâu rộng số phận con người trong các mối quan hệ xã hội. Ý thức
13
về số phận con người là nhân tố quyết định sự hình thành thể loại và là hạt nhân của
nghệ thuật sáng tạo tiểu thuyết. Tuỳ theo thời kì phát triển cái nhìn đời tư có thể kết
hợp với vấn đề thế sự hoặc lịch sử dân tộc.
Nét tiêu biểu thứ hai của tiểu thuyết là chất văn xuôi, miêu tả cuộc sống như
một thực tại cùng thời đang sinh thành, tức là một sự tái hiện không thi vị hoá, lãng
mạn hoá, lí tưởng hoá. Tiểu thuyết có sự pha trộn, chuyển hoá lẫn nhau của nhiều màu
sắc thẩm mĩ, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn của
cuộc đời, bao gồm cả cái cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và
hài, cái lớn và cái nhỏ Chính chất văn xuôi đã mở ra một vùng tiếp xúc tối đa với
thời hiện tại đang sinh thành làm cho tiểu thuyết không bị giới hạn trong nội dung
phản ánh, phơi bày sự phức tạp muôn màu của cuộc sống, mọi vấn đề hiện lên với đầy
đủ những góc cạnh từ sự hài hoà đẹp đẽ đến cái gai góc xù xì. Tiểu thuyết tái hiện hiện
thức cuộc sống một cách chân thực và đa diện nhất.
Thứ ba, nhân vật tiểu thuyết là con người nếm trải, nhân vật xuất hiện như là
con người nếm trải tư duy, chịu khổ đau, dằn vặt ở đời. Tiểu thuyết miêu tả con người
trong hoàn cảnh, không tách nó khỏi hoàn cảnh, không cô lập nó cũng như không
cường điệu sức mạnh của nó. Nếu nhân vật kịch là con người hành động, nhân vật trữ
tình của thơ ca thiên về cảm xúc, nhân vật truyện ngắn xuất hiện như một lát cắt của
một cuộc đời thì nhân vật tiểu thuyết hiện lên đầy đủ và toàn diện trong một quãng đời
dài với sự miêu tả tỉ mỉ, trong quãng đời ấy, số phận con người được khai thác đầy đủ
chi tiết trong các mối quan hệ phức tạp của xã hội. Miêu tả thế giới bên trong, phân
tích tâm lí nhân vật là một phương diện không thể bỏ qua của bất kì loại hình văn học
nào nhưng đây là lợi thế tối ưu đặc trưng của tiểu thuyết, tiểu thuyết có thể phân tích
tâm lí bên trong của nhân vật một cách cặn kẽ và sâu sắc nhất.
Thứ tư, tiểu thuyết chứa đựng các yếu tố nằm ngoài cốt truyện, được gọi là yếu
tố thừa. Đó là các suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, sự phân tích cặn kẽ
các diễn biến tình cảm, sự trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về
quan hệ giữa người và người, về đồ vật, môi trường về toàn bộ tồn tại của con người,
đây là cái chính yếu trong thành phần của thể loại tiểu thuyết. Yếu tố thừa phơi bày ra
toàn bộ sự đầy đặn của tồn tại như một trạng thái và quá trình, tạo nên giọng điệu cho
tiểu thuyết đồng thời thể hiện tư tưởng của tác giả và nó được xem như phần trữ tình
14
ngoại đề trong tác phẩm. Yếu tố thừa tạo nên chất tiểu thuyết và là thành phần không
thể thiếu của thể loại văn học này.
Thứ năm, tiểu thuyết hướng về miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời
của người trần thuật, xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần
thuật, tiểu thuyết cho phép người trần thuật tiếp xúc, nhìn nhận các nhân vật một cách
gần gũi, có thể hiểu họ bằng kinh nghiệm của mình. Chính khoảng cách gần gũi này
làm cho tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ, nó cho phép người người trần thuật
có sự gần gũi với nhân vật của mình từ đó nhìn hiện tượng từ nhiều chiều. Tiểu thuyết
hấp thu mọi loại lời nói khác nhau của đời sống san bằng ngăn cách lời trong văn học
và ngoài văn học, tạo nên sự đối thoại giữa các giọng khác nhau.
Cuối cùng, với các đặc điểm nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng
tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các loại văn học khác, khả năng tổng
hợp làm cho bản thân thể loại tiểu thuyết vận động không ngừng, tiểu thuyết là “thể
loại duy nhất đang hình thành và chưa xong xuôi” (Bakhtin). Yếu tố dung lượng là thế
mạnh của tiểu thuyết trong việc chứa đựng về nội dung cũng như khả năng tổng hợp
nghệ thuật. Tiểu thuyết có khả năng tổng hợp tính hiện thực của kí, chất trữ tình của
thơ, tính lịch sử, chính trị của sử thi,… để tạo nên một chỉnh thể toàn diện ngoài ra tiểu
thuyết không chỉ tổng hợp thi pháp của các loại hình văn học khác mà còn tiếp thu
những thủ pháp của các loại hình ngoại biên khác như hội hoạ, âm nhạc hay điêu
khắc… khả năng này giúp người viết thể hiện kiến thức của mình và người đọc tiếp
nhận nhiều miền kiến thức khác nhau.
Tóm lại, tiểu thuyết là thể loại tự sự dân chủ, năng động và giàu khả năng phản
ánh đời sống nhiều mặt bậc nhất trong các thể loại văn học.
1.1.2. Đặc điểm nghệ thuật
Tiểu thuyết là một thể loại không ngừng vận động nên các yếu tố đặc trưng cơ
bản như nhân vật, cốt truyện, hoàn cảnh, chi tiết, kết cấu,… đều phát triển phong phú
và không ngừng biến đổi. Tiểu thuyết là thể loại văn học chủ yếu của phương thức tự
sự, phương thức phản ánh hiện thực tường tận, tỉ mỉ như chính cuộc sống thực dạng tự
xuất hiện và diễn biến trước mặt người đọc.
15
Theo quan niệm cổ điển truyền thống, nhân vật tiểu thuyết là nhân vật của hư
cấu và tưởng tượng, là nhân vật có tính chất điển hình được xây dựng theo quan niệm
nghệ thuật của nhà văn, nhân vật tiểu thuyết được miêu tả nhiều mặt, chi tiết như con
người sống từ tính cách đến số phận, từ hành động đến tâm lí, ngôn ngữ các thuộc
tính của nhân vật được miêu tả trong quá trình, trong tổng hòa các bình diện. Do
không hạn chế về không gian và thời gian, tiểu thuyết cho phép người viết thể hiện
trong tác phẩm của mình một dung lượng cuộc sống hết sức rộng lớn, đặc điểm này
giúp nhà văn có thể khắc hoạ nhân vật, những kiểu mẫu, những điển hình sâu sắc cả về
nội tâm cũng như ngoại hình, về cuộc sống lí tưởng cũng như cuộc sống hiện thực của
nhân vật. Tiểu thuyết không chỉ viết về một người mà còn viết về cả gia tộc, cả thế hệ,
thậm chí nhiều thế hệ, số lượng nhân vật là không giới hạn. Cách tiếp cận nhân vật
cũng hết sức đa dạng, qua hành động, tâm lí hay cũng có thể miêu tả thuần túy qua hồi
ức hay dòng ý thức của nhân vật.
Cốt truyện của tiểu thuyết tương đối phức tạp, có thể đơn tuyến hay đa tuyến,
đan bện nhiều quãng thời gian, có thể giàu kịch tính nhưng cũng có thể pha loãng để
thể hiện tính chất triết lí hoặc chất trữ tình. Cách trần thuật của tiểu thuyết cũng đa
dạng, sử dụng nhiều loại điểm nhìn để khắc họa nhân vật từ nhiều góc độ. Theo Phan
Cự Đệ, cốt truyện có ba nhiệm vụ cơ bản: “Thứ nhất, cốt truyện bộc lộ tính cách nhân
vật. Thứ hai, cốt truyện phản ánh những mâu thuẫn và xung đột điển hình của hoàn
cảnh xã hội. Thứ ba, cốt truyện bộc lộ tư tưởng chủ đề và nội dung nghệ thuật”[14]
Cốt truyện luôn là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, thông qua cốt truyện, nhà văn
vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện tâm hồn, tình cảm và sự đánh giá
chủ quan của họ đối với cuộc sống
Hoàn cảnh trong tiểu thuyết được khắc họa, phân tích rất chi tiết. Đó có thể là
hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh tự nhiên, môi trường phong tục, văn hóa thậm chí là hoàn
cảnh tưởng tượng. Hoàn cảnh trong tiểu thuyết cung cấp không gian cho nhân vật hoạt
đông, thúc đẩy nhân vật hoạt động làm phương diện bộc lộ tính cách, phân tích tâm lí,
tạo không khí chung của tác phẩm.
Về kết cấu, tiểu thuyết tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố thuộc nội dung tác
phẩm (tính cách và hoàn cảnh, hành động và biến cố trong cốt truyện) và các yếu tố
khác thuộc hình thức (bố cục, hệ thống ngôn ngữ, nhịp điệu v.v ). Kết cấu phải xử lý
16
mối liên hệ giữa tuyến sự kiện và tuyến nhân vật, đảm bảo sự thống nhất, nhà văn phải
quan tâm đến tất cả các bộ phận và mối liên hệ giữa chúng trong một chỉnh thể nghệ
thuật. Nguyên tắc của kết cấu là làm sao cho tư tưởng chủ đề thấm sâu vào từng bộ
phận của tác phẩm. Kết cấu của tác phẩm bao giờ cũng tăng cường sức mạnh nghệ
thuật của tác phẩm văn học, tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc.
Bên cạnh đó, ngôn từ trong tiểu thuyết cũng là một hiện tượng rất phong phú,
là đối tượng miêu tả của nhà văn, nhà văn miêu tả ngôn từ nhân vật như những sản
phẩm cá thể hóa cao độ, phù hợp với đặc điểm cá nhân của từng nhân vật, ứng với nhu
cầu miêu tả cá tính của nhân vật.
Các đặc điểm trên làm cho tiểu thuyết đạt được trình độ phát triển cao so với
các thể loại văn học tự sự khác. Nhìn lại lịch sử hình thành có thể thấy ở một số nền
văn học, có những giai đoạn, tiểu thuyết không được coi trọng, bị coi là thứ văn xuôi
thứ cấp, phụ phẩm thì theo sàng lọc thời gian cùng với những ưu điểm vượt trội tiểu
thuyết đã dần khẳng định vị trí của mình so với các loại hình văn học khác và trở thành
hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ, chẳng những đáp ứng nhu cầu đọc của công
chúng mà còn là nguồn tài liệu quan trọng cung ứng cho việc chuyển thể sang sân
khấu, điện ảnh, truyền hình.
1.2. Vài nét về lịch sử xã hội và văn học Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai
1.2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội
Năm 1945, việc Mỹ thả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và
Nagasaki cùng với sự tham chiến của Liên Xô đã làm cho chính phủ lẫn quân đội Nhật
chấn động tận gốc rễ. Ngày 15/08 Thiên hoàng tuyên bố chấp nhận sự thất trận. Sau
khi Nhật Bản kí vào Tuyên ngôn Postdam và đầu hàng vô điều kiện, quân Đồng Mình
đổ bộ lên đất nước mặt trời mọc, tiếng là quân Đồng Minh nhưng trên thực tế phải nói
là chỉ có người Mĩ cai trị trị Nhật Bản.
Theo Nguyễn Nam Trân trong Giáo trình Lịch sử Nhật Bản, cuối mùa hè năm
1945, Nhật Bản chỉ còn trơ trụi và điêu tàn, gần 200 vạn đồng bào mà một phần ba là
dân sự đã chết trong cuộc chiến tranh, những đống gạch vụn bao trùm 40% diện tích
các thành phố và dân số thành thị đã hao đi một nửa. Kỹ nghệ trở lại điểm xuất phát
đầu tiên. Nông nghiệp thiếu tất cả từ dụng cụ, thiết bị, phân bón đến nhân lực. Nhật
17
Bản vì chạy theo giấc mộng của các nhà lãnh đạo đã dồn hết tâm lực cho cuộc chiến
nên đã trắng tay. Người người bơ thờ, ngơ ngác, lần đầu tiên trong lịch sử của mình họ
bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. Sau chiến tranh, đất nước bị mất hết vị thế. Tháng
01/1946, Thiên hoàng Showa đã đưa ra Nhân gian tuyên ngôn xác nhận rằng mình chỉ
là con người bình thường chứ không phải là một vị thần sống bất khả xâm phạm như
cách người ta vẫn tôn vinh, nó đưa đến hệ quả là chính phủ không còn quản đốc, chi
viện cho Thần đạo cũng như các Thần xã vốn có vai trò tượng trưng cho chế độ quân
Phiệt, liên hệ giữa quốc gia và Thần đạo sẽ được phân biệt một cách minh bạch, vị trí
tối cao của Thiên hoàng không còn khi chế độ quân chủ nghị viện được thiết lập.
Trong tình trạng kinh tế bị tàn phá, thất nghiệp trầm trọng, thiếu thốn thực phẩm, hàng
hoá, lạm phát nặng nề Nhật Bản còn phải giải quyết vấn đề binh lính từ các chiến
trường được giải ngũ trở về, những người thường dân di trú ở Mãn Châu quốc và các
vùng khác nay cũng trên đường hồi hương, tổng cộng có đến 600 vạn người ùa về
nước trong cùng một lúc, khó khăn chồng chất khó khăn.
Trong thời gian chiếm đóng, Mĩ đã thi hành những chính sách để thực hiện hai
mục đích của mình là phi quân sự hoá và dân chủ hoá Nhật Bản, triệt tiêu sức mạnh
quân sự, đồng thời thay đổi từ căn bản cấu trúc xã hội của nước này để tạo ra một quốc
gia dân chủ, quốc gia này trong tương lai sẽ không còn có những hành động đi ngược
lại đường lối của Mĩ.
Khi Nội các mới lên nắm quyền, chủ trương dân chủ được từng bước thực
hiện. Trước tiên, đó là việc dân chủ hoá guồng máy kinh tế, hàng loạt tập đoàn tài
chính lớn phải giải thể, cổ phần của các nhà tài phiệt bị phân tán hòng phá vỡ sự tập
trung và độc chiếm. Đối với giáo dục, những nội dung không thích hợp vì tỏ ra sùng
bái Thiên hoàng và ca tụng chính thể quân Phiệt, chứa đựng tư tưởng tận trung báo
quốc, mang màu sắc thần quyền tôn vương theo cách thức chế độ cũ đều bị đình chỉ.
Tháng 12/1945, đạo luật về tổ chức công đoàn đã được ban bố tạo cho người lao động
quyền lập hội, quyền thương lượng với chủ và quyền đình công. Trong những cải cách
lớn này thì có một cải cách liên hệ đến việc giải phóng phụ nữ, bộ luật về tuyển cử cho
phép mọi công dân bất luận nam nữ, trên 20 tuổi đều có quyền đi bầu cử và cuộc bầu
cử đầu tiên sau chiến tranh (1946) đã có 39 phụ nữ trở thành thượng nghị sĩ mới,
18
chuyện trọng nam khinh nữ đã dần có sự thay đổi, đánh dấu một bước chuyển lớn của
thời đại.
Tháng 05/1947, Hiến pháp Nhật Bản chính thức có hiệu lực, đây là tư liệu quý
báu để hiểu về những đổi mới trong xã hội Nhật thời hậu chiến, trong đó ba điểm
chính đáng nhớ là chủ quyền tại dân, tôn trọng các quyền làm người cơ bản, chủ
trương gìn giữ hoà bình, đặc biệt Điều 9 của Hiến pháp mà người Nhật hầu như không
ai không biết: Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh, đây là một Hiến pháp hoà bình
đánh dấu sự chuyển biến lớn của thời đại. Địa vị Thiên hoàng trước chiến tranh được
xem như là quyền uy tuyệt đối thì với Hiến pháp, chức vị này vẫn còn được minh định,
tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất so với trước là Thiên hoàng chỉ còn có tính cách tượng
trưng cho sự thống nhất toàn thể quốc dân. Hiến pháp cũng nhìn nhận Quốc hội do
dân chúng trực tiếp bầu ra là cơ quan tối cao nắm giữ quyền lực quốc gia. Xã hội Nhật
Bản về cơ bản đã được dân chủ hoá.
Tháng 09/1951, Hiệp ước hoà bình San Fancisco được kí kết, phục hồi chủ
quyền như quốc gia độc lập của Nhật sau 6 năm bị Mĩ chiếm đóng.
Đối với người dân Nhật Bản, hậu chiến có nghĩa là những khu nhà cửa cháy
sém đổ nát, vật giá leo thang, lạm phát thiếu thốn thế nhưng cũng trong những năm
đen tối ấy, xã hội Nhật đã bắt đầu nhìn thấy le lói những tia hi vọng của sự hồi sinh.
Năm 1947, tuyển thủ bơi lội Furuhashi Konoshin lập được kỉ lục thế giới 400 m tự do.
Năm 1949, giáo sư Yukawa Hideki đoạt giải Nobel vật lí. Kurosawa Akira đã đạt giải
thưởng của Đại hội điện ảnh Venise với tác phẩm Cổng Rashomon (1951) khẳng định
đẳng cấp quốc tế của phim Nhật. Năm 1968, nhà văn Kawabata Yasunari cũng được
trao tặng Giải Nobel Văn học.
Cho đến năm 1960, có nhiều biến chuyển rõ rệt về mọi mặt, điểm thứ nhất là
sự trung hoà về chính trị, tuy có sự khác nhau giữa cánh tả và cánh hữu nhưng không
có sự chống đối rõ rệt giữa hai phái nữa khi nền kinh tế đã ổn định. Thứ hai, đó là
những biến chuyển rõ nét về giá trị trong xã hội, người Nhật có ý thức về quyền lợi
và tự do cá nhân, tuy nhiên cái tôi của họ không phải là cái tôi Tây Phương mà là cái
tôi tập đoàn. Người Nhật vẫn sống trong một xã hội mà gia đình là đơn vị cơ bản.
Những năm 1940, người Nhật còn lo cái ăn, những năm 1950 mối lo của họ là nhà ở
19
nhưng bước qua thập niên 1960, với sự đô thị hóa và những giấc mơ vật chất của xã
hội tiêu dùng, an ninh và tiện nghi cá nhân mới chính là những cái thiết thân của con
người thời buổi ấy. Con người tìm cách tìm về nguồn gốc văn hóa của mình, tìm đặc
sắc của văn hóa nội địa như một phản ứng chống lại Âu Mỹ. Người Nhật lúc đó có nhu
cầu ngược dòng lịch sử tái khám phá ca ngợi vẻ đẹp muôn thủa của đất nước. Các
phương tiện truyền thông như báo chí, phim ảnh, truyền thanh và truyền hình phát
triển nhanh chóng ảnh hưởng to lớn đến con người và xã hội. Trước những biến cố của
lịch sử, văn học cũng như các loại hình khác thay đổi mình để phản ánh xã hội.
1.2.2. Tình hình văn học
Đối với văn học, nếu đầu thế kỷ XX những sáng tác theo khuynh hướng tự
nhiên chiếm ưu thế, thời Thế chiến với sự đụng độ của hai dòng văn học chính là văn
học vô sản vị nhân sinh và trường phái tân cảm giác vị nghệ thuật thì sau chiến tranh,
sự thất bại của nước Nhật đã ảnh hưởng sâu sắc đến đại bộ phận văn học. Vết thương
chiến tranh vẫn còn hằn sâu trong lòng người nhưng văn học Nhật Bản đã hồi phục
ngay như đón nhận được một luồng sinh khí mới. Những người tìm trở lại văn đàn
sớm nhất là những tác gia lão thành, thứ đến là các nhà văn hệ phái văn học vô sản, họ
bắt đầu tìm được không khí thích hợp để tiếp tục hoạt động. Những nhà bình luận lại
tiếp tục công việc lý luận văn học, rồi trường phái thơ văn hậu chiến bắt đầu sáng tác
Tất cả những tư trào văn học ấy, được sự hỗ trợ của báo chí đã phát triển ngày càng
rộng lớn, các tạp chí nối tiếp nhau ra đời hoặc được tục bản, giúp cho các nhà văn thế
hệ hậu chiến có chỗ đăng tải bài vở. Nguồn sinh lực bị đè nén trong thời chiến tranh
nay được bùng lên.
Đó là sự hồi sinh của các nhà văn thành danh: Shiga Naoya với Trăng Xám.
Nagai Kafuu viết Người vũ công, Huân Chương. Tanizaki Junichirô hoàn thành Mong
manh hoa tuyết, cho ra đời Người mẹ của tướng Shigemoto. Kawabata Yasunari viết
Tiếng núi rền, Ngàn cánh hạc, Người đẹp say ngủ tiếp tục cuộc hành trình trên đường
đi tìm nét đẹp Nhật Bản.
Sự ảnh hưởng của Buraiha (vô lại phái) và tiểu thuyết thông tục mới. Buraiha
là tập hợp những nhà văn sáng tác theo khuynh hướng chống lại quan niệm văn học có
màu sắc luân lý, được hình thành sau thời chiến. Họ viết văn với tình cảm tự dằn vặt,
thái độ sa đọa. Buraiha hay Shingesaku-ha (Tân hí tác phái) (Burai có hai nghĩa: kẻ
20
không coi phép tắc hay kẻ cầu bơ cầu bất, không nơi nương tựa. Ở đây, có thể hiểu
như Buraiha là “kẻ bất cần đời”). Ishikawa Jun đã dùng từ tiếng Pháp libertins
(những kẻ phóng đãng) để nói về nhóm người viết văn cùng chung khuynh hướng này.
Trường phái Buraiha có những nhà văn tiếu biểu, Ishikawa Jun (1899-1987) nhà văn
năng nổ, dịch thuật và sáng tác dồi dào, chịu ảnh hưởng văn học Pháp nhất là trường
phái tượng trưng, các tác phẩm tiêu biểu của ông là Phổ hiền, Truyền thuyết hoàng kim
nói về sự đối lập giữa cái thánh thiện và cái trần tục trong cuộc đời, những cảnh tượng
tan hoang của thời hậu chiến. Tác giả Oda Sakunosuke (1913-1947) có truyện Người
đàn bà ngày thứ bảy và tập bình luận Loại văn chương có hiệu năng với chủ trương
chống đối đường lối viết văn hiện có. Sakaguchi Ango viết Bạch tri, Đi tìm tình yêu,
tập bình luận Bàn về sa đọa nói lên tinh thần phản kháng đối với những lề lối thường
tình đang chi phối xã hội. Dazai Osamu có Tà dƣơng, Thất lạc cõi ngƣời bày tỏ thái
độ chống đối lối sinh hoạt của xã hội hậu chiến, ông bị coi như là một tâm hồn yếu
đuối đứng trước sức ép của xã hội và thời thế. Hầu hết các nhà văn thuộc trường phái
này đều chết trẻ, hoặc vì mệt mỏi, hoặc vì dùng thuốc kích thích hay tự sát. Điểm
chung giữa họ là đứng dậy từ đống tro tàn của thời hậu chiến, có thể nói trên đống
gạch vụn, đổ nát và sự hoang phế của lòng người, văn học hậu chiến Nhật Bản đã
đứng dậy với nhóm Buraiha. Sự góp mặt của tiểu thuyết đại chúng là một đặc điểm
của văn học sau chiến tranh, tiểu thuyết mang tên đại chúng ghi chép lại chuyển biến
trong thế thái nhân tình từ khi xã hội bước vào thời hậu chiến. Nhóm Buraiha có
khuynh hướng sáng tác chống lại quan niệm văn dĩ tải đạo đầy dụng ý luân lý, và có
đời sống sa đoạ đi đến tự hủy. Xã hội Nhật Bản ngay sau chiến bại với những băng
hoại về luân lý và giá trị quan truyền thống khi đối đầu với bản năng tranh sống trong
hoàn cảnh khắc nghiệt của đổ nát và túng thiếu, đã cung cấp cho nhóm tác gia Buraiha
những điển hình văn học đặc biệt hậu chiến.
Ngoài những nhà văn tiểu thuyết đại chúng, những nhà văn khuynh hướng vô
sản là những nhà văn xông xáo nhất thời hậu chiến. Năm 1945, họ cùng nhau thành
lập tổ chức Hội Văn học Nhật Bản mới với ba nhân vật giữ vai trò chủ yếu là
Miyamoto Yuriko, Nakano Shigeharu và Kurahara Korehito, mục tiêu của họ là phát
triển văn học dân chủ chủ nghĩa; tác phẩm của học phải kể đến Năm be rượu nhỏ,
Mình ơi! Hãy ngủ, tập lý luận văn học Chủ nghĩa hiện thực vô sản
21
Vào năm 1946, một số nhà văn cùng chí hướng đã qui tụ chung quanh tờ Cận
đại Văn học đó là Yamamuro Shizuka, Hirano Ken, Honda Shuugo, Haniya Yutaka,
Ara Masahito, Sasaki Kiichi, Odagiri Hideo, họ tập trung vào bình luận hơn sáng tác,
chủ trương rằng chính là con người chứ không phải chính trị mới là cái đích nhắm của
nhà văn. Những cây viết tụ họp chung quanh tờ Kindai Bungaku và trào lưu bắt nguồn
từ khuynh hướng văn học này đã được mệnh danh là trường phái hậu chiến. Phái hậu
chiến đợt I có các nhà văn tiêu biểu như Hara Tamiki, Ibuse Masuji với dòng văn học
chống bom nguyên tử miêu tả thảm trạng gây ra bởi bom nguyên tử trên thành phố và
trên thân xác những nạn nhân, cũng như bày tỏ sự phẫn nộ đối với quân phiệt Nhật,
chính phủ Mỹ…. và niềm khao khát hòa bình của họ. Phái hậu chiến đợt II với các
nhà văn Ooka Shohei, Takeda Taijun đỉnh cao là Đời tù binh, Phong môi hoa viết về
nỗi ám ảnh chiến tranh - một tổng thể của lo sợ, kinh hãi, phẫn nộ và bấn loạn, xảy ra
từng phút từng giây chứ không phải bình lặng như trong tranh ảnh và con người như
con vật hy sinh của chủ nghĩa tư bản bành trướng Nhật Bản Lớp nhà văn mới thứ ba
xuất hiện trên văn đàn khoảng 1952- 1955, họ mượn hình thức tiểu thuyết tự thuật theo
kiểu cũ nhưng để nói về cái trống rỗng của cuộc sống hiện tại với các nhà văn:
Yasuoka Shotaro, Yoshiyuki Junnosuke, Endo Shuusaku, Kojima Nobuo
Nhìn chung, văn học sau chiến tranh ở Nhật Bản có hai khuynh hướng chính,
một mặt gìn giữ một truyền thống đã có từ nhiều thế kỷ, một mặt đoạn tuyệt để xóa
sạch tàn tích của thời quân Phiệt, xây dựng một nền văn học thích nghi cho xã hội
mới, các tác phẩm thoát thai và trưởng thành trong thời kỳ hậu chiến khốc liệt mang
nhiều khủng hoảng và đổ vỡ, nhưng ẩn sâu đó vẫn thấy có một điểm tựa để con người
không sa vào bế tắc tuyệt đối, mà luôn có ý chí vùng vẫy để thoát ra - bằng hành động
của chính mình. Điểm tựa ấy chính là bản thân con người, bản thân cuộc sống.
1.3. Nhà văn Dazai Osamu và tiểu thuyết Tà dƣơng
1.3.1. Dazai Osamu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
Nhà văn Dazai Osamu (1909 - 1948) tên thật là Tsushima Shuji, là con thứ tám
trong một gia đình mười một người con ở Kanagi, Aomori, phía bắc đảo Honshu. Vì
cha làm chính trị, thường xuyên xa nhà và mẹ bị bệnh kinh niên sau khi sinh đến mười
một người con nên ông được một người cô nuôi nấng.
22
Theo tác giả Phạm Vũ Thịnh trong bài giới thiệu về Dazai Osaum – Tiểu
thuyết gia hiện đại Nhật Bản, thủa nhỏ, nhà văn từng học học ở trường trung học
Aomori và tốt nghiệp trường phổ thông Hirosaki. Ông là một học sinh xuất sắc với khả
năng viết tốt được phát hiện rất sớm lúc bấy giờ, ông tham gia chỉnh sửa và phát hành
những tập san sách báo dành cho học sinh, sinh viên. Cuộc đời của ông chỉ thay đổi
khi thần tượng văn học của ông lúc đó là nhà văn Akutagawa Ryunosuke tự tử năm
1927, ông bắt đầu lơ là việc học, phung phí chi tiêu của mình vào áo quần, rượu chè và
gái mại dâm, ông còn tiếp cận với phe cánh tả đang bị chính quyền đàn áp lúc đó. Năm
1929, đêm trước kỳ thi tốt nghiệp mà ông không hi vọng qua được, ông tự tử bằng
cách uống thuốc ngủ quá liều nhưng được cứu sống và tốt nghiệp năm sau đó. Dazai
Osamu ghi danh vào đại học Tokyo, chuyên ngành Văn chương Pháp, sau đó ông chạy
trốn cùng kỹ nữ Oyama Hatsuyo, tại thời điểm này, ông đã chính thức bị đuổi khỏi
nhà. Không mấy ngày sau khi bị từ, ông tự tự với một cô gái khác là Tanabe Shimeko,
Shimeko chết, nhưng Dazai được cứu bởi một chiếc thuyền đánh cá, việc này đã để lại
trong nhà văn một ám ảnh mạnh mẽ của tội lỗi. Sau sự kiện náo động này, gia đình đã
can thiệp để làm dịu đi tình hình, gia đình ông đồng ý để ông kết hôn với Hatsuyo.
Năm 1936, Dazai li hôn với Hatsuyo và đã nhanh chóng tái hôn với một giáo viên tiểu
học tên là Michiko Ishihara
Tháng 12/1941, Nhật Bản tham gia Chiến tranh Thái Bình Dương, nhưng nhà
văn được miễn đi lính do được chẩn đoán là mắc bệnh lao, căn bệnh tưởng chừng sẽ
ngăn ông tiếp tục văn nghiệp của mình, nhưng ông đã xoay xở để có thể xuất bản thêm
vài câu chuyện khác và trở thành một trong những nhà văn hiếm hoi còn chút hứng thú
trong sự nghiệp văn chương lúc bấy giờ. Nhà của ông bị dội bom hai lần nhưng gia
đình ông may mắn thoát chết với con trai một Masaki và con gái thứ ba Satoko, sau
này trở thành nhà văn nổi tiếng với bút danh Yuko Tsushima.
Sau này, Dazai Osamu qua lại với Shizuko Ota và có một cô con gái tên là
Haruko, vốn ưa uống rượu, ông trở nên nghiện và sức khỏe giảm sút dần.
Sau chiến tranh, nhà văn đã đạt tới đỉnh cao trong sự nghiệp viết văn của mình,
tinh thần phản xã hội của ông còn mạnh hơn trước. Ông viết vở kịch Pháo bông mùa
đông, Ngƣời vợ của Villon, Anh đào đứng trên lập trường phê phán quan niệm đạo
đức đã an bài. Tháng 07/1947, ông xuất bản tác phẩm Tà dƣơng, tác phẩm đưa ông lên
23
hàng tác gia danh tiếng nhất đương thời. Sau này, Dazai gặp Tomie Yamazaki là một
chuyên viên làm đẹp ông bỏ vợ con theo cô và viết tiểu thuyết tự thuật Thất lạc cõi
ngƣời nói về nỗi sợ sệt đứng trước con người và lòng tin đã đánh mất đối với họ. Sau
đó, ông tự sát ở hồ chưa nước ngọt của sông Tamagawa, gần Tokyo.
Ngoài hai tác phẩm nổi tiếng là Tà dƣơng và Thất lạc cõi ngƣời, nhà văn
Dazai Osamu còn có những tác phẩm tiêu biểu như Nữ sinh (1939), Một trăm cảnh
núi Phú Sĩ (1939), Melos ơi! chạy nhanh lên (1940), Yêu cầu khẩn thiết (1940),
Chính nghĩa và nụ cƣời (1942), Hữu đại thần Sanetomo (1943), Chiếc hộp Pandora
(1945), Chuyện kể dân gian (1945),…
Dazai Osamu bị coi như là một tâm hồn yếu đuối đứng trước sức ép của xã hội
và thời thế, ông nhiều lần tự tử hụt trước khi toại nguyện, thế nhưng ông lại rất được
hâm mộ từ sau 1945 vì ông nói lên được nỗi tuyệt vọng và hổ thẹn của người Nhật
chiến bại. Hổ thẹn có hai mặt trái ngược, một là vì không đáp lại được lòng mong mỏi
của giới lãnh đạo chiến tranh, hai vì đã đi lầm đường. Nhà văn để lại di cảo đang viết
nửa chừng có nhan đề là Goodbye. Và trong Thất lạc cõi ngƣời, tác phẩm cuối cùng
được ra mắt, ông đã đặt vào miệng nhân vật chính câu nói như "Đời tôi là một chuỗi
hổ thẹn!"[9] Đó là kết luận về đời văn và đời người của chính Dazai.
Ðời viết văn chuyên nghiệp của Dazai chỉ có 15 năm, từ năm 1933 đến 1948,
nhưng tác phẩm của ông còn được yêu thích mãi về sau, nhất là trong giới độc giả trẻ,
họ không chỉ cảm thông với ông nỗi khắc khoải tìm kiếm ý nghĩa của nhân sinh và sự
thật trong quan hệ giữa người đời, mà còn bởi cuộc đời pha lẫn bi kịch và sa đoạ, cùng
với ý thức tự hủy và nổi loạn của ông.
1.3.2. Tiểu thuyết Tà dƣơng
Tà dƣơng là cuốn tiểu thuyết được xuất bản năm 1947 – một năm trước khi
Dazai Osamu tự sát, chính từ cuốn tiểu thuyết này mà trong từ điển tiếng Nhật đã xuất
hiện thêm một từ, bây giờ vẫn lưu hành: Tà dƣơng tộc dùng để chỉ sự sa sút của giai
cấp thượng lưu vì một biến chuyển gấp gáp của xã hội [6; tr.7]
Ở nước ta, việc giới thiệu văn học Nhật Bản diễn ra chậm hơn so với văn học
một số nước khác. Điều này không chỉ bị hạn chế bởi hàng rào ngôn ngữ (những dịch
giả thông thạo tiếng Nhật còn ít) mà do nước ta phải trải qua những năm tháng chiến
tranh, chia cắt lâu dài. Thời kì đầu chúng ta tiếp nhận văn học Nhật Bản thông qua các
24
bản dịch từ tiếng Hán, Trung Quốc, Nga, Pháp, Anh các bản dịch từ nhiều ngôn ngữ
khác nhau nên rất phong phú và đa dạng. Điều đặc biệt của tiểu thuyết Tà dƣơng vừa
ra mắt độc giả Việt Nam vào đầu tháng 07/2012 là tác phẩm này được dịch giả Hoàng
Long “một trong số ít dịch giả có khả năng và tư duy chuyên nghiệp về mảng văn
chương Nhật”[11] dịch trực tiếp từ nguyên tác Nhật ngữ. Tà dƣơng là tiểu thuyết thứ
hai sau Thất lạc cõi ngƣời của Dazai Osamu được Hoàng Long chuyển ngữ nằm trong
Tủ sách tinh hoa văn học của Nhà xuất bản Hội nhà văn.
Tiểu thuyết gồm có 8 chương hình thành trên nhật kí, những bức thư gửi nhà
văn Uehara của nhân vật Kazuko và di chúc của Naoji, cho ta cảm nhận về sự đối mặt
của con người trước hiện thực cuộc sống sau chiến tranh. “Tà dƣơng” thứ ánh sáng
heo hắt trong khoảnh khắc suy tàn của một ngày để rồi bóng tối ập xuống ngay sau đó,
là hình ảnh biểu đạt chính xác tình cảnh của gia đình tiểu thư Kazuko, nhân vật người
kể chuyện xưng “Tôi” trong tiểu thuyết, cũng là tình cảnh xuống dốc nhanh dần đều
của tầng lớp quý tộc Nhật Bản ngay sau khi nước Nhật thất trận…
Gia đình Kazuko gồm ba người: bà mẹ, Kazuko, và cậu em trai Naoji. Ba nhân
vật tiểu thuyết, ba số phận cuộc đời nhuốm màu của tà dương theo những cách khác
nhau. Sau chiến tranh, hai mẹ con Kazuko phải rời bỏ ngôi nhà ở khu phố Nishikata để
dọn về một sơn trang hẻo lánh nơi miền quê. Naoji đi lính trở về sa đọa, nghiện ngập,
tan nát tâm hồn, không thể chịu đựng một sự giả dối nào, bế tắc cuối cùng tự sát.
Người mẹ sống nốt những ngày cuối cùng của cuộc chiến như một người quý tộc cuối
cùng, hiền dịu, nhẹ nhàng, khắc khoải trong nhớ nhung về một thời vàng son đã qua,
mang theo mình cái đẹp bi thiết của tà dương để cuối cùng chết mòn vì bệnh lao phổi.
Kazuko 29 tuổi, sau cuộc hôn nhân tan vỡ quay về sống với mẹ, không thể chịu đựng
nổi cuộc sống tẻ nhạt, cô quyết đứng lên đấu tranh, vượt qua mọi ràng buộc của đạo
đức - cô có con một mình, trút bỏ con người cũ để trở thành một con người hành động
của thời kì mới và bước đầu hoàn thiện cuộc cách mạng đạo đức của mình. Tự do, cô
cưu mang sự sống, đối mặt với những tan nát phũ phàng dẫu biết là bất định, sống như
mình muốn cho một ngày mới.
Ngoài nội dung đặc sắc, tác phẩm còn thể hiện tài năng bậc thầy của nhà văn
trong việc nắm bắt tâm lí nhân vật, tinh tế và nhạy cảm trong việc sắp xếp cốt truyện,
cách viết chân thành và thản nhiên đến kì lạ của một con người với một cuộc đời 39
25
năm ngắn ngủi mà tự sát đến năm lần, khinh bạc thế gian, chết không được nên khinh
thường cả cái chết, sống lay lắt qua qua ngày, Tà dƣơng và nhà văn Dazai Osamu đã
tạo ra những ám ảnh trăn trở, níu bám không dễ dàng buông bỏ trong lòng người đọc
ngay cả khi tác phẩm đã khép lại.