Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

hát xắng cọ của người sán chỉ ở lộc bình, lạng sơn - những đặc điểm nội dung và nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 165 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THU HIỀN




HÁT XẮNG CỌ CỦA NGƢỜI SÁN CHỈ
Ở LỘC BÌNH, LẠNG SƠN - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN














THÁI NGUYÊN, NĂM 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THU HIỀN



HÁT XẮNG CỌ CỦA NGƢỜI SÁN CHỈ
Ở LỘC BÌNH, LẠNG SƠN - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM

NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT


CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 62.22.34




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Nguyễn Hằng Phƣơng







THÁI NGUYÊN, NĂM 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban giám hiệu; Khoa sau đại học; Ban chủ nhiệm; quý Thầy, Cô giáo khoa
Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và quý Thầy, Cô trực tiếp
giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn
PGS.TS Nguyễn Hằng Phƣơng, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn bà Hoàng Thị Phát, bà Ấu Thị Nga Sơn
người đã giúp tôi trong quá trình sưu tầm tư liệu để hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, đồng
nghiệp và bạn bè đã luôn giúp đỡ, động viên tác giả hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 08 năm 2011
Tác giả



Nguyễn Thị Thu Hiền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung
thực và chưa từng được ai công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Thu Hiền



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Mục lục i
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 10
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ - CƠ SỞ TÌM
HIỂU HÁT XẮNG CỌ Ở LỘC BÌNH, LẠNG SƠN 10
1.1. Tổng quan về dân tộc Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn 10
1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Sán Chỉ ở Việt Nam 10
1.1.2. Vài nét về cộng đồng người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn. 14
1.1.3. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn
hóa của người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn. 16
1.2. Một số vấn đề chung về hát Xắng Cọ 23
1.2.1. Khái niệm Hát Xắng Cọ 23
1.2.2. Nguồn gốc của Hát Xắng Cọ 24
1.3. Hát Xắng Cọ ở Lộc Bình, Lạng Sơn 28
1.3.1. Hát Xắng Cọ trong đời sống văn hóa của người Sán Chỉ ở Lộc
Bình, Lạng Sơn 28
1.3.2. Hình thức diễn xướng và quy trình Hát Xắng Cọ ở Lộc Bình,
Lạng Sơn 29

Chƣơng 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HÁT XẮNG CỌ Ở LỘC
BÌNH, LẠNG SƠN 40
2.1. Những bài chào hỏi, kết bạn 40
2.2. Những bài hát về tình yêu đôi lứa 46
2.2.1. Tình yêu và sự thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu 47
2.2.2. Tình yêu và lời ước hẹn thủy chung 51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
2.2.3. Tình yêu và sự dang dở ngậm ngùi 54
2.3. Những bài hát thể hiện tri thức dân gian 57
2.3.1. Những bài hát về vòng giáp đời người 57
2.3.2. Những ứng xử của người Sán Chỉ trong cuộc sống 60
2.4. Những bài hát ca ngợi cuộc sống, con người, quê hương đất nước 64
2.4.1. Những bài hát truyền thống 64
2.4.2. Những bài hát thời hiện đại 67
Chƣơng 3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU CỦA
HÁT XẮNG CỌ Ở LỘC BÌNH, LẠNG SƠN 71
3.1. Thể thơ, kết cấu 71
3.1.1. Thể thơ 71
3.1.2. Kết cấu 77
3.2. Một số biểu tượng tiêu biểu 83
3.2.1. Biểu tượng “hoa” 84
3.2.2. Biểu tượng “chim” 89
3.2.3. Biểu tượng “cá” 91
3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật 94
3.3.1. Thời gian nghệ thuật 95
3.3.2. Không gian nghệ thuật 100
KẾT LUẬN 109

TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
PHỤ LỤC 119



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phương diện khoa học
Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới phía Đông Bắc của Tổ quốc, nơi
hội tụ văn hóa của các dân tộc Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Mông, Sán Chay
và một số dân tộc khác. Chính điều này đã tạo nên vùng văn hóa xứ Lạng đặc
sắc. Một trong những nét đặc sắc của văn hóa xứ Lạng đó là Hát Xắng Cọ của
dân tộc Sán Chỉ. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa đặc trưng vốn có của
người Sán Chỉ ở huyện Lộc Bình tỉnh Lạng Sơn. Hát Xắng Cọ còn ít người
biết tới. Do vậy, việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, kế thừa và phát huy
những giá trị của Hát Xắng Cọ là sự trăn trở của nhiều người có tâm huyết với
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Thực tế từ trước tới nay, Hát Xắng Cọ của người Sán Chỉ ở Lộc Bình đã
được một số người sưu tầm và dịch nhưng với số lượng rất hạn chế, chưa có sự
quan tâm, nghiên cứu một cách khoa học về giá trị nội dung và nghệ thuật.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điền dã và sưu tầm
những bài Hát Xắng Cọ lưu truyền trong dân gian với số lượng đáng kể.
1.2. Về phương diện thực tiễn
Hát Xắng Cọ là một làn điệu dân ca cổ truyền của người Sán Chỉ - một
sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc sắc của người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng

Sơn. Nghiên cứu những nét cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật của Hát
Xắng Cọ trong đời sống văn hóa dân gian của người Sán Chỉ ở địa phương
Lộc Bình, Lạng Sơn sẽ góp phần khẳng định, gìn giữ, bảo lưu và phát huy nét
đẹp truyền thống vốn có của văn hóa dân tộc Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn
nói riêng, các dân tộc thiểu số của Việt Nam nói chung trên con đường tìm về
với bản sắc cội nguồn dân tộc.
Xuất phát từ những phương diện nêu trên chúng tôi chọn “Hát Xắng
Cọ của ngƣời Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn - Những đặc điểm nội dung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
và nghệ thuật” làm đề tài nghiên cứu của mình. Đề tài này không chỉ có giá
trị trong lĩnh vực nghiên cứu văn học và văn hóa dân gian của các dân tộc ít
người mà còn mang ý nghĩa thiết thực đối với tôi - một giáo viên dạy Ngữ văn
ở xứ Lạng. Chúng tôi mong muốn được khám phá, tôn vinh, gìn giữ và phát
huy những giá trị văn hóa có sức sống bền bỉ của dân tộc Sán Chỉ nói riêng,
các dân tộc thiểu số ở xứ Lạng nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về Hát Xắng Cọ của người Sán Chỉ
Nhắc đến những giá trị văn hóa - nghệ thuật của các dân tộc trên đất
nước ta, trước hết phải nói đến những giá trị to lớn của vốn văn học dân gian
cổ truyền của mỗi dân tộc. Trong đó, dân tộc Sán Chỉ có những đóng góp
đáng kể. Qua quá trình lao động sản xuất và chiến đấu, người Sán Chỉ đã sáng
tạo nên một kho tàng vô cùng giàu có về văn nghệ dân gian. Tuy vậy, trước
Cách mạng tháng Tám, cũng như nhiều dân tộc khác, người Sán Chỉ không có
kho lưu trữ, thư viện, nhà xuất bản. Văn học chủ yếu được lưu chuyển thông
qua hình thức truyền miệng. Cũng do ưu thế của thể loại mà những bài hát
Xắng Cọ được truyền cho các thế hệ nối tiếp nhau trong những dịp lễ hội,
sinh hoạt cộng đồng, … trong tâm hồn, trí tuệ và tình cảm của những người

yêu mến thơ ca dân gian dân tộc.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, nhờ chính sách bảo tồn văn hóa các dân
tộc của Đảng, nhà nước, việc sưu tầm, nghiên cứu và phát huy những giá trị
truyền thống như Hát Xắng Cọ đã bươc đầu được quan tâm, chú ý. Song do
nhiều lý do khác nhau như: trình độ người nghiên cứu, hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh, do nhận thức, quan niệm… mà công việc lưu giữ và bảo tồn
những giá trị văn hóa bị mai một, chưa đạt được hiệu quả cao. Trước những
năm 1970, những công trình nghiên cứu, sưu tầm về Hát Xắng Cọ của người
Sán Chỉ hầu như không có, hoặc giới thiệu rất sơ lược, khái quát. Từ khi Bộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Văn hóa đã có chương trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể
thì đã có nhiều công trình nghiên cứu, dự án, sưu tầm về Hát Xắng Cọ. Theo
trình tự thời gian và từng mảng nghiên cứu, một số công trình, dự án có liên
quan đến đề tài xuất hiện như:
- Dự án điều tra, sưu tầm tục hát Soóng Cọ (tên gọi địa phương) của
người Sán Chỉ ở huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh - Chủ nhiệm dự án
Nguyễn Văn Sĩ - GĐ Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Quảng Ninh (1998), dự án
có đoạn viết: “Soóng Cọ không chỉ là một hình thức văn hóa - nghệ thuật rất
có ý nghĩa trong đời sống tinh thần của người Sán Chỉ, mà còn thể hiện cả
một thế ứng xử xã hội qua các quy định chặt chẽ trong thực hành Soóng Cọ, ở
đó thể hiện thẩm mĩ văn hóa trong giao lưu giữa các nhóm cộng đồng của tộc
người Sán Chỉ”. [43, tr. 9]. Tuy nhiên, dự án cũng mới chỉ đưa ra những nét
khái quát nhất về giá trị văn hóa truyền thống trong tục hát Soóng Cọ của
người Sán Chỉ ở Quảng Ninh nghĩa là thiên về nghiên cứu văn hóa mà chưa
chú ý đến giá trị nội dung và nghệ thuật của Hát Soóng Cọ.
- Đề tài Hát dân ca - Dân tộc Sán Chay – Nhóm Sán Chí xã Kiên Lao,
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ( Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Xuân Cần) năm

1999 đã bước đầu điều tra, khảo sát, tìm hiểu về dân ca của người Sán Chí ở
Kiên Lao - Lục Ngạn, Bắc Giang “Đó là ca ngợi cảnh đẹp quê hương, ca
ngợi lao động, mong muốn cuộc sống ấm no hạnh phúc và tính chất trữ tình,
gửi gắm lời yêu thương ca ngợi cuộc sống lứa đôi. Tất cả những bài thơ, lời
ca ấy theo năm tháng được gọt giũa và được hát lên với giai điệu êm ái,
khoan thai nhẹ nhàng và làm lắng đọng trong lòng người một cái gì đó man
mác, mênh mông nhưng hết sức gần gũi thiết tha. Hát dân ca của người Sán
Chí là một kho tàng di sản văn hóa đa dạng, phong phú về loại hình, có giá
trị cao về nghệ thuật”. [41, tr. 107-108]. Đề tài đã khảo sát về hát dân ca của
dân tộc Sán Chay- nhóm Sán Chí ở Kiên Lao - Lục Ngạn, Bắc Giang, bước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
đầu tìm hiểu ca từ dân ca Sán Chí và một số đề nghị về công tác bảo tồn dân
ca của người Sán Chí.
- Năm 2002, Bảo tàng Bắc Giang xuất bản cuốn Dân ca Sán Chí ở Kiên
Lao – Lục Ngạn, Bắc Giang của nhóm tác giả Nguyễn Xuân Cần - Trần Văn
Lạng. Đây chính là cuốn sách được xuất bản từ đề tài Hát dân ca - Dân tộc
Sán Chay – Nhóm Sán Chí xã Kiên Lao, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
Cuốn sách này là công trình đầu tiên nghiên cứu về dân ca Sán Chí ở Kiên
Lao – Lục Ngạn, Bắc Giang. Cuốn sách đã khái quát phần lời của dân ca Sán
Chí ở Lục Ngạn, Bắc Giang.
- Năm 2002 Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản cuốn: “Dân tộc Sán
Chay ở Việt Nam” - Khổng Diễn chủ biên. Cuốn sách giới thiệu về đời sống
tinh thần của người Cao Lan và Sán Chí qua kho tàng văn hóa, văn nghệ dân
gian. Đó là hát Sình ca (theo tiếng Cao Lan) hoặc Soong cộ (Theo tiếng Sán
Chí), tác giả nhấn mạnh: Ở người Sán Chí cũng như Cao Lan, hát Soong cộ
hoặc Sắng cộ khá phổ biến, hầu như xưa kia làng nào cũng hát. Hội hát dân ca
ở Kiên Lao diễn ra vào ngày 18 tháng 2 âm lịch tại đình làng gọi là đình Cống.

Trước một, hai ngày vào hội đã có nhiều khách cũng là người Sán Chí từ Lạng
Sơn đến, họ cùng nhau bàn bạc công việc chuẩn bị cho ngày hội.[5, tr. 394].
Cuốn sách còn giới thiệu các hình thức hát và trích dẫn lời một số bài hát.
- Cuốn Ca thư do PGS.TS Đỗ Thị Hảo chủ biên (2008) có đoạn viết về
những câu hát của người Sán Chay cho rằng: “Nó đã phản ánh những sinh
hoạt văn hóa độc đáo và rất riêng của từng tộc người, được truyền lại từ
nhiều thế hệ nối tiếp nhau duy trì và gìn giữ” [12, tr. 5]. Về giá trị nội dung
của sách “Ca thư” thì đây là một cuốn sách sưu tầm và chép lại khá nhiều
những câu hát đối đáp của nam nữ (tựa như những câu hát giao duyên của
người Kinh) [ 12, tr. 6]. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ giới thiệu những câu hát của
người Sán Chay nói chung và chủ yếu giới thiệu trên bình diện nội dung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Các dự án, đề tài trên được thực hiện bởi chương trình bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa phi vật thể của Bộ Văn hóa. Đó mới là bước đầu điều
tra, khảo sát về Hát Xắng Cọ. Các dự án, đề tài, công trình khoa học của
những nhà nghiên cứu tuy chưa khám phá hết những giá trị nội dung và nghệ
thuật của loại hình Hát Xắng Cọ nhưng đây là những gợi mở, nguồn tư liệu
rất đáng trân trọng và vô cùng quí giá để chúng tôi thực hiện luận văn.
2.2. Những công trình nghiên cứu về Hát Xắng Cọ ở huyện Lộc Bình,
Lạng Sơn
Đối với dân tộc Sán Chỉ ở Lộc Bình, Hát Xắng Cọ là một làn điệu dân
ca cổ truyền – một sinh hoạt văn hóa truyền thống đặc sắc được kết tinh trong
đời sống lao động, sản xuất, trong giao tiếp và ứng xử. Dù đã được biết đến,
nhưng Hát Xắng Cọ của người Sán Chỉ ở Lộc Bình vẫn còn là mảnh đất
nguyên sơ chưa được nhiều người quan tâm nghiên cứu.
Ở Lạng Sơn, nhiều người Sán Chỉ như các ông, bà: Hoàng Văn Minh
(85 tuổi), Trần Thị Khắm (85 tuổi), Hoàng Thị Thọ (77 tuổi), Lâm Văn Sằm

(74 tuổi), Hoàng Văn Dầu (74 tuổi), Hoàng Thị Phát (61 tuổi), Hoàng Văn
Pháp (68 tuổi), Hoàng Văn Sặn (56 tuổi), Hoàng Thị Giác (54 tuổi), Lý Thị
Cả (36 tuổi) được tôn vinh là những nghệ nhân Hát Xắng Cọ. Vì yêu làn
điệu dân ca của dân tộc mình nên họ đã sưu tầm ghi chép lại các quyển sách
hát viết bằng chữ Hán và “dịch” ra để tiện cho việc dạy các con cháu. Ông
Hoàng Văn Pháp còn sáng tác và dàn dựng nhiều tác phẩm mang đậm nét văn
hóa truyền thống dân tộc Sán Chỉ. Có thể nói, những nghệ nhân Sán Chỉ có ý
thức và có công rất lớn trong việc bảo tồn lưu truyền lại Hát Xắng Cọ cho con
cháu. Tuy nhiên, họ chủ yếu dừng lại ở việc bảo tồn, lưu truyền Hát Xắng Cọ
bằng cách giải thích nội dung lời ca và dạy hát một cách tự phát.
Trên cơ sở lòng nhiệt tình của các nghệ nhân, cuối thế kỷ XX đầu thế
kỷ XXI việc sưu tầm, biên soạn và dịch Hát Xắng Cọ đã được tiến hành với
quy mô khá rộng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Công trình đề cập tới văn hóa Sán Chỉ trong cuốn Địa chí Lạng Sơn, (
1999) có ghi: Trước kia vào ngày hội này (hội Háng Lắp) có hàng trăm đôi
thanh niên từ Lục Ngạn – Bắc Giang lên. Hội tan lại hẹn gặp nhau ngày 18
tháng Hai ở Lục Ngạn. Nội dung chủ yếu của hội là hát Sán cọ, hát theo bài
hát lưu truyền hoặc sáng tác mới.[ 8, tr. 837]
Hiện nay, tư liệu Hát Xắng Cọ chủ yếu là bản sưu tầm và dịch của ông
Hoàng Văn Pháp (68 tuổi), một người Sán Chỉ ở thôn Hán Sài xã Nhượng
Bạn huyện Lộc Bình. Tư liệu này đã được tập hợp trong cuốn “Báo cáo khoa
học Hát Xắng Cọ của dân tộc Sán Chỉ ở xã Nhượng Bạn - Lộc Bình,Lạng
Sơn” (Chủ nhiệm dự án Ấu Thị Nga Sơn – PGĐ Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh Lạng Sơn, 2008). Bên cạnh những bài hát Xắng Cọ được sưu tầm và
tập hợp thì dự án đã tìm hiểu những yếu tố của đời sống vật chất, đời sống
tinh thần của dân tộc Sán Chỉ ở Nhượng Bạn có ảnh hưởng đến Hát Xắng Cọ,

các loại hình Hát Xắng Cọ và đề xuất phương thức bảo tồn. Tuy nhiên, nghiên
cứu về phương diện nội dung và nghệ thuật của lời Hát Xắng Cọ thì dự án
mới chỉ giới thiệu sơ lược chưa có sự phân tích, nghiên cứu. Chính điều này
đã gợi ý cho tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu Hát Xắng Cọ ở Lộc Bình,
Lạng Sơn.
- Một số bài viết về Hát Xắng Cọ đăng tải trên báo Lạng Sơn, văn nghệ
xứ Lạng cũng chỉ mang tính chất giới thiệu về loại hình sinh hoạt văn hóa Hát
Xắng Cọ của người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn.
Các công trình nghiên cứu, những bài viết nói trên mới chỉ đưa ra một
cách khái quát về những khía cạnh văn hoá của Hát Xắng Cọ. Do vậy, việc
tìm hiểu Hát Xắng Cọ ở địa phương Lộc Bình, Lạng Sơn là việc làm thiết
thực trong đời sống hiện nay, góp phần bảo tồn gìn giữ và phát huy nền văn
hoá, văn học dân gian vô cùng quý giá của dân tộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu Hát Xắng Cọ về phương diện nội dung và nghệ thuật, qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
đó tìm hiểu đời sống tâm hồn, tình cảm của người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng
Sơn cùng tài năng nghệ thuật của các nghệ nhân dân gian.
- Bước đầu lý giải cội nguồn của nét văn hóa dân ca Xắng Cọ trên cơ
sở tổng quan văn hóa của dân tộc Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn và đề xuất
hướng bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp vốn có của Hát Xắng Cọ.
3. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, thống kê, phân tích, lý giải lời Hát Xắng Cọ và một số vấn
đề có liên quan đến giá trị nội dung, nghệ thuật của Hát Xắng Cọ.
- Trong điều kiện có thể, sưu tầm, tìm hiểu thêm về lời Hát Xắng Cọ và

một số loại hình văn hóa nghệ thuật, tín ngưỡng có liên quan đến đề tài ở Lộc
Bình, Lạng Sơn.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tìm hiểu những đặc
điểm nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của Hát Xắng Cọ ở Lộc Bình, Lạng Sơn
(có sự đối sánh với Hát Xắng Cọ ở Lục Ngạn, Bắc Giang)
- Phạm vi tư liệu nghiên cứu, khảo sát:
+ Phần văn bản trong Báo cáo khoa học Hát Xắng Cọ của dân tộc Sán
Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn, chủ nhiệm dự án Ấu Thị Nga Sơn – PGĐ Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn (2008).
+ Tư liệu sưu tầm thêm được trong quá trình tác giả đi điền dã từ tháng
3 năm 2010 đến tháng 7 năm 2011 ở Lộc Bình, Lạng Sơn.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là những lời hát Xắng Cọ ở Lộc Bình,
Lạng Sơn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Trên bình diện phương pháp luận là tiếp cận chủ yếu theo quan điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
ngữ văn học, tức là dựa vào thành tố ngôn từ, cụ thể ở đây là lời hát Xắng Cọ
để phân tích.
- Tuy nhiên, Hát Xắng Cọ là một loại hình dân ca, vì thế nó không thể
tách rời đời sống văn hóa của dân tộc Sán Chỉ. Xem xét Hát Xắng Cọ phải từ
nhiều góc độ, ngành khoa học khác nhau và phải đặt văn bản trong môi
trường diễn xướng cụ thể.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp cụ thể:

+ Phương pháp khảo sát thống kê
Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để cung cấp số liệu chính xác về
các bài hát Xắng Cọ của người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn, tạo cơ sở thực
tế tin cậy cho những nghiên cứu tiếp theo. Sử dụng phương pháp này, chúng
tôi đưa ra những con số thống kê về Hát Xắng Cọ, tần số xuất hiện những
hình ảnh, biểu tượng và khả năng biểu đạt của chúng.
+ Phương pháp điền dã văn học
Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để thu thập thêm những lời hát
Xắng Cọ và bảo lưu Hát Xắng Cọ ở Lộc Bình, Lạng Sơn.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp
Từ kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi tiến hành phân tích và đưa ra
những nhận xét đánh giá về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của Hát
Xắng Cọ ở Lộc Bình Lạng Sơn.
+ Phương pháp đối chiếu so sánh
Chúng tôi tiến hành đối chiếu, so sánh Hát Xắng Cọ của người Sán Chỉ
ở Lộc Bình, Lạng Sơn với Hát Xắng Cọ của người Sán Chỉ ở Lục Ngạn, Bắc
Giang để thấy được điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về Hát
Xắng Cọ của người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Trong quá trình nghiên cứu, qua khảo sát điền dã, tác giả đề tài đã thu
thập được một số lượng đáng kể những bài hát Xắng Cọ còn đang lưu truyền
trong đời sống dân gian ở Lộc Bình, Lạng Sơn.
Kết quả khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bước
đầu đề xuất hướng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hóa dân
tộc Sán Chỉ nói chung, trong đó có dân tộc Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận văn được trình bày trong ba chương:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế - Cơ sở tìm hiểu Hát
Xắng Cọ ở Lộc Bình, Lạng Sơn
Chƣơng 2. Nội dung cơ bản của Hát Xắng Cọ ở Lộc Bình, Lạng Sơn
Chƣơng 3. Những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của Hát Xắng Cọ
ở Lộc Bình, Lạng Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10

NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ - CƠ SỞ
TÌM HIỂU HÁT XẮNG CỌ Ở LỘC BÌNH, LẠNG SƠN

1.1. Tổng quan về dân tộc Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn
1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Sán Chỉ ở Việt Nam
S¸n ChØ là một trong hai ngµnh của dân tộc Sán Chay (Sán Chỉ, Cao
Lan) vµ được xếp trong nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, cư trú chủ yếu ở một số
tỉnh miền Bắc nước ta. Theo số liệu thống kê năm 1999, dân tộc Sán Chay có
73.157 người, xếp thứ 13/54 dân tộc về dân số, chiếm tỷ trọng 0,2% dân số so
với cả nước và chiếm tỷ trọng khoảng 1,4% trong tổng số nhân khẩu của các
dân tộc thiểu số. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2001, dân
tộc Sán Chay có 147.315 người. Tộc người này cư trú chủ yếu ở các tỉnh
Tuyên Quang, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Bái,
Phú Thọ Người Sán Chay thường sống phân tán trên địa bàn các tỉnh, xen
kẽ với người Tày, Nùng. Giữa cộng đồng tộc người này và các tộc láng giềng

có mối quan hệ gần gũi, hòa đồng khá rõ nét.
*Về tên gọi
Nhóm Sán Chỉ, tùy theo cách phát âm của từng địa phương mà có các
cách gọi là: Sán Chay, Sán Chói, Sán Chấy, Sán Chí, Sán Chỉ Đồng bào tự
gọi cộng đồng của mình là Sán Chấy. Nhóm Cao Lan có các tên: Hờn Bản
(người ở bản), Sín hay Sín Nhân (người ở thôn bản), Phén (bên kia biên giới
Trung Quốc thường được gọi là Phén Cao Lan). Như vậy, cả hai nhóm Cao
Lan và Sán Chỉ đều tự gọi mình là Sán Chấy, viết và đọc theo âm Hán – Việt
là Sơn Tử (nghĩa là người ở rừng)
*Về ngôn ngữ
Ng«n ng÷ ng-êi S¸n ChØ n»m trong nhãm ng«n ng÷ H¸n Qu¶ng §«ng,
(ng«n ng÷ ng-êi Cao Lan thuéc ng«n ng÷ Tµy - Th¸i) nh-ng theo kết qu¶

S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

11
nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học, ngôn ngữ của ng-ời Sán Chỉ có cơ
tầng là ngôn ngữ Tày - Thái cổ. Nh- vậy, ngôn ngữ ban đầu, ngôn ngữ xuất
phát là thuộc nhóm ngôn ngữ Tày cổ, yếu tố ngôn ngữ Hán là yếu tố có sau, là
biểu tng của ngôn ngữ Cao Lan - Sán Chỉ. Trong quỏ trỡnh tỡm hiu cỏc t
liu dõn tc hc ó cho phộp cỏc hc gi khng nh hai dõn tc Cao Lan
Sỏn Ch u l dõn tc Sỏn Chay.
*V ngun gc
cp khỏ ton din v ngi Cao Lan Sỏn Ch, nh nghiờn cu dõn
tc hc Nguyn Nam Tin cho rng: a bn qun c ca ngi Cao Lan
Sỏn Ch khi cũn Trung Quc l Khõm Chõu, Liờm Chõu, Linh Sn, L
Chõu thuc tnh Qung ụng, Thng T, Ninh Minh thuc tnh Qung Tõy.
Hu ht cỏc gia ph v sỏch cỳng hng ha, t tiờn ngi Cao Lan Sỏn Ch
u núi ti khu vc Bch Võn Sn v Thp Vn Sn, a im c trỳ cui
cựng trờn t Trung Quc trc khi vo Vit Nam on t Lng Sn n

Múng Cỏi, sau ú chuyn sang cỏc tnh H Bc, Bc Thỏi, Vnh Phỳc, Tuyờn
Quang, Yờn Bỏi. Theo gia ph ca h Nnh i Dc ng, Tiờn Yờn
Qung Ninh thỡ h n Vit Nam nm Cnh Hng th nht tc nm 1743.
Trc khi n a im nh hin ang c trỳ, t tiờn h ó tng qua mt s
vựng khỏc nh Trỳc Bi Sn, Linh Sn, mi ni ú ớt nht cng khong hai,
ba i. M t ca h ny vn thng nhc n vng ú khi cỳng bỏi. Nh
vy, rt cú th h n Vit Nam trc nm Cnh Hng I bn, nm i, tc
mt th k. Theo ụng Hong ng (Qung Ninh) thỡ dũng h ca ụng cú mt
Vit Nam khong mi lm, mi sỏu i. [50, tr. 59-75].
Nm 1905 Rộverony ó cho cụng b mt s ti liu dõn tc hc khu vc
ụng Bc B Vit Nam. Núi n Sỏn Ch ụng cho rng h ó cú mt Vit
Nam cỏch õy bn trm nm (Nguyn Nam Tin) tớnh n nay thỡ ó gn nm
nm. Cũn theo ng Nghiờm Vn thỡ thi im di c ca ngi Sỏn Ch - Cao
Lan cũn cú th sm hn cỏc niờn i va nhc n trờn chng mt th k [25]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Tại Thái Nguyên, phần lớn các sách cúng hương hỏa đều nói đến thời
điểm di chuyển của người Sán Chỉ từ Trung Quốc sang Việt Nam vào thời
Minh và thời nhà Thanh. Trong sách cúng cũng nói rõ nguyên cớ của việc di
cư. Đây là một đoạn trong sách cúng của ông Nịnh Văn Lợi ở xóm Cây Đa xã
Phấn Mễ huyện Phú Lương: Đại Minh quốc tỉnh Quảng Đông đạo lạc nghiệp
nhân vì đại loạn giặc giã nổi lên, cướp bóc thôn hương, giết hại đồng bào, cơ
nghiệp hao tán, ăn không ngon, ngủ không yên mới đem con cái cùng là tổ
tông hương hỏa vào rừng rú đến đất An Nam tỉnh Lạng Sơn, chém cây phá
rừng, trồng trọt ngũ cốc để nuôi thân” [4, tr.20]. Lại theo gia phả của một
dòng họ Lý ở xã Nhượng Bạn (Lộc Bình) thì dòng họ này đã cư trú tại đây
được mười ba đời, tức khoảng ba trăm năm.
Như vậy, có thể nghĩ rằng, người Sán Chỉ đã xuất hiện trên đất nước ta

nói chung, ở Lạng Sơn nói riêng đã từ khoảng thế kỷ XVI – XVII.
* Về mối quan hệ giữa Cao Lan và Sán Chỉ
Về mối quan hệ giữa Cao Lan và Sán Chỉ theo Đặng Nghiêm Vạn:
“Nhóm dân tộc Cao Lan và Sán Chỉ là một bộ phận trong khối cộng đồng
Cháng ở miền Khâm Châu, Lôi Châu, Dương Châu, và Quế Châu sang Việt
Nam vào nhiều thế kỷ khác nhau, nhưng về mặt lịch sử, văn hóa phong tục,
tập quán tâm lý dân tộc đều giống nhau” [25]
Trước hết, ta hãy cùng nhau xem xét “Sình ca” một lối hát ví của thanh
niên nam nữ người Cao Lan – Sán Chỉ. Trong các cuộc tổ chức hát Sình ca có
lẽ hầu như không bao giờ có sự tính toán rằng họ cùng là người Sán Chỉ hay
không hoặc cùng là người Cao Lan hay không. Với lối sinh hoạt của hình
thức dân ca này không tự phân biệt với nhau về mặt tộc người nhưng họ phân
biệt rõ họ với các dân tộc khác như Sán Dìu, Tày, Nùng, Dao,…là những láng
giềng thân thiết của họ và hiếm có những cuộc sinh hoạt văn nghệ kiểu ấy
giữa họ với các dân tộc xung quanh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Mối quan hệ của người Cao Lan – Sán Chỉ còn thể hiện trong việc cúng
bái. Trình tự và các lễ nghi trong đám ma, đám chay giống nhau. Sở dĩ như
vậy là vì một phần do họ cùng sử dụng một thứ tiếng của người Sán Chỉ hiện
nay. Chẳng những thế, thày cúng của người Cao Lan có thể cúng cho người
Sán Chỉ và ngược lại.
Tính thống nhất của người Cao Lan – Sán Chỉ còn được củng cố bởi ý
thức và cư trú về quê hương cũ và quá trình di cư của họ. Từ khi đồng bào
Cao Lan Sán Chỉ di cư sang Việt Nam họ đã trở thành công dân của quốc gia
đa dân tộc Việt Nam. Tuy vậy, ý thức về quê hương cũ của họ còn khá mạnh
mẽ. Họ cũng nhớ các loại sách cúng, sách truyện còn ghi trước đây họ đã từng
cư trú đông đảo ở Châu Khâm, Châu Liêm, Ninh Minh, Thương Tư… thuộc

vùng Lưỡng Quảng Trung Quốc. Về quan hệ hôn nhân, quan hệ dòng họ giữa
hai nhóm cao Lan – Sán Chỉ cũng có quan hệ chặt chẽ.
Trong bài ''Về nguồn gốc và quá trình di cư của người Cao Lan -Sán
Chỉ'', tạp chí dân tộc học (1), nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Tiến đã phân tích,
khảo sát, so sánh văn hoá - đặc điểm sinh hoạt giữa tộc Sán Chay (Cao Lan -
Sán Chỉ) với người Tày - Nùng nói riêng và các tộc người - ngôn ngữ Tày -
Thái khác và nêu lên những đặc trưng giống nhau hoặc gần giống nhau của
các tộc người này như trong hoạt động kinh tế, văn hoá vật chất, văn hoá tinh
thần, dòng họ và quan hệ dòng họ, nguyên tắc đặt địa danh, những đặc trưng
này khác xa với người Dao và người Hán. Ông cho rằng: "Cao Lan và Sán
Chỉ là một cộng đồng không thể phân chia, nói cách khác, họ chỉ là một dân
tộc. Tuy vậy, bên cạnh chữ Sán Chấy, nên để trong ngặc đơn hai chữ Cao Lan
và Sán Chỉ". Ông đã đưa ra sơ đồ thể hiện quan hệ về người Sán Chấy (Cao
Lan - Sán Chỉ) như sau:


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
SƠ ĐỒ QUAN HỆ VỀ NGƢỜI SÁN CHAY (CAO LAN – SÁN CHỈ)














Cao Lan – Sán Chỉ cùng một nguồn gốc, có quan hệ dòng tộc khăng
khít, tiếng nói không phân biệt nhau lắm, phong tục, tập quán, tục lệ, lễ nghi,
cách làm ăn sinh hoạt giống nhau nên đây là một dân tộc. Đã là một dân tộc
thì nên thống nhất là Sán Chay là tên gọi có cơ sở và đúng hơn. Từ những vấn
đề đã trình bày ở trên cho thấy Cao Lan – Sán Chỉ là một cộng đồng không
thể phân chia, nói cách khác là Cao Lan – Sán Chỉ là một dân tộc song ngữ.
1.1.2. Vài nét về cộng đồng người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn.
Dân tộc Sán Chỉ hiện nay có mặt tại Lộc Bình ở các xã Quan Bản với
78 hộ, 385 khẩu cư trú tại hai thôn Nà Pè, Khau Phầy; xã Minh Phát có 117
hộ, 648 nhân khẩu, cư trú tại các thôn: Nà Nong, Khau Vài, Nà Tàng, Khuổi
Luồng. So với hai xã trên, dân tộc Sán Chỉ xã Nhượng Bạn chiếm nhiều hơn
cả với 320 hộ với 1585 nhân khẩu, cư trú tại năm thôn và một số rất ít là dân
tộc Tày, Nùng, Kinh, Dao đến Nhượng Bạn làm dâu, rể. Còn lại người Sán
Chỉ cư trú ở một số nơi như: Thị trấn Lộc Bình, Nam Quan, Xuân Dương,
Đông Quan, Hiệp Hạ, thị trấn Na Dương. [42, tr. 4-5]
CAO LAN

tiếng Cao Lan

SÁN CHỈ

tiếng Sán Chỉ

Một cộng đồng
thống nhất về
nguồn gốc, lịch
sử, sinh hoạt văn

hóa, có quan hệ
thân thích và có
ý thức tự giác
tồn tại như 1 DT

Tên tự gọi là Sán
Chấy (Sán Chấy bán)
SÁN CHẤY
(Cao Lan - Sán Chỉ)

Tên tự gọi là
Sán Chấy Mộc
Tên tự gọi là Sán
Chấy Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Theo các cụ cao niên truyền lại dòng họ Lý ở Nhượng Bạn, dòng họ
đến sớm nhất đã cư trú tại đây được mười ba đời (khoảng ba trăm năm). Cùng
các dòng họ: Hoàng, Lâm, Bùi, Ninh. Trong quá trình định cư tại đây, bên
cạnh những nét tương đồng về văn hóa, dân tộc Sán Chỉ ở đây có một số nét
văn hóa riêng, chính những nét văn hóa này đã tạo cho diện mạo văn hóa xứ
Lạng thêm phần độc đáo và đặc sắc.
Cũng theo gia phả của dòng họ Lý ở Nhượng Bạn, người Sán Chỉ ở
Lộc Bình, Lạng Sơn và người Sán Chỉ ở phía Bắc huyện Lục Ngạn (xã Kiên
Lao và xã Xa Lý) có những quan hệ nguồn gốc và quan hệ hàng ngày mật
thiết với nhau và cùng thuộc nhóm Sán Chí Hà [4, tr.20]. Từ “Sán Chí Hà”
theo người Sán Chí ở Lục Ngạn, Bắc Giang, đó là cái tên của dân tộc khác đặt
cho họ. Không phải cái tên họ tự nhận, họ chỉ nói rằng dân tộc họ chỉ dùng

hai từ Sán Chay là đủ . “Chay” có nghĩa là “Tử: Con”. “Chí” cũng có nghĩa là
“Tử: Con” nhưng mang âm nặng hơn và không đúng với âm bản địa của
người Kiên Lao. Sán Chay có nghĩa là “Sơn Tử” (người con của núi rừng)
dân tộc sống ở gần rừng, sát rừng núi [4, tr.38].
Sán Chí Hà có nghĩa ở vùng thấp hơn, tiếng phát âm nặng hơn, một số từ
đã dùng tiếng Kinh trong dân tộc Sán Chí. “Hà ”còn có nghĩa là pha trộn, dùng
lẫn tiếng Sán Chí pha tiếng Kinh, rất cá biệt chỉ trong trường hợp Sán Chí
không có thì mới dùng. Người Cao Lan - Sán Chí sử dụng bản phiên âm 24
chữ cái của người Việt có bổ sung thêm 4 chữ (Z, CN, b, F) thành 28 chữ cái.
Dùng 5 dấu trong chữ Quốc ngữ phổ thông (không dùng dấu ngã) và có bổ
sung thêm 1 dấu (. -) thành 6 dấu. Việc sử dụng các dấu đó cho phép tiếp cận
ngôn ngữ hệ Tày – Thái được dễ dàng. [4, tr. 38].
Người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn có lối sống thật thà, giản dị,
trung thực, qua các thời kỳ càng gặp gian nguy càng gắn bó chặt chẽ, nhà nào
bị hoàn cảnh bất hạnh đều được mọi người cảm thông. Người Sán Chỉ ở Lộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Bình, Lạng Sơn có quan hệ giao lưu rộng rãi với người Sán Chỉ ở Lục Ngạn
,Bắc Giang. Từ thời kỳ phong kiến trở về trước, dân tộc Sán Chỉ còn lạc hậu.
Sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với chính sách bình
đẳng dân tộc, dân tộc Sán Chỉ cùng với các anh em dân tộc ít người phát huy
bản sắc dân tộc mình theo hướng lành mạnh.
1.1.3. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hóa
của người Sán Chỉ ở Lộc Bình, Lạng Sơn.
* Điều kiện tự nhiên:
Huyện Lộc Bình có tổng diện tích tự nhiên là 986,52 km
2
, trong đó đồi

núi chiếm ¾ diện tích, nằm ở phía Đông Nam, cách thành phố Lạng Sơn
23km theo quốc lộ 4B từ Lạng Sơn đi Quảng Ninh. Phía Đông giáp Trung
Quốc, phía Tây giáp huyện Chi Lăng, phía Bắc giáp huyện Cao Lộc, phía
Đông Nam và Nam giáp huyện Đình Lập và hai huyện Lục Ngạn và Sơn
Động, Bắc Giang.
Lộc Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên chia thành hai mùa rõ
rệt. Lượng mưa trung bình năm là 1.349 mm, phân bố không đều. Riêng
vùng núi Mẫu Sơn có lượng mưa khá cao (2000 – 2400mm/năm). Địa hình
chia thành hai vùng là vùng núi cao và vùng lòng chảo. Vùng núi cao xung
quanh huyện với các đỉnh Ma Non cao 693m, đỉnh Khau Chu cao 745m,
đỉnh Khau Tòa cao 775m và dãy Mẫu Sơn có độ cao trung bình 1.000m.
Vùng lòng chảo gồm hai thị trấn Lộc Bình, Na Dương và các xã Đông Quan,
Quan Bản, Đồng Trụ, Xuân Mãn, Bằng Khán, Xuân Lễ, Lạc Thôn, Hữu
Khánh, Yên Khoái, Tú Đoạn và Khuất Xá. Đất đai của huyện Lộc Bình bao
gồm 10 loại đất, trong đó có 5 loại đất chính thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp và lâm nghiệp. Sông suối nằm trong hệ thống sông Kỳ Cùng thuận
lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Về khoáng sản, Lộc Bình có mỏ than Na
Dương có trữ lượng than nâu khoảng 100 triệu tấn. Mỏ đất sét trắng (cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
lanh) có trữ lượng cao dành cho ngành công nghiệp gốm sứ ở xã Đông Quan
và thị trấn Na Dương. Lộc Bình có 53 km đường biên giới giáp Trung Quốc,
có cửa khẩu Chi Ma. [9, tr 825-827]
Điều kiện tự nhiên này trước hết ưu đãi cho Lộc Bình cảnh quan đẹp
(như đỉnh Mẫu Sơn, nhiệt độ thấp phù hợp cho việc phát triển ngành du lịch
sinh thái và là nơi nghỉ mát lý tưởng như đập Khuổi Van, hồ Tà Keo, suối
Long Đầu, hồ Nà Cáy). Ngoài ra còn thuận lợi cho việc phát triển nông – lâm
nghiệp và tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế - xã hội ở Lộc Bình.

* Đặc điểm kinh tế xã hội:
Điều kiện tự nhiên của Lộc Bình rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
nông - lâm nghiệp (lao động ngành này chiếm 80,2% lao động xã hội). Đây là
ngành chủ lực truyền thống Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông lâm nghiệp
kết hợp với chăn nuôi. Rừng trồng gồm thông, keo, bạch đàn, hồi. Tỷ lệ khai
thác nhựa và gỗ thông, trồng hồi chiếm tỷ trọng cao.
* Đời sống văn hóa:
-Về văn hóa vật chất: Dân tộc Sán Chỉ còn giữ được những phong tục
truyền thống về ăn uống, về tổ chức những ngày lễ tết. Nhìn chung, các phong
tục về ăn uống của người Sán Chỉ đa dạng, phong phú. Các món ăn được chế
biến theo nhiều cách và mang đậm tính văn hóa. Lúa gạo là lương thực chính
cho bữa ăn hàng ngày của dân tộc Sán Chỉ. Trước kia họ ăn nhiều gạo nếp,
nay chuyển sang ăn gạo tẻ, gạo nếp chỉ dùng trong những dịp lễ tết. Ngoài ra,
họ còn sử dụng thêm ngô, khoai, sắn, nhất là việc ăn cháo vào bữa sáng. Thực
phẩm được dùng trong ngày lễ tết của đồng bào phong phú hơn, gồm có thịt
lợn quay, các món ăn chế biến từ thịt lợn (khau nhục, giò thủ, bánh đa nem),
thịt gà luộc. Mỗi mâm cỗ thường ngồi bảy người. Đồ uống gồm rượu, nước
chè và nước nấu từ các loại lá rừng có vị ngọt, thơm với công dụng giải nhiệt,
tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Đàn ông thường hút thuốc lào, thuốc lá,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
đàn bà có thói quen ăn trầu. Họ rất thích ăn các vị đắng, cay, chát, ăn các loại
củ và gia vị có tác dụng tốt cho sức khỏe (gần như những vị thuốc nam), tạo
cho cơ thể thêm cường tráng, không bệnh tật.
Về mặc: Trang phục truyền thống của nữ giới là: áo chàm dài bốn thân,
dài quá đầu gối, không thắt lưng, khuy áo bằng đồng gồm bốn chiếc đính bên
thân áo trái. Quần cạp chun, thường may bằng vải láng hoặc lụa. Đầu vấn tóc,
đội khăn chàm thêu bốn góc, có đường viền xung quanh bằng chỉ màu. Phụ

nữ thường đeo túi đan bằng lưới màu trắng. Đồ trang sức gồm vòng tay, vòng
cổ, hoa tai đều được làm bằng vòng bạc. Nam giới mặc áo dài trên đầu gối,
được may bằng vải láng đen, khuy áo bằng đồng gồm năm chiếc đính bên
thân áo, quần màu trắng, đội khăn xếp và hay dùng ô đen khi đi ra ngoài.
Trong thời đại ngày nay, những trang phục mang đậm tính dân tộc của người
Sán Chỉ hầu như ít gặp, chỉ có các cụ già thi thoảng mặc hoặc đồng bào sử
dụng vào dịp lễ tết, cưới xin, đi chơi hội. Các cô gái, chàng trai người Sán Chỉ
hiện nay hầu như không mặc quần áo của dân tộc mình mà họ đều dùng sản
phẩm của nền văn minh công nghiệp.
Về nhà ở: Dân tộc Sán Chỉ thường làm nhà bên sườn đồi, dưới nhà có
dòng suối nhỏ chảy qua. Trước đây, họ thường ở nhà sàn nhưng khoảng vài
chục năm trở lại đây, do thay đổi của điều kiện môi trường, do ảnh hưởng của
cư dân láng giềng nên họ đã chuyển sang ở nhà đất (trình tường). Kết cấu nhà
trình tường có nhiều cửa sổ, từ 3 đến 5 gian, tường nhà dày 40 cm. Mái nhà
lợp ngói âm dương có hai mái chính và một mái phụ bên cạnh, phía gian dùng
làm bếp. Giường ngủ của các thành viên trong gia đình hầu hết được đặt ở
gian nhà ngoài cùng với nơi tiếp khách, buồng ngủ được dành cho con dâu.
Nhà ở của người Sán Chỉ cũng là một không gian tổ chức hát. Trong không
gian này có các khu vực trong nhà, sân, vườn. Nhà người Sán Chỉ ở Lộc Bình
hiện nay cũng có nhiều thay đổi về loại hình và cấu trúc, tuy thế vẫn có nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
ngôi nhà trệt tồn tại. Ở những ngôi nhà ấy, cách bài trí vẫn được duy trì như
cũ. Gian giữa là nơi đặt ban thờ và tủ áp tường, phản khách. Hai bên có hai
gian (nếu là nhà ba gian) kê hai giường ngủ của thành viên trong nhà và đặt
để lương thực (nếu là nhà bốn, năm gian) thì một đầu nhà là buồng kê giường
ngủ của phụ nữ hoặc chỗ ngủ của con dâu. Ngoài hiên với diện tích khá rộng
cũng có kê phản ngủ che liếp chắn mưa (ở một góc hiên). Khi tổ chức hát ở

gia đình, người ta hát ở hiên, được phép gia chủ rồi sẽ vào trong nhà. Họ chỉ
hát ở ba gian ngoài chứ không hát ở trong buồng. Khi đã vào đối thì họ hát cả
ở ngoài sân. Khi có đám cưới ở gia đình thì cả hai khu vực nêu trên cũng
được tổ chức hát. Nhà ở chính là không gian văn hóa chứa đựng những giá trị
truyền thống tốt đẹp của người Sán Chỉ.
Văn hóa vật chất truyền thống của dân tộc Sán Chỉ ở Lộc Bình là một
trong số những yếu tố nền tảng vững chắc của bản sắc dân tộc.
- Văn hóa tinh thần:
+ Tín ngưỡng: Người Sán Chỉ quan niệm vạn vật hữu linh, tục thờ cúng
tổ tiên được tất cả các gia đình trong xã hội coi trọng. Bàn thờ tổ tiên được đặt
trên cao, nơi ít người để ý đến. Họ quan niệm rằng: bàn thờ phải được đặt ở
nơi cao ráo, linh thiêng, tránh những người có tâm không tốt hoặc ma quỷ đến
gần. Bàn thờ được bài trí khá đơn giản, chỉ có một ống cắm hương thờ ba đời,
đến ngày lễ tết, họ bày lễ cúng và chỉ thắp duy nhất một nén hương. Bên cạnh
đó, họ tin rằng trong làng bản còn có một vị thần, đó là thổ công. Thổ công
được cúng lễ vào ngày mồng hai Tết nguyên đán.
Ngoài ra, do sự hiểu biết về thiên nhiên còn hạn chế thì rừng rậm, sông
suối, cây cối, các con vật đều là những thần bí đối với họ. Vì vậy, họ tin
rằng trong cuộc sống còn có nhiều loại ma quỷ, nếu bị ma dữ làm hại sẽ gây
ra ốm đau, bệnh tật cho con người, vật nuôi và mùa màng. Đó là nguyên nhân
khiến họ phải nhờ đến tầng lớp thầy cúng (Mo, Tào) bói toán và đến cúng ma
mỗi khi gia đình gặp những điều không may.

×