Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Hát iếu ở bắc quang hà giang - những đặc điểm nội dung và nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 166 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------





HOÀNG MINH NGUYỆT





HÁT IẾU Ở BẮC QUANG HÀ GIANG - NHỮNG ĐẶC
ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN













THÁI NGUYÊN - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-------




HOÀNG MINH NGUYỆT




HÁT IẾU CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG -
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT






Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60 22 34


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Ngƣời hƣớng dẫn:
TS. NGUYỄN HẰNG PHƢƠNG






THÁI NGUYÊN - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn
Hằng Phƣơng là ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt và giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo giảng dạy

lớp cao học văn K15 và khoa Sau đại học, trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái
Nguyên đã hƣớng dẫn, truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc tới ông Hoàng Văn Chữ, ngƣời đã
giúp tôi trong quá trình sƣu tầm tƣ liệu để hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của những ngƣời thân
trong gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn dành cho tôi, động viên và tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 09 năm 2009
Tác giả

Hoàng Minh Nguuyệt

1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề. ............................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 8
5. Đối tƣợng nghiên cứu .................................................................................... 8
6. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8
7. Phƣơng pháp nghiên cứu. ............................................................................... 9
NỘI DUNG ..................................................................................................... 11
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế - Cơ sở tìm hiểu hát Iếu ở
Bắc Quang - Hà Giang. .................................................................................. 11
1.1 Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. .............................. 11
1.1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Hà Giang. ........................................ 11
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá của

ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. ................................................................ 12
1.2 Khái quát về Lƣợn .................................................................................... 20
1.2.1 Khái niệm “Lƣợn”: ................................................................................. 20
1.2.2. Khái niệm Hát Iếu .................................................................................. 22
1.2.3. Nguồn gốc của Hát Iếu ........................................................................... 23
1.3. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. ............................................................. 27
1.3.1. Hát Iếu trong đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. ..... 27
1.3.2. Khảo sát, phân loại ................................................................................. 28
1.3.3. Hình thức diễn xƣớng trong Hát Iếu. ...................................................... 33
Tiểu kết. .......................................................................................................... 46
Chương 2. Nội dung cơ bản của hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang .............. 47
2.1. Hát Iếu là những lời bày tỏ tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ. ...................... 47

2
2.1.1. Hát Iếu là những lời tỏ tình thiết tha, chân thành, nồng thắm. ................ 47
2.1.2. Hát Iếu là những lời giao ƣớc, kết duyên tình cảm sâu nặng. .................. 53
2.1.3. Hát Iếu là những lời chia tay xót xa, day dứt giữa những ngƣời yêu nhau. . 58
2.2. Hát Iếu là những lời bày tỏ cách ứng xử trong tình yêu, ca ngợi cuộc sống. .... 62
2.2.1. Hát Iếu là những lời trách móc bạn tình nhẹ nhàng, thâm thuý. .............. 62
2.2.2. Hát Iếu là những lời đối đáp nhanh trí, thông minh và dí dỏm. ............... 65
2.2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống, thiên nhiên gần gũi giàu đẹp......... 70
2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi Đảng, Bác và cuộc sống mới. ....................... 74
2.3.1. Hát Iếu là những lời ca ngợi, bày tỏ niềm vui từ khi có Đảng và Bác Hồ.... 75
2.3.2. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống hòa bình, xây dựng chủ nghĩa
xã hội. .............................................................................................................. 80
Tiểu kết ........................................................................................................... 84
Chương 3. Những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của hát Iếu ở Bắc Quang
- Hà Giang ...................................................................................................... 86
3.1. Thể thơ trong Hát Iếu. ............................................................................... 86
3.1.1. Thể thơ tự do .......................................................................................... 86

3.1.2. Thể thơ thất ngôn. .................................................................................. 90
3.2. Các biện pháp tu từ sử dụng trong Hát Iếu. ............................................... 93
3.2.1. Biện pháp tu từ so sánh .......................................................................... 93
3.2.2. Biện pháp điệp ngữ tu từ (công thức trùng điệp) .................................. 101
3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Hát Iếu. .................................. 106
3.3.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................ 106
3.3.2. Không gian nghệ thuật ......................................................................... 113
Tiểu kết:........................................................................................................ 123
KẾT LUẬN .................................................................................................. 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 128
PHỤ LỤC .....................................................................................................


3
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1 Về phương diện khoa học
Trong di sản văn hoá của các dân tộc Việt Nam, kho tàng văn hoá của
các dận tộc thiểu số rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét
văn hoá, phong tục, tập quán riêng tạo nên sự khác biệt, đặc trƣng của mỗi
vùng, miền. Riêng vùng Việt Bắc từ xƣa tới nay, có rất nhiều di sản văn hoá
khác nhau, trong đó phải kể đến những làn điệu trữ tình mƣợt mà làm đắm say
không biết bao nhiêu tâm hồn chàng trai cô gái nhƣ Hát Then, Sli, Lƣợn cọi,
Khắp Cọi, Hát Iếu… của dân tộc Tày ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Hà Giang, Yên Bái... Hát Iếu là hình thức sinh hoạt văn hoá đặc trƣng
vốn có của ngƣời Tày ở huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Hát Iếu còn ít ngƣời
biết tới. Do vậy, việc Sƣu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, kế thừa và phát huy những
giá trị của Hát Iếu là sự trăn trở của nhiều ngƣời có tâm huyết với việc giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc.

Thực tế từ trƣớc tới nay, Hát Iếu của ngƣời Tày Bắc Quang đã đƣợc một
số ngƣời sƣu tầm và dịch với số lƣợng còn rất hạn chế, chƣa có sự quan tâm,
nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa học về mặt giá trị nội dung và nghệ thuật.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điền dã và sƣu tầm
những bài Hát Iếu lƣu truyền trong dân gian với số lƣợng đáng kể.
1.2. Về phương diện thực tiễn
Hát Iếu là một loại hình dân ca độc đáo của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà
Giang trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ quần chúng, gắn bó sâu sắc với đời
sống của làng quê nơi đây từ xƣa tới nay. Nghiên cứu những nét cơ bản về giá
trị nội dung và nghệ thuật của Hát Iếu trong đời sống văn hoá dân gian của
ngƣời Tày ở địa phƣơng Bắc Quang - Hà Giang sẽ góp phần khẳng định, gìn
giữ, bảo lƣu và phát huy nét đẹp truyền thống vốn có của dân tộc Tày ở Bắc

4
Quang - Hà Giang nói riêng, các dân tộc thiểu số của Việt Nam nói chung trên
con đƣờng tìm về với bản sắc cội nguồn dân tộc.
Xuất phát từ phƣơng diện khoa học, thực tiễn nêu trên chúng tôi tiến
hành tìm hiểu “Hát Iếu của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang - Những đặc
điểm nội dung và nghệ thuật” trong đề tài luận văn nghiên cứu của mình.
Hoàn thành công trình này còn là nguyện vọng của chúng tôi, ngƣời con của
tộc ngƣời Tày mong muốn đƣợc khám phá, tôn vinh những giá trị văn hoá có
sức sống bền bỉ của dân tộc mình.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu về dân ca Tày Nùng.
Nhắc đến những giá trị văn hoá - nghệ thuật của các dân tộc trên đất
nƣớc ta, trƣớc hết phải nói đến những giá trị to lớn của vốn văn học dân gian cổ
truyền của mỗi dân tộc. Trong đó dân tộc Tày đã có những đóng góp cho nền
văn hoá nghệ thuật thêm phong phú, đa dạng, đặc sắc qua các thể loại khác
nhau. Chúng ta có thể kể đến thể loại dân ca nhƣ Hát then, Hát Quan làng,
Lƣợn Cọi, Lƣợn Slƣơng, Lƣợn Nàng ới, Hát Iếu… Qua quá trình lao động sản

xuất, chiến đấu, ngƣời Tày đã sáng tạo nên một kho tàng vô cùng giàu có về hát
Lƣợn. Tuy vậy, trƣớc Cách mạng tháng Tám, cũng nhƣ nhiều dân tộc khác,
ngƣời Tày không có kho lƣu trữ, thƣ viện, nhà xuất bản. Văn học chủ yếu đƣợc
lƣu chuyển thông qua hình thức truyền miệng. Cũng do ƣu thế của thể loại mà
những bài hát Iếu đƣợc truyền cho các thế hệ nối tiếp nhau trong những dịp lễ
hội, trong sinh hoạt cộng đồng,…trong tâm hồn, trí tuệ và tình cảm của những
ngƣời yêu mến thơ ca dân gian của dân tộc.
Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, nhờ chính sách bảo tồn văn
hoá các dân tộc của Đảng, nhà nƣớc thì việc sƣu tầm, nghiên cứu và phát huy
những giá trị truyền thống nhƣ hát lƣợn nói chung đƣợc quan tâm, chú ý. Song
do nhiều lý do khác nhau nhƣ: trình độ ngƣời nghiên cứu, hoàn cảnh đất nƣớc
có chiến tranh, do nhận thức, quan niệm…mà công việc lƣu giữ và bảo tồn

5
những giá trị văn hoá bị mai một, chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao. Trƣớc những
năm 1960, những công trình nghiên cứu, sƣu tầm về Lƣợn của ngƣời Tày nói
chung hầu nhƣ không có, hoặc đƣợc giới thiệu rất sơ lƣợc, khái quát. Tuy nhiên
qua một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, dân ca dân gian nói
chung của dân tộc Tày còn đƣợc phát hiện ở những khía cạnh sâu sắc hơn nhƣ
nhận định của nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Vũ Ngọc Phan: “Folkclore
hình thành không phải với tính cách là sự phản ánh trực tiếp đời sống. Nhiều
tầng văn hoá đã lắng đọng trong Floklore, và sau một quá trình nhào nặn, biến
đổi lâu dài, đã tạo nên một truyền thống nhất định có nội dung tƣ tƣởng sâu
sắc bền vững qua thời gian và không gian” [43. Tr. 59].
Chính vì vậy, những giá trị nằm trong tầng sâu của nền văn hoá dân ca
dân gian Tày trở thành vấn đề thu hút, sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lâu
nay. Theo trình tự thời gian và từng mảng nghiên cứu, một số công trình sƣu
tầm, khảo cứu có liên quan đến đề tài xuất hiện nhƣ:
- Năm 1974 Sở văn hoá thông tin Việt Bắc xuất bản cuốn: Bƣớc đầu tìm
hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu,

trong đó có một số bài viết về đời sống văn hoá, tinh thần, nội dung, hình thức
những giá trị trong bƣớc đầu khảo cứu vốn thơ ca dân gian dân tộc Tày, Nùng.
Đáng chú ý có đoạn viết của Vi Quốc Bảo khẳng định: “Thật khó có thể thống
kê đƣợc hết các thể loại dân ca miền núi vô cùng phong phú và đa dạng. Mỗi
loại dân ca có cái hay, cái đẹp riêng. Hay về làn điệu, đẹp về lời thơ. Song có
một cái chung nhất cho tất cả mọi thể loại dân ca miền núi là tính chất trữ tình
rất đằm thắm, rất độc đáo mà ta có thể dễ dàng tìm thấy trong bất kỳ thể loại
nào”. [57] Ngoài ra trong cuốn sách này còn một số bài viết của tác giả Vi
Hồng nêu lên: “Vài ý nghĩ nhỏ bƣớc đầu về thơ ca dân tộc Tày - Nùng” và “
Thử tìm hiểu về nội dung của Lƣợn”[57. Tr.109, 176].
- Tạp chí dân tộc học số 1- 1976 có bài viết: “Vài suy nghĩ về hát Quan
lang, phong Slƣ, Lƣợn” của nhà văn Vi Hồng. Trong bài viết của mình tác giả

6
có giới thiệu những nội dung tổ chức, hình thức lề lối cơ bản, khái quát về loại
hình dân ca phổ biến của dân tộc Tày, Nùng. [18]. Tuy nhiên, tác giả mới giới
thiệu khái quát về các loại dân ca Tày, Nùng.
- Cuốn Sli Lƣợn dân ca trữ tình Tày - Nùng cũng của tác giả Vi Hồng in
năm 1979 có giới thiệu về đời sống văn hóa, tinh thần của hai dân tộc Tày,
Nùng qua làn điệu dân ca Sli, Lƣợn cùng với đề tài, nội dung tƣ tƣởng, ý nghĩa
thẩm mỹ cũng nhƣ cung cách xây dựng hình tƣợng của Sli, Lƣợn. Tác giả nhấn
mạnh:“Các lớp đề tài của sli, lƣợn và mỗi một hình tƣợng của mỗi lớp đề tài
đều bắt nguồn từ những quan niệm xa xƣa của dân tộc Tày Nùng, đồng thời nó
phát triển một cách gắn bó với dân tộc, với xã hội với từng con ngƣời Tày,
Nùng. Vì thế các lớp đề tài , mỗi hình tƣợng, hình ảnh của sli, lƣợn đều rất gần
gũi gắn bó với đời sống tình cảm, với tâm hồn ngƣời Tày ngƣời
Nùng”.[19.Tr.59]. Cuốn sách đã có những gợi ý cho tác giả đề tài tìm hiểu về
Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.
- Năm 1983, trong giáo trình “Văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời ở
Việt Nam”, tác giả Võ Quang Nhơn đã khái quát những đặc điểm xã hội - văn

hoá, quá trình lịch sử của ngành nghiên cứu văn hoá dân gian các dân tộc ít
ngƣời và tổng quát về các thể loại văn học dân gian của các dân tộc nhƣ: Thần
thoại, Truyện cổ tích, Thơ ca dân gian, Sử thi anh hùng…Trong thể loại thơ ca
dân gian, nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn có sự tổng hợp, so sánh nghiên cứu
về thơ ca dân gian các dân tộc, trong đó có loại hình dân ca Lƣợn của dân tộc
Tày. Có đoạn tác giả viết: “Thơ ca dân gian các dân tộc, với những nét đặc sắc
trong kết cấu ngôn ngữ, trong cách sử dụng hình tƣợng, trong nhạc điệu (và có
khi cả điệu hát múa nữa) đi kèm theo lời ca, lại thiên về thể hiện tính độc đáo
dân tộc; chính nhờ những yếu tố đó mà thơ ca dân gian mang đậm dấu ấn của
phong cách, màu sắc đa dạng của văn hoá dân tộc”. Tác giả mƣợn hai câu thơ
của nhà thơ Hoàng Văn Thụ để nói lên tính độc đáo của thơ ca các dân tộc Tày,
Nùng:

7
Từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau
"Si” ca nhiều tiếng áo nhiều màu. [41.Tr,198].
Cuốn “Tổng tập văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam” do Đặng
Nghiêm Vạn chủ biên xuất bản gồm nhiều tập, [66]. Đây là cuốn tổng hợp về
công tác sƣu tầm văn học các dân tộc thiểu số, trong đó có giới thiệu một số bài
Lƣợn của dân tộc Tày.
Từ những góc nhìn khác nhau, các tác giả đã đề cập đến Lƣợn nói chung
của dân tộc Tày - Nùng . Trong đó các nhà nghiên cứu giới thiệu về cách thức,
tổ chức, hệ thống của lƣợn, cũng nhƣ giá trị của thể loại dân ca trữ tình này
trong đời sống văn hoá của dân tộc Tày.
Ngoài ra còn có một số công trình sƣu tầm, giới thiệu và dịch của một số
tác giả cũng đề cập tới dân ca của dân tộc Tày – Nùng nhƣ: [32], [43], [50]…
Nhƣ vậy, công tác sƣu tầm, nghiên cứu về Lƣợn còn rất khiêm tốn so với
bề dày nền văn hoá Sli Lƣợn của dân tộc Tày - Nùng. Trong các công trình
khoa học của những nhà nghiên cứu tuy chƣa khám phá hết những giá trị của
loại hình dân ca Lƣợn; Nhƣng các công trình trên là những gợi mở, là tiền đề

khoa học có giá trị to lớn cho việc nghiên cứu đề tài trên.
2.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu Hát Iếu ở huyện Bắc Quang tỉnh
Hà Giang.
Đối với dân tộc Tày ở Bắc Quang Hát Iếu là một loại hình sinh hoạt văn
hoá tập thể, ngƣời Tày vốn có truyền thống văn hoá tốt đẹp đƣợc kết tinh trong
đời sống lao động, sản xuất, trong giao tiếp và ứng xử. Vì vậy mà Hát Iếu đƣợc
lƣu truyền ở nhiều bản làng của ngƣời Tày, trở thành nét sinh hoạt độc đáo
riêng của ngƣời Tày nơi đây. Dù đã đƣợc biết đến, nhƣng Hát Iếu của dân tộc
Tày ở Bắc Quang vẫn còn là mảnh đất nguyên sơ chƣa đƣợc nhiều ngƣời quan
tâm nghiên cứu.
Hiện nay, tƣ liệu Hát Iếu chủ yếu là bản sƣu tầm và dịch của ông Hoàng
Văn Chữ, một ngƣời Tày ở Bắc Quang chƣa đƣợc in thành sách. Và hai tập thơ

8
Tày “Chồm bióoc Mạ” và “ Ra mắt bố mẹ” của Hoàng Thị Cấp sƣu tầm và
dịch.[4,5]. Do vậy, việc tìm hiểu về Hát Iếu ở địa phƣơng Bắc Quang nói riêng,
dân ca của các dân tộc nói chung là việc làm thiết thực trong đời sống hiện nay,
góp phần bảo tồn gìn giữ và phát huy nền văn học văn nghệ vô cùng quý giá
của cả dân tộc.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên Cứu “Hát Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang - những
đặc điểm nội dung và nghệ thuật”, Qua đó nhận diện, phân tích, so sánh để thấy
đƣợc nét độc đáo, giàu bản sắc văn hoá Tày ở một địa phƣơng cụ thể.
- Bƣớc đầu cố gắng lí giải cội nguồn của nét văn hoá dân ca Iếu trên cơ
sở tổng quan văn hoá của dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.
- Đề xuất những giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp
vốn có của Hát Iếu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, thống kê, phân tích, lý giải lời Hát Iếu và một số vấn đề có
liên quan đến giá trị nội dung, nghệ thuật của Hát Iếu.

- Sƣu tầm, tìm hiểu thêm lời Hát Iếu với một số loại hình văn hoá nghệ
thuật, tín ngƣỡng có liên quan thiết thực đến đề tài từ các góc độ nhìn nhận.
- Bƣớc đầu nêu một số suy nghĩ về bảo tồn, phát huy những giá trị văn
hóa của Hát Iếu trong đời sống đƣơng đại.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những lời Hát Iếu đã
đƣợc sƣu tầm và xuất bản thành sách.
- Những tƣ liệu sƣu tầm chƣa xuất bản của một số nghệ nhân và tác giả
đề tài.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu:
+ Hoàng Thị Cấp,(2005), Chồm bióoc Mạ, Nxb văn hoá dân tộc
Hà Nội.

9
+ Hoàng Thị Cấp (2007), Ra mắt bố mẹ, Hội văn học nghệ thuật
tỉnh Hà Giang.
+ Những tƣ liệu chƣa xuất bản:
. Iếu dân ca dân tộc Tày do Hoàng văn Chữ sƣu tầm và dịch.
. Iếu hát thơ then dân ca dân tộc Tày của tác giả Hoàng
Văn Chữ.
. Văn bản của chính tác giả sƣu tầm qua các nghệ nhân.
. Mạng Intrenet.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số đặc điểm
nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Trên bình diện phƣơng pháp luận là tiếp cận chủ yếu theo quan điểm ngữ
văn học, tức là dựa vào thành tố ngôn từ, cụ thể ở đây là lời Hát Iếu để phân tích.
Tuy nhiên Hát Iếu là một loại hình dân ca vì thế nó không thể tách rời đời sống

văn hoá của dân tộc Tày. Do đó tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo quan điểm văn
hoá học là cần thiết, song cần phải nghiên cứu theo quan điểm tiếp cận liên ngành,
xem xét đối tƣợng từ nhiều góc độ, ngành khoa học khác nhau.
- Trên bình diện phƣơng pháp cụ thể, chúng tôi sử dụng :
+ Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống.
+ Phƣơng pháp khảo sát thống kê.
+ Phƣơng pháp điền dã văn học.
+ Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
+ Phƣơng pháp đối chiếu so sánh.
8. Những đóng góp của luận văn
Nghiên cứu Hát Iếu trong đời sống văn hoá dân gian của ngƣời Tày ở
Bắc Quang - Hà Giang, nhằm giới thiệu một nét văn hoá đặc trƣng vốn có trong
dân gian nhƣng chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Luận văn là công

10
trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về Hát Iếu của ngƣời Tày ở Bắc
Quang - Hà Giang.
Trong quá trình nghiên cứu, qua khảo sát điền dã, tác giả đề tài đã thu
thập đƣợc một số lƣợng đáng kể những bài Hát Iếu còn đang lƣu truyền trong
đời sống dân gian ở Bắc Quang - Hà Giang.
Kết quả khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bƣớc
đầu đề xuất hƣớng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc
Tày nói chung, trong đó có dân tộc Tày Bắc Quang.
9. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần nội dung chính, phần kết luận, tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận văn đƣợc trình bày trong ba chƣơng:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế- cơ sở tìm hiểu Hát Iếu ở Bắc
Quang - Hà Giang.
Chƣơng 2. Nội dung của Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.
Chƣơng 3. Những đặc điểm nghệ thuật trong Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà

Giang.


11
NỘI DUNG

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ - CƠ SỞ
TÌM HIỂU HÁT IẾU Ở BẮC QUANG HÀ GIANG.

1.1 Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.
1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang.
Hà Giang là miền đất của địa đầu Tổ Quốc Việt Nam, nổi tiếng với cột
cờ trên đỉnh Lũng Cú - Đồng Văn, nằm bên dải phía Tây Côn Lĩnh, là nơi sinh
sống của 22 dân tộc anh em nhƣ: Tày, Nùng, Dao, Mông, Pà Thẻn, La Chí, Pu
Péo, Lô Lô…Trong đó dân tộc Tày có khoảng 175.757 ngƣời, chiếm 25% dân
số trong tỉnh, đứng sau dân tộc Mông 30,75% ( năm 2001). Dân tộc Tày là cƣ
dân bản địa sống lâu đời trên đất nƣớc Việt Nam. Họ cùng với các cƣ dân Tày-
Thái khác là một trong những chủ nhân đầu tiên lập lên nhà nƣớc Văn Lang của
các Vua Hùng, nhà nƣớc Âu Lạc của Thục Phán An Dƣơng Vƣơng trên cơ sở
hợp nhất hai bộ lạc chủ yếu của thời bấy giờ là Âu Lạc và Lạc Việt.
Ở Hà Giang theo các tài liệu lịch sử, khảo cổ học từ trƣớc năm 1945 đến
nay đã phát hiện những hiện vật từ thời đồ đá cũ cho tới thời đại đồ đồng, đồ
sắt, báo hiệu quá khứ xa xƣa của con ngƣời đã cƣ trú trên đất Hà Giang. Điều
đó chứng tỏ phần nào Hà Giang là vùng đất cổ có các cƣ dân sinh sống, trong
đó có dân tộc Tày. Theo các nhà nghiên cứu và các cụ già ngƣời Tày ở Vị
Xuyên, Bắc Quang kể lại thì ở Hà Giang tồn tại những cƣ dân Tày cổ ở vùng
ba phƣơng: Phƣơng Tiến, Phƣơng Thiện, Phƣơng Độ thuộc huyện Vị Xuyên
ngày nay. Ngoài ra họ còn cƣ trú ở vùng Bằng Hành, Vô Điếm, Đồng Yên,
Xuân Giang…của huyện Bắc Quang. Các cụ già ở xã Phƣơng thiện nói: Họ
biết họ Nguyễn của dân tộc Tày đã sống ở đây cách đây 700 đến 800 năm.

Trong lịch sử nƣớc ta thời Lý -Trần là thời kỳ thịnh hành của phật giáo
cả nƣớc, chùa chiền đƣợc tạo dựng khắp nơi, nhất là sau ba lần đại thắng quân
Nguyên Mông của triều Trần, hào khí Đông A vang vọng từ Thăng Long đến

12
các miền biên viễn xa xôi. Ở Hà Giang còn di tích 2 ngôi chùa cổ đó là chùa
Sùng Khánh ở bản Bang xã Đạo Đức huyện Vị Xuyên, chùa Bình Lâm ở xã
Phú Linh, thị xã Hà Giang cũng đƣợc xây dựng vào thời kỳ đó. Đặc biệt trên
tấm bia ở chùa Sùng Khánh dựng năm 1367 có ghi công lao của quan Phủ đạo
ngƣời Tày họ Nguyễn là Nguyễn Thiếp có công lao bảo vệ biên giới phía Bắc,
xây dựng làng xã ổn định phát triển, là nơi tin cậy của triều đình ở vùng biên
viễn xa xôi. [11, Tr.120].
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá
của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.
- Điều kiện tự nhiên:
Bắc Quang là huyện miền núi thấp , nằm ở cửa ngõ phía Đông Nam của
tỉnh Hà Giang trong toạ độ địa lý từ 22 độ 10’ đến 22 độ 36’ vĩ độ Bắc và 104
độ 43’ đến 105 độ 07’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp với huyện Vị Xuyên, Phía
Đông, Đông Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía
Tây, Tây Bắc giáp huyện Hoàng Su Phì. Trung tâm huyện là thị trấnViệt
Quang, cách thị xã Hà Giang khoảng 60km.
Năm 2005, huyện Bắc Quang đƣợc chia tách thành hai huyện Bắc Quang
và Quang Bình, huyện Bắc Quang cũ gồm có 33 xã. Do việc phân chia lại địa
ranh, địa giới hiện nay Bắc Quang còn 21 đơn vị hành chính cấp xã: Tân Lập,
Tân Thành, Tân Quang, Việt Vinh, Đồng Yên, Vĩnh Phúc,Vĩnh Hảo, Hùng An,
Tiên Kiều, Việt Hồng, Quang Minh, Kim Ngọc, Vô Điếm, Bằng Hành, Hữu
Sản, Liên Hiệp, Đức Xuân, Thƣợng Bình, Đông Tâm, Đồng Tiến, Đông Thành
và hai thị trấn Việt Quang, Vĩnh Tuy. Năm 2005 dân số trung bình của huyện
Bắc Quang có 105.828 ngƣời, chiếm khoảng 16% dân số toàn tỉnh. Cƣ dân Tày
ở đây sống hiền hoà, đoàn kết với các dân tộc khác nhƣ Kinh, Dao, Mông,

Nùng…Thiên nhiên tƣơng đối ƣu ái tạo cho vùng đất này những bãi bồi phù sa
màu mỡ dọc theo hệ thống sông Lô, sông sảo, sông Bạc…thuận lợi cho việc
phát triển nền nông nghiệp lúa nƣớc. Tuy nhiên do địa hình tƣơng đối phức tạp

13
nhƣ đồi núi cao, thung lũng sâu, mƣa nhiều (Bắc Quang đƣợc coi là “rốn mƣa”
của cả nƣớc), sƣơng muối… đều gây ảnh hƣởng xấu đến sản xuất và đời sống
con ngƣời, khó khăn trong việc giao thông đi lại, xói mòn, lũ quét, ngập úng…;
Nhất là ở thời kỳ lịch sử xa xƣa khi cuộc sống của cƣ dân Tày còn thiếu thốn,
lạc hậu, đói nghèo.
- Đặc điểm kinh tế xã hội:
Địa vực cƣ trú của ngƣời Tày ở Bắc Quang rất thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế nông, lâm nghiệp toàn diện. Trải qua hàng ngàn năm gắn bó với
mảnh đất này, đồng bào Tày đã khai khẩn các thung lũng ven sông Lô, sông
Bạc, Ngòi Sảo, ven các suối lớn tạo thành những cánh đồng, ruộng bậc thang
trồng trọt phì nhiêu màu mỡ. Họ tạo ra hệ thống “dẫn nhập thuỷ điền” với
Mƣơng, Máng, Phai, Cọn…khá hoàn thiện phục vụ cho việc sinh hoạt, tƣới
tiêu. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm đa dạng, phong phú; các ngành nghề thủ
công nhƣ đan lát, dệt, rèn, đúc, kéo đƣờng mật cũng phát triển. Kỹ thuật sản
xuất của ngƣời Tày đã đạt tới trình độ khá cao, có kinh nghiệm về chăm sóc,
thâm canh thời vụ khá chặt chẽ theo vụ theo năm. Từ xƣa tới nay đồng bào Tày
ở vùng Bắc Quang về kinh tế hàng hoá cũng đã phát triển qua những phiên chợ
nông thôn họp theo quy định, việc trao đổi hàng hoá bằng hiện vật hay hình
thức trao đổi trực tiếp đến nay vẫn còn tồn tại. Từ những điều kiện thuận lợi,
khó khăn trên phải chăng những hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong đó
có hát Lƣợn ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu giải toả những khát vọng tinh thần của
họ.
- Đời sống văn hoá:
Cƣ dân ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang cũng nhƣ nhiều ngƣời Tày
khác sinh sống trong cả nƣớc đều có một nền văn hoá đa dạng và phong phú.

Mặc dù ngƣời Tày giao tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ hệ Tày - Thái, nhóm ngôn
ngữ rất gần với Tiếng Việt về hệ thống ngữ pháp và âm thanh. Song chỉ những
từ ngữ về thiên nhiên, về sự vật hiện tƣợng trong sinh hoạt giao tiếp mới là của

14
ngƣời Tày, còn đa số là vay mƣợn của Tiếng Việt, tiếng Hán hoặc từ Hán Việt.
Về chữ viết của ngƣời Tày trong thời kỳ cổ đại không có nên lịch sử thành văn
của dân tộc rất ít ỏi và gần nhƣ không có, Bƣớc sang giai đoạn trung đại mới
xuất hiện chữ Nôm Tày, chữ Nôm Tày là thứ chữ phỏng theo chữ Hán của
ngƣời Trung Quốc mà đặt ra. Theo nhiều nhà nghiên cứu, nhìn từ góc độ văn
tự, thứ chữ này cũng có một vài nét khác với chữ Nôm Việt. Học giả Nguyễn
Văn Huyên là ngƣời đầu tiên có công nghiên cứu về kiểu chữ Nôm Tày và sau
này đƣợc học giả Đào Duy Anh tiếp tục nghiên cứu và khẳng định ý kiến của
Nguyễn Văn Huyên: “Chữ Nôm Tày do ảnh hƣởng chữ Nôm Việt mà ra và có
cấu tạo nhƣ chữ Nôm Việt” [49: 210-220]
Chữ Nôm Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII đến XV sang đến cuối
thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII khi Mạc Kính Cung chuyển vƣơng triều lên Cao
Bằng đã để lại dấu tích về chữ Nôm Tày. Do đó có thể khẳng định chữ Nôm
của ngƣời Tày ra đời không muộn hơn so với chữ Nôm Việt thế kỷ XVI.
Bƣớc sang giai đoạn hiện đại, việc sử dụng chữ Nôm gặp nhiều khó khăn
do vốn từ tiếng Tày còn nghèo nàn trong các ngành hoạt động hành chính cũng
nhƣ khoa học. Năm 1954, một lớp trí thức Tày đã tự sáng tạo ra chữ La tinh
Tày nhƣng cũng không đƣợc phổ biến nhiều. Đến năm 1960, Đảng và Nhà
nƣớc ta mới có chủ chƣơng quan tâm xây dựng hệ thống chữ viết cho dân tộc
Tày theo lối chữ Quốc Ngữ bằng chữ cái Latinh. Trong cuốn Một vƣờn hoa
nhiều hƣơng sắc, nhà thơ Tày Nông Quốc Chấn đã nhận định: “Chữ Tày có vai
trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng phát triển nền văn hoá nghệ
thuật xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta…”
Trong những vùng sinh sống tập trung, dân cƣ Tày sử dụng song ngữ và
chữ viết Tày - Việt đã trở thành nét đặc thù phổ biến trong đời sống ngôn ngữ.

Do đó cần có kế hoạch sƣu tầm các văn bản văn học dân gian đƣợc ghi bằng chữ
Nôm Tày, chữ Tày hiện đại cũng cần đƣợc chỉnh lý, sửa chữa, đóng góp cho sự
nghiệp phát triển văn hoá Tày nói riêng và văn hoá trong cộng đồng 54 dân tộc

15
Việt nói chung. Có thể nói chữ viết ra đời là một trong những thành tựu to lớn, là
điều kiện vô cùng quan trọng trong việc lƣu giữ và phát triển nền văn hóa văn
học đa dạng của các dân tộc nói chung, cƣ dân Tày Bắc Quang nói riêng.
Ngƣời Tày ở Bắc Quang có nền văn hoá đa dạng, phong phú. Cả văn hoá
vật chất lẫn tinh thần đều có những nét độc đáo.
+ Về văn hoá vật chất:
Bản là đơn vị cƣ trú của ngƣời Tày, thƣờng ở chân núi, cạnh cánh đồng
hay ven sông, suối lớn. Tên bản thƣờng đạt theo tên đồng ruộng, khúc sông. đồi
núi nhƣ: Nà Ngần, Nà Đon, Nà Tông, Nà Cải… Mỗi bản trung bình có từ 25
đến 30 nhà, bản lớn có tới 60, 70 nhà, thậm chí có tới 100 nhà, có bản chỉ có
ngƣời Tày, có bản sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nhà cửa của ngƣời Tày ở
đây thƣờng dựng theo thế đất, đằng sau dựa vào đồi núi, phía trƣớc thƣờng nhìn
ra cánh đồng, sông suối, bên cạnh nhà có máng nƣớc, ao cá, hƣớng nhà thƣờng
căn cứ vào tuổi gia chủ…Nhà ở của họ phổ biến nhất là nhà sàn, lợp lá cọ, nhà
có điều kiện thì làm nhà gỗ tất cả xà, cửa…đều làm bằng gỗ tứ thiết đƣợc bào
nhẵn, ghép mộng cầu kỳ, kiến trúc trạm trổ đẹp mắt, nhiều hoa văn. Nhà nghèo
thì làm gỗ kê đá, lợp lá cọ, phên vách bằng nứa đan… nhà thƣờng chia làm 3 -
5 - 7 gian, có khi còn làm bếp riêng liền với nhà chính từ 2 đến 3 gian. Xung
quanh nhà đƣợc lắp cửa sổ bằng ván hoặc tre nứa, mở thông thoáng nhìn ra
phía trƣớc, đằng sau nhà… Nhà sàn của ngƣời Tày là loại nhà tổng hợp, gian
giữa thƣờng để bàn thờ tổ tiên, bếp lửa, gian đầu nhà chỗ cầu thang lên thƣờng
là nơi tiếp khách, các gian phía trong là chỗ ngủ của các thành viên trong gia
đình, có bếp nấu ăn và cũng là nơi tiếp khách của nữ giới, có gác để thóc ngô
cùng các đồ dùng khác. Bên cạnh nhà có chuồng chăn nuôi, ngày xƣa nhiều
nhà còn sử dụng ngay gầm sàn để chuồng gia súc, công cụ sản xuất rất mất vệ

sinh… Sự tập trung dân cƣ đông đúc đã tạo điều kiện cho việc giao lƣu văn hoá
phát triển, các chàng trai, cô gái cùng làng, khác bản có thể Hát Iếu đối đáp với
nhau, tìm hiểu nên vợ thành chồng.

16
Trang phục của nam, nữ Tày ở đây chủ yếu mặc quần áo vải chàm, cùng
một kiểu: áo dài 5 thân, quần lá toạ. Đàn ông quấn khăn hay chít khăn kiểu chữ
nhân. áo nữ dài tới bắp chân, ống tay hẹp, xẻ nách phải, cài 5 khuy, thắt lƣng
bằng vải lanh hay đũi màu xanh, đỏ dài khoảng hai sải tay, đặc biệt họ thƣờng
tự tay mình dệt thêm những dải dây nhỏ, dài có nhiều hoạ tiết đẹp để trang trí
cho áo thêm đẹp, tiếng Tày gọi là “Thai Thửa”. Ở một số xã trong huyện phụ
nữ Tày còn mặc áo 5 thân bằng vải khác màu, hoặc áo cánh bằng vải nâu, vải
chàm tự nhuộm. Chị em phụ nữ thƣờng đeo vòng cổ, vòng tay và mang xà tích
bằng bạc hoặc vàng, đầu đội nón cọ tự làm…Họ thƣờng chọn những bộ trang
phục đẹp nhất để diện trong các dịp có lễ hội, đi chợ, các cuộc hát giao duyên.
+ Văn hoá ứng xử:
Trong mối quan hệ xã hội nhìn chung đồng bào Tày ở đây khá phát triển
nhƣng không đồng đều. Ở vùng thấp, dọc các đƣờng giao thông, gần các thị
trấn thị xã trình độ phát triển về các mặt gần bằng các vùng đồng bằng, tuy
nhiên ở những vùng giữa, vùng cao xa xôi hẻo lánh, trình độ phát triển còn
thấp, đặc biệt ở một số vùng còn tồn tại chế độ “Quăng” ( chế độ thổ ty) - Là xã
hội tiền phong kiến ra đời từ rất sớm, tồn tại từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX mới tan dã dần… Kể từ thời Lý đến thời Trần, thời Hậu Lê, các tập đoàn
phong kiến muốn cai quản đƣợc các vùng xa xôi, vùng biên giới đều phải thông
qua các quý tộc, tù trƣởng các dân tộc để nắm giữ chính quyền, đất đai . Nên có
thời kỳ triều đình phong kiến đã phong cho bảy họ lớn ở các vùng miền là
“Thất tộc phiên thần” gồm có họ Nông, Ma, Nguyễn, Hoàng, Hà, Vi, Đinh.
Trong đó Hà Giang có bốn dòng họ là Nông, Nguyễn, Ma, Hoàng, có ngƣời
đƣợc phong tới chức quan Thái bảo, Thái phó, có ngƣời đƣợc phong tƣớc Quận
công. Đến trƣớc Cách Mạng tháng Tám năm 1945, các Quăng vẫn tồn tại và

chuyển sang làm Tri châu, Tổng đoàn, Châu đoàn, Chánh tổng, Lý
trƣởng…của chính quyền phong kiến thực dân. Thời Lý một số tù trƣởng ngƣời
Tày đã trở thành phò mã của triều đình và là ngƣời phải phục tùng chính quyền

17
trung ƣơng về mặt chính trị, quyền lợi, phải nộp cống phẩm hàng năm… Họ
đƣợc phép cai quản dân của mình theo phong tục, tập quán dân tộc. Triều đình
cũng cử các quan lại dƣới xuôi lên trấn thủ vùng biên giới, họ mang theo gia
đình, họ hàng thân thích lên làm ăn, lâu ngày đồng hoá với ngƣời Tày, trở
thành quý tộc địa phƣơng, hoặc gọi là Lƣu quan, nên ngƣời Tày có câu “ Keo
ké piến Tày (Kinh già hoá Thổ). Đặc điểm nổi bật của chế độ quý tộc Quăng là
cha truyền con nối, cai trị từng vùng đƣợc triều đình công nhận, nắm quyền sở
hữu tối cao đối với ruộng nƣơng, rừng rú, sông suối và các nguồn tài nguyên
khác trong vùng. Trƣớc cách Mạng tháng Tám, cƣ dân Tày ở đây có một số
tầng lớp theo học chữ Nho, chữ Nôm Tày, họ trở thành tầng lớp trí thức của
dân tộc và đội ngũ các thầy Mo, Then, Tạo, Pụt…Đây chính là tầng lớp có sự
đóng góp to lớn cho nền văn hoá nghệ thuật của bản địa.
Về quan hệ giữa các gia đình trong thôn bản, làng xóm tuy chịu ảnh
hƣởng bởi nền kinh tế tƣ hữu phong kiến xong chế độ công xã nông thôn vẫn
còn tồn tại dƣới dạng tàn tích. Bà con xóm giềng sớm tối có nhau, thƣờng
xuyên cƣu mang, giúp đỡ lẫn nhau. Tục ngữ Tày có câu: “ Pi noọng tam tó bố
táy pin noọng xó rƣờn” (anh em xa không bằng anh em làng xóm ở gần nhau).
Cƣ dân ở đây còn có tục “Tối vằn lèng” (Đổi công) để giúp nhau làm những
việc cần đông ngƣời nhƣ cấy, gặt hái, đám cƣới…hay tục “Kết tồng” ( kết bạn)
cùng tuổi, cùng năm sinh tháng đẻ, không phân biệt dân tộc miễn là hợp nhau,
khi đã kết bạn tồng thì mọi công việc lớn nhỏ trong hai gia đình đều có nhau.
Tình bạn này rất đƣợc coi trọng dù đó là “Tồng” của con cái, vợ chồng hay ông
bà… Ngày nay những tục lệ này đến này vẫn đƣợc giữ gìn và phát huy trong
cộng đồng cƣ dân ở đây.
Gia đình của ngƣời Tày Bắc Quang cũng giống nhƣ cƣ dân Tày ở một số

nơi khác rất đông, có tới 4 - 5 thế hệ (cụ kị, ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt)
nhiều đời cùng chung sống trong một mái nhà, song sống phổ biến nhất vẫn là
2- 3 thế hệ sống cùng nhau. Trong gia đình ngƣời Tày ở đây đều đƣợc xây

18
dựng theo thể chế và tục lệ hôn nhân một vợ, một chồng, mang tính phụ hệ.
Chủ gia đình là ngƣời chồng, điều khiển mọi công việc từ sản xuất đến sinh
hoạt trong gia đình, cộng đồng; vai trò của ngƣời đàn ông trong gia đình rất
đƣợc coi trọng, họ đƣợc tôn trọng hơn so với đàn bà. Tính chất phụ quyền trong
gia đình ngƣời Tày thể hiện rất rõ trong quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình nhƣ vợ phải nghe lời chồng, giữa con dâu và các bậc trên có sự cách biệt
nghiêm ngặt nhƣ không đƣợc ngồi ngang hàng, ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu
với bố, anh chồng, không đƣợc tới chỗ ngủ và nơi dành riêng cho bố, chú, bác,
anh chồng. Một biểu hiện nữa của tính chất phụ hệ trong các gia đình của ngƣời
Tày là cách đặt tên và lấy họ cho con. Cũng giống nhƣ ngƣời Kinh ở chỗ, sinh
con ra đều lấy theo dòng họ và dân tộc của ngƣời cha. Việc con cái lấy theo
dòng họ ông - cha cũng chính là cách xác lập huyết thống, tông tộc, giống nòi.
Đi liền với thể chế này là những quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời con
trai (kế thừa tài sản và chịu trách nhiệm cúng giỗ cha mẹ khi mất). Còn đối với
con gái không đƣợc hƣởng gia sản, trừ khi bố mẹ cho làm của hồi môn và phụ
thuộc vào ngƣời chồng của mình. Tuy vậy, ngƣời Tày không chuyên quyền độc
đoán, gia trƣởng mà những việc lớn chồng đều tham khảo ý kiến của vợ, ngƣời
vợ có vai trò quan trọng hỗ trợ chồng trong sản xuất, quản lý gia đình, tài sản,
nuôi dạy con cái trƣởng thành. Ngƣời Tày rất coi trọng việc giáo dục, dạy dỗ
con cái về đạo đức, nề nếp gia phong, đi đứng ở trong nhà và ngoài xã hội.
Trong vùng của ngƣời Tày ở Bắc Quang và một số huyện khác trong tỉnh
thƣờng có lời răn dạy con cháu bằng thơ gọi là “ bách giáo” ( 100 câu răn dạy)
khuyên bảo con cháu về lối sống đạo đức và các quan hệ xã hội.
+ Văn hoá tinh thần:
Tín ngƣỡng văn hoá của ngƣời Tày mang tính chất phức tạp, do cuộc

sống tồn tại trên cơ sở nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, mang tính chất tự
cung tự cấp… cho nên tàn dƣ của các tín ngƣỡng nguyên thuỷ còn tồn tại trong
đời sống tâm linh của họ nhƣ: Vật linh giáo, ma thuật, bái vật giáo( thờ cây đa

19
to, thờ hòn đá kì dị…) và các lễ nghi liên quan đến sản xuất nông nghiệp, săn
bắn, đánh bắt… tiêu biểu nhất trong tín ngƣỡng, tôn giáo ngƣời Tày là thờ cúng
tổ tiên, bắt nguồn từ thờ cúng gia tộc, thị tộc ở thời kỳ trƣớc để tỏ lòng biết ơn
đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ và mong họ phù hộ cho gia đình có đƣợc cuộc
sốn ấm no, hạnh phúc. Ở mỗi thôn bản họ còn thờ thủ công (cốc bản), thổ đại,
thờ các vị thánh trong vùng mà họ gọi là thần, đƣợc cúng vào dịp tết và rằm
tháng 7 hàng năm. Thổ công có miếu thờ đặt ở gốc cây to đầu làng, mỗi làng,
bản còn có các vị thần thánh ở các khu rừng hay núi cao gọi là Đông thấn, Pù
thấn. Hệ thống điện thần của cƣ dân Tày ở đây phát triển khá cao, có đủ mặt
các vị từ Ngọc Hoàng, Nam tào, Bắc đẩu, thần sông, thần núi, thần sấm, thần
sét…cho tới các loại thần thánh, ma quỷ ở địa phƣơng. Hàng năm vào mùa
xuân, ngƣời ta tổ chức cúng trên một đám rụng nhất định ở trƣớc bản, mỗi gia
đình đều có mâm lễ rƣợu, thịt, xôi, bánh đem đến để cúng. Lễ hội này đƣợc gọi
là hội Lồng tồng( xuống đồng), thầy cúng sính tất cả các thần thánh, ma quỷ ở
địa phƣơng, cầu khấn trời đất mƣa thuận gió hoà, cuộc sống ấm no, mùa màng
bội thu, hạnh phúc. Trong lễ hội này ngoại trừ một số yếu tố mê tín thì nội dung
cầu mùa, vui chơi, giả trí là chính. Sau lễ cúng họ tổ chức các trò chơi nhƣ đánh
yến, đánh quay, tung còn, kéo co…và một phần không thể thiếu trong hội chính
là những lời Hát Iếu, Hát Cọi giao duyên làm đắm say bao tâm hồn từ lớp già
tới trẻ. Ngày nay lễ hội Lồng tồng vẫn đƣợc lƣu giữ, phát huy và bảo tồn.
Văn học nghệ thuật và tri thức dân gian của ngƣời Tày rất phong phú
nhƣ kho tàng truyện thần thoại, cổ tích: Quả bầu, Pú luông – Gia cải, Nàng
Kháy, Nàng Nhi -Nàng Khằm, truyện Kim Quý…còn lại các truyện phần lớn
xuất hiện trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn, xung đột, đấu tranh xã hội gay
gắt nhƣ các truyện Cảu Khay, Tua Nhi - Tua Gia, Thạch Sanh, Tống Lăn, Hán

xuân - Lƣu Đài, Phạm Tứ - Ngọc Hoa, Đình Quân - Thị Xuân, Quảng Chân -
Ngọc Nƣơng…Ngoài ra còn có nhiều truyện cƣời, ca dao, tục ngữ, thành
ngữ…Đặc biệt ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang cũng nhƣ ở một số nơi khác

20
có một số loại hình dân ca đáng coi trọng đó là Hát Lƣợn cọi, Hát Iếu, Hát quan
Làng, Phong Slƣ…
Tất cả những điều kiện trên tạo cho cƣ dân Tày ở Bắc Quang phát triển
một nền kinh tế toàn diện với nền văn hoá nông nghiệp lúa nƣớc đa dạng,
phong phú; sản sinh ra nhiều hình thức sinh hoạt văn học, nghệ thuật giàu bản
sắc đƣợc lƣu chuyển trong đời sống dân gian.
1.2 Khái quát về lƣợn
1.2.1 Khái niệm “Lượn”:
Lƣợn là một loại hình dân ca độc đáo của dân tộc Tày. Bằng nhiều cách
tiếp cận, công tác sƣu tầm nghiên cứu “Lƣợn” nói chung đã và đang mở ra
những triển vọng mới đóng góp cho việc giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn hóa
dân gian của dân ca Tày. Cho đến nay nhiều ngƣời vẫn chƣa định nghĩa đƣợc
rõ ràng về loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên qua quá trình khảo sát, nghiên
cứu của một số ngƣời đi trƣớc, chúng tôi tập hợp lại những ý kiến nhƣ sau:
- Vi Hồng trong: Sli Lƣợn dân ca trữ tình Tày – Nùng, có đƣa ra một số
ý kiến sau:
Ý kiến của các cụ nho học:
+ Lượn là do từ “luân” và giải thích “luân” nguyên nghĩa là cái bánh xe
đang lăn. “Làm lƣợn” thì phải có bên lƣợn đi bên lƣợn lại, quay đi quay lại…
không khác gì cái bánh xe lăn hết vòng này laị đến vòng khác. Nghĩa là đối đáp
không dứt.
+ Lượn là do từ chữ “luyến” mà ra. luyến có nghĩ là móc vào nhau.
Cũng nhƣ ngƣời ta “ làm lƣợn” với nhau thì câu nị phải “móc” (ăn nhập) vào
câu kia và cả hai bên cũng đều muốn gắn bó với nhau. Tác giả cho rằng việc
tìm nguồn gốc từ lƣợn từ một nguồn gốc Hán là không thoả đáng, đành rằng

tiếng Tày, Nùng vay mƣợn tiếng Hán khá nhiều. Những loại ý kiến trên phần
lớn là phỏng đoán theo cảm tính, thiếu căn cứ chắc chắn thuyết phục.
Ý kiến cắt nghĩa từ nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc Tày, Nùng, tác giả đơn

21
cử hai ý kiến:
+ Lượn là do từ “lặn” mà ra. Lặn trong tiếng tày, nùng có nghĩa là một
vòng khép kín, “lặn” là một vòng tròn hoặc là hai lƣợt đi về giữa hai địa điểm
hoặc giữa hai đầu nút. Và họ giải thích: lượn thì phải có “câu trai câu gái”,
nghĩa là từng “lặn” từng lƣợt.
+ Một ý kiến khác: lƣợn là do chữ “loặn” mà ra. “ loặn” trong tiếng
Tày có nghĩa là những suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo để dạt tới cái đúng cái hay cái
cần biết. Họ giải thích: làm lượn thì phải suy nghĩ thật nhanh mà câu phải hay,
lời đẹp để đáp lại nhau, cho nên làm lƣợn tức là “loặn”.Tác giả cùng cho rằng
những ý kiến này đều có lý của nó, nhƣng vẫn không có gì chắc chắn để mọi
ngƣời có thể tin nghe.
Cuối cùng tác giả nghiêng về ý kiến của cụ Nông Nguyễn Mô ngƣời Hoà
An - Cao Bằng : “Từ Lượn và từ “vjén” vốn cùng một nghĩa. Ngày xƣa ngƣời
ta thƣờng nói : “Lƣợn lủc” hay “Vjén lủc” - nghĩa là ru con - đều đƣợc cả. Sau
này ngƣời ta cũng gọi là “lƣợn bạn” hay “vjén bạn” cũng thế”. Tác giả còn giải
thích thêm từ “Vjén” trong tiếng Tày, Nùng hiện đại có nghĩa là ru. “Vjén” có
nghĩa là khuyên bảo dỗ dành. Nội dung những bài lượn đúng là những lời
khuyên bạn, là lời gọi rủ bạn tình, lời dỗ dành vỗ về bạn bè đồng bào, đồng
loại thân thƣơng. Trong rất nhiều bài lượn những từ “khuyên bạn”, “khuyên
em” rồi những nhóm từ cố định : Rủ bạn, rủ anh, rủ em cùng đi vào con đƣờng
tình nghĩa luôn luôn lặp đi lăp lại.
Một số khái niệm sau chúng tôi thu thập đƣợc trên mạng Internet:
- Lƣợn cọi - cội là lƣợn gốc, giai điệu xuất hiện sớm hơn hai loại lƣợn
then và lƣợn slƣơng. Lời lƣợn rút từ những câu rọi, một thể loại nói giao duyên
xâu chuỗi theo vần, xƣớng cao giọng công khai, để những ai mến mộ cùng

thƣởng thức.
- Các bài Lƣợn cọi (hát giao duyên): Là những bài hát đối đáp giao
duyên giữa nam nữ thanh niên, chứa đựng nội dung trữ tình trong sáng, lạc

22
quan, yêu đời; là loại dân ca phong phú và phát triển hơn cả trong đời sống tinh
thần của dân tộc Tày - Nùng, là nghệ thuật diễn xƣớng dân gian mang tính nghệ
thuật cao.
- Theo nghĩa rộng lƣợn chỉ toàn bộ kho tàng dân ca ngƣời Tày, bao gồm
cả Then ( lƣợn then), hát đám cƣới ( lƣợn quan làng), phuốc pác ( lƣợn Phuối
pác) và phong slƣ (lƣợn phong slƣ), cọi ( lƣợn cọi)…Theo nghĩa hẹp lƣợn chỉ
là những điệu hát giao duyên của ngƣời Tày. Cả hai cách hiểu trên đều có lí,
song có lẽ phổ biến hơn cả là cách gọi tên lƣợn theo nghĩa hẹp, tức là bộ phận
hát giao duyên đối đáp của ngƣời Tày.[Wikipedia Bách khoa toàn thƣ mở]
Về bản chất lƣợn ở các vùng về hình thức đều giống nhau, có khác là
khác ở giai điệu, tiết tấu. Cũng nhƣ tên gọi của Lƣợn Cọi, ở Bắc Quang - Hà
Giang gọi là Hát Iếu, ở Lục Yên - Yên Bái gọi là Khắp Cọi...
1.2.2. Khái niệm Hát Iếu
Đến nay chƣa có một khái niệm nào về Hát Iếu của dân tộc Tày ở Bắc
Quang - Hà Giang cũng nhƣ ở một số nơi khác.
Hát Iếu là thể loại hát dân ca chỉ dành riêng cho ngƣời chƣa vợ, chƣa
chồng. Tuy nhiên, trong thực tế do sức hấp dẫn của loại hình dân ca này nên
những ngƣời có vợ, có chồng, thậm chí là những ngƣời lớn tuổi đều có thể hát
nhƣng phải đƣợc sự ủng hộ, đồng tình của mọi ngƣời thì mới đƣợc hát. Tiếng
hát giao duyên trai gái trong Hát Iếu là vốn văn học cổ, là mạch nguồn văn hóa
đáng quý của dân tộc Tày Bắc Quang. Do vậy, trong đời sống tinh thần của
đồng bào Tày nơi đây, Hát Iếu không chỉ là một hình thức sinh hoạt văn hóa
mà còn thực hiện chức năng trao đổi tình cảm lứa đôi và biểu hiện nét đẹp
phong tục tập quán mang nội dung trữ tình đằm thắm, mƣợt mà.
Qua quá trình tiếp xúc, tìm hiểu chúng tôi tạm thời đƣa ra cách hiểu về

Hát Iếu nhƣ sau:
Hát Iếu là những bài hát đối đáp giao duyên giữa nam nữ thanh niên,
nhằm bày tỏ tình cảm lứa đôi, ca ngợi cuộc sống.

×