Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Luận văn hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty cổ phần may hồ gươm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.79 KB, 105 trang )





Luận văn
Hạch toán tiền lương và các khoản
trích theo lương tại Công ty cổ
phần May Hồ Gươm
Lời mở đầu
Một doanh nghiệp dù được thành lập với mục đích hoạt động nào đều hướng
tới mục tiêu tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần vào sự
phát triển kinh tế chung của đất nước…thông qua việc sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt khiến cho vấn đề này càng trở nên cấp thiết. Các
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, vươn lên phải sản xuất kinh doanh có
hiệu quả và không ngừng nâng cao hiệu quả để không những tạo ra thu nhập cho
mình mà còn phải chiến thắng trong cuộc cạnh tranh cho sự tồn tại và phát triển.
Chính vì vậy, việc hạch toán tiền lương trong các doanh nghiệp hiện nay là
rất cần thiết. Đối với doanh nghiệp thì tiền lương là một chi phí không nhỏ trong
giá thành sản phẩm tạo ra, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Đối với người lao động thì tiền lương là nguồn thu nhập chủ
yếu để đảm bảo cuộc sống và tái sản xuất sức lao động. Chính vì vậy, cần phải có
một chế độ tiền lương luôn đổi mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế, để kích
thích lao động và góp phần quản lí đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Nhận rõ tầm quan trọng của vấn đề, cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình
của cô giáo Nguyễn Văn Hậu và các cán bộ của Phòng kế toán, em chọn đề tài:
“Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty cổ phần May
Hồ Gươm”.
Nội dung nghiên cứu gồm 3 phần:
Phần 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo


lương.
Phần 2: Thực trạng hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại
Công ty cổ phần May Hồ Gươm.
Phần 3: Phương hướng hoàn thiện công tác tổ chức kế toán tiền lương và các
khoản trích theo lương tại Công ty cổ phần May Hồ Gươm.
CHƯƠNG i
Lý luận chung về công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
trong doanh nghiệp

I- Khái niệmvà đặc điểm của kế toán tiền lương và các khoản trích theo
lương.
1.1 Khái niệm tiền lương:
Trong lịch sử tồn tạivà phát triểncủa xã hội, lao động là hoạt động cơ bản
nhất, lao động gấưn liền với sự tồn tại và phát triển của con người. Có thể định
nghĩa lao động như sau:”Lao độnglà hoạt độngcó mục đích có ý thức của con
người nhằm tác động vào giới tự nhiên, biến chúng thành những vật có ích đối
với đời sống của mình”.
Theo định nghĩa trên thì quá trình lao động chính là quá trình sử dụng sức
lao động tức là sử dụng toàn bộ thể lực và trí tuệ tồn tại trong cơ thể sống của
con người mà con người có thể vận dụng trong quá trình sản xuất. Thực chất
sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động mà thôi.
Lao động có một vai trò quan trọng đối với xã hội loài người. Loài người
ngay từ khi xuất hiện để tồn tại được trước hết phải tiêu dùng một lượng của cải
vật chất nhất định để thoả mãn những nhu cầu sinh học cơ bản như ăn, mặc,
ở…Muốn có được của cảivật chất này không còn cách nào khác là phải lao
động và chính nhờ lao độngcon người mới khám phá ra thế giới xung quanh
nhận biết được các quy luật của tự nhiên và chinh phục tự nhiên. Đứng trên góc
độ toàn xã hội thì lao động, tự liệu lao động và đối tượng là ba yếu tố của nền
sản xuất xã hội. Tong đó lao động là yếu tố quan trọng mang tính chủ động, tích
cực nhất, vai trò của lao động ngày càng tăng. Nếu thiếu lao động thì hai nhân

tố còn lại sẽ trở thành vô dụng. Hơn thế nữa lao động là nguồn gốc của giá trị
thặng dư-phần giá trị mới sinh ra là cơ sở cho việc tái sản xuất mở rộng theo cả
chiều rộng lẫn chiều sâu. Như chúng ta đã biết, trong quá trình sản xuất tư liệu
sản xuất và đối tượng sản xuất chuyển hết giá trị sức lao động vào sản xuất mà
còn tạo ra thêm một phần giá trị mới nữa, phần giá trịmới này nếu nhìn ở góc độ
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì đố chính là lợi nhuận-mục tiêu hàng
đầu của doanh nghiệp.
Quá trình sản xuất diễn ra đòi hỏi phải tiêu dùng liên tục các yếu tố tư
liệu lao độnh, đối tượng lao động một cách thường xuyên. Mà các yếu tố này
không phải là vô cùng vô tận nên cần phải tái tạo lại, hay tái sản xuất các yếu tố
này. Đối với tư liệu lao động và đối tượng lao động thì tái tạo lại có nghĩa là
mua sắm cái mới, nhưng sức lao động thì khác.Súc lao động gắn liền với hoạt
động sống của con người là thể lực, trí lực con người, cho lên muốn tái tạo lại
sức lao động cần phải thông qua hoat động sống của con người, người tiêu dùng
một lượng vật chất nhất địng. Phần vật chất này do người sủ dụng lao động trả
cho người lao động dưới hình thức hiện vật, hay giá trị và được gọi là tiền
lương.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung, tiền lương được hiểu một cách thống nhất
như sau:” Về thực chất tiền lưong dưới chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập
quốc dân, biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được nhà nước phân phối co kế
hoạch cho công nhân viên cho phù hợp với số lượng và chất lương lao động của
mỗi người đã cống hiến. Tiền lương phản ánh việc trả công nhân viên chức dựa
theo nguyên tắc phân phối theo lao động”. Quan niệm này đã bác bỏtền lưong là
giá trị sức lao động. Bây giờ tiền lương chỉ là một khái niệm thuộc phạm trù
phân phối. Dưới chủ nghĩa xã hội việc phân phối là do nhà nước lên kế hoạch.
ở nước ta quan niệm về tiền lương như vậy đã tồn tại một thời gian rất dài. Khi
hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, để tồn tại đất nước ta đã phải tiến hành một
cuộc cải cách thật toàn diện trên mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực tư
tưởng. Cơ chế thị trường buộc chúng ta phải có thay đổi lớn trong nhận thức, vị
vậy quan niệm về tiền lương cũng phải thay đổi về cơ bản. Để có được một

nhận thức đúng về tiền lương, phù hợp với cơ chế quản lý mới, khái niệm về
tiền lưong phải đáp ứng một số yêu cầu sau:
Coi sức lao động là hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất.
Tiền lương phải là tiền trả cho sức lao động, tức là giá cả của hàng hoá
sức lao động theo quản lý cung cầu, giá cả trên thị trường lao động.
Tiền lương là bộ phận cơ bản (hoặc duy nhất) trong thu nhập của người
lao động, động thời là một trong cac yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Với ý nghĩa đó”tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động,
là giá của yếu tố sức lao động mà người sử dụng( nhà nước, doanh nghiệp )phải
trả cho người cung ứng sức lao động tuân theo các nguyên tắc cầu, giá cả của
thị trường và pháp luật hiện hành của nhà nước”.
Như vậy bản chất của tiền lương chính là giá cả của sức lao động vì sức
lao động thực sự là một loại hàng hoá đặc biệt. Chính vì sức lao động là hàng
hoá mà giá cả của nó chịu sự chi phối của quy luật kinh tế như quy luật giá trị,
quy luật cung cầu…
Tiền lương chịu sự chi phối của quy luật giá trị, tiền lương có thể cao
hơn,bằng hoặc thấp hơn giá trị sức lao động, mà con người bỏ ra trong quá trình
lao động.
Tiền lương chịu sự chi phối của quy luật cung cầu: Nhu cầu về sức lao
động lớn thi người có nhu cầu về sử dụng sức lao động sẽ sẵn sàng trả lương
cao hơn cho người lao động để giữ chân họ tiếp tục cung cấp sức lao động cho
mình chứ không phải cho người khác. Ngược lại, nếu cung về sức lao động hơn
cầu về sức lao động thì đương nhiên người có nhu cầu sức lao động sẽ có nhiều
cơ hội lựa chọn lao động, họ sẵn sàng từ chối người lao động mà yêu cầu giá
lương cao để tìm người lao động khác đang cần họ với tiền lương thấp hơn chất
lượng lao động có thể còn tốt hơn.
Cùng với khái niệm tiền lương như trên là một loạt các khái niệm cùng
với nó như tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế, tiền lương tối thiểu, tiền
lương kinh tế, chế độ tiền lương, hình thức tiền lương.

1.2 Đặc điểm cửa tiền lương.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động, tiền tệ và nền
sản xuất hàng hoá.
Trong điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ, tiền lương là một
yếu tố chi phí sản xuất, kinh doanh cấu thành nên giá thành của sản phẩm, lao
vụ, dịch vụ.
Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế quan trọng để nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, có tác dụng động viên khuyến khích
công nhân viên chức phấn khởi, tích cực lao động, nâng cao hiệu quả công tác.
II. Yêu cầu và nhiêm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo
lương.
2.1 Yêu cầu của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Hiện nay trong chế chế độ lao động tiền lương có quan điểm chỉ đạo lâu
dài là thực hiện đúng quyền hạn, quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người
lao động thực hiện sự bình đẳng giữa hai bên, tôn trọng quyền được làm việc và
thôi việc của người lao động. Trong các doanh nghiệp sản xuất ngày nay tổ
chức tiền lương phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
+Nguyên tắc trả lương theo số lượng và số lượng lao động: Nguyên tắc
này nhằm khắc phục chủ nghĩa bình quân trong phân phối, mặt khác tạo cho
người lao động ý thức với kết quả lao động của mình.Số lượng và số lượng lao
động được thể hiện một cách tổng hợp ở kết quả sản xuất thông qua số lượng và
số lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc khối lượng công việc được thực hiện.
+ Gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh và phù hợp với điều kiện kinh tế
của đất nước trong từng thời kỳ: Nếu chính sách tiền lương không giải quyết
đúng đắn thì không nhưng ảnh hưởng xấu đến sản xuất, đến tình hình phát triển
kinh tế- xã hội mà còn trở thành vấn đề chính trị không có lợi.
Để phân biệt và quy định mức độ phức tạp của công việc làm cơ sở tính
trả lương cho công nhân viên thì trong các doanh nghiệp hiện nay được nhà
nước quy định về tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, thang lương và mức lương. Đó là
cách trả lương theo chất lượng lao đông. Còn việc trả lương theo số lượng lao

động thực hiện bằng cách sử dụng các hinhdf thức tiền lương. Việc kết hợp
đúng đắn giữa chế độ lương cấp bậc với các hình thức tiền lương tạo điều kiện
quán triệt đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động.
2.2 Nhiệm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Ghi chép, phản ánh,tổng hợp chính xác, đầy đủ, kịp thời về số lượng, chất
lượng, thời gian và kêt quả lao động.
Tính toán các khoản tiền lương, tiền thưởng, các khoản trợ cấp phải trả
cho người lao động và tình hình thanh toán các khoản đó cho người lao động.
Kiểm tra việc sử dụng lao động, việc chấp hành chính sách chế độ lao
động, iền lương, trợ cấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và việc sử dụng các quỹ
tiền lương, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế.
Tính toán và phân bổ các khoản chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội và
chi phí sản xuất, kinh doanh theo từng đối tượng. Hướng dẫn và kiểm tra các bộ
phận trong doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ ghi chép ban đầu về lao động,
tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, mở sổ, thẻ kế
toán và hạch toán lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn theo chế độ.
Lập báo cáo về lao động, tiền lương và các khoản trích theo lương, phân
tích tình hình sử dụng lao động, quỹ tiền lương, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo
hiểm y tế đề xuất biện pháp để khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động, tăng
năng xuất lao động, ngăn ngừa nhưng vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm chính
sách chế độ lao động, tiền lương và các khoản trích theo lương.
III- Các hình thức tiền lương, quỹ tiền lương và các khoản trích theo
lương.
3.1 Trả lưong theo thời gian
Là tiền lương được xây dựng căn cứ vào thời gian công tac và trinh độ kỹ
thuật của công nhân. Tiền lương thời gian có thể tính theo tháng, theo ngày,
theo giờ công tác và gọi là tiền lương tháng, lương ngày, lương giờ. Lương
tháng có nhược điểm vì không phân biệt được người làm nhiều hay ít trong
tháng nên không có tác dụng khuyến khích tận dụng ngày công theo chế độ.

Đơn vị thời gian trả lương càng ngắn thì càng sát với mức độ hao phí lao động
của mỗi người. Hiện nay trong các doanh nghiệp áp dung trả lương theo thời
gian chủ yếu là theo ngày. Theo hình thức này thì:
Lương phải trả = Lương làm việc x Đơn giá bình quân theo
công nhân viên thực tế thời gian

Ưu điểm của tiền lương trả theo thời gian: Đơn giản dễ tính toán, phản
ánh được trình độ kỹ thuật và điều kiện làm việc của người công nhân. Song nó
có nhược điểm cơ bản vì nó chưa gắn thu nhập mỗi người với kết quả lao động
của mình. Hình thức này chỉ áp dụng khi mà tiền lương sản phẩm không thể áp
dụng được, trong nhưng trường hợp công nhân lao động máy móc là chủ yếu
hoặc những công việc không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính
xác hoặc vì tính chất của sản xuất nếu thực hiện trả công cho sản phẩm sẽ
không bảo đảm được chất lượng sản phẩm và không đem lại kết quả thiêt thực.
Trong điều kiện nước ta hiện nay khi lao động thủ công còn khá phổ biến, trình
độ chuyên môn hoá sản xuất còn thấp thì cần mở rộng hình thức trả lương theo
sản phẩm nhưng khi sản xuất phát triển đến trình độ cao, quá trình sản xuất
được cơ giới hoá và tự động hoá thì hình thức trả lương theo thời gian sẽ phổ
biến.
Hình thức trả lương theo thời gian chia thành 2 hình thức như:
+ Lương thời gian giản đơn
+ Lương thời gian có thưởng
Tiền lương thời gian giản đơn:
Theo hình thức này, tiền lương của công nhân được xác định căn cứ vao
múc lương cấp bậc và thời gian làm việc thực tế. Hình thức này có nhược điểm
cơ bản là không xét đến thái độ lao động, đến hình thức sử dụng lao động, sử
dụng nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị. Hình thức trả lương này mang tính
chất bình quân nên trong thực tế ít được áp dụng. Để khắc phục nhưng nhược
điểm trên bên cạnh tiền lương trả theo thời gian doanh nghiệp đã kết hợp với
hình thức tiền lương khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng đã

qui định. Đó chính là hình thức tiền lương theo thời gian giản đơn.
Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng
Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng được áp dụng chủ yếu đối
với công nhân phụ làm công việc phục vụnhư công nhân sửa chữa,điều chỉnh
thiết bị…Ngoài ra còn áp dụng đối với công nhân chính làm việc ở những khâu
sản xuất có trình độ cơ khí hoá cao, tự động hoá hoặc những công việc tuyệt đối
phải đảm bảo chất lượng. Cách tính lương theo hình thức này là lấy lương tính
theo thời gian của công nhân + tiền thưởng. Trong đó cách tính lương thời gian
giản đơn được trình bày ở trên.
Hình thức trả lương thời gian có thưởng có nhiều ưu điểm. Cách trả
lương như vậy không những phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc
thực tế mà còn gắn chặt với thành tích công tác của từng người thông qua các
chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được. Vì vậy có khuyến khích người lao động quan
tâm đén trách nhiêm và công tác của mình.
3.2 Trả lương theo sản phẩm.
Là hình thức tiền lương tính theo khối lượng (số lượng) sản phẩm và
công việcđã hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng qui định và đơn giá tiền
lương tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc đó, tiền lương sản phẩm phải trả
tính bằng khối lượng (số lượng) sản phẩm, công việc hoàn thành đủ tiêu chuẩn
chất lượng nhân với (x) đơn giá tiền lương sản phẩm.
Ưu điểm của hình thức này là:
+ Quán triệt đầy đủ nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng lao
động.Nó gắn việc trả lượng với kết quả sản xất của mỗi người.Do đó kích thích
nâng cao năng suất lao động.
+ Khuyến khích người lao động ra sức học tập văn hoá, khoa học, kỹ
thuật, nghiệp vụ để nâng cao trình độ lành nghề,ra sức phát huy sáng kiến, cải
tiến kỹ thuật, cải tiến phương pháp lao động, sử dụng tốt máy móc, thiết bị để
nâng cao năng suất lao động.
+ Góp phần thúc đẩy công tác quản lý doanh nghiệp nhất là quản lý lao
động.

Hình thức tiền lương theo sản phẩm gồm các hình thức:
Tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân trực tiếp, thời gian theo sản phẩm
tập thể, tiền lương theo sản phẩm cá nhân gián tiếp, tiền lương theo sản phẩm
luỹ tiến, hình thức trả lương theo sản phẩm có thưởng, hình thức trả lương
khoán.
3.2.1 Tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân trực tiếp:
Theo hình thức này tiền lương của công nhân được xác định theo số
lượng sản phẩm sản xuất ra và đơn giá lương sản phẩm.
L
t
= Q x Đ
g
Trong đó:
Lt: Là tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp
Q: Số lượng sản phẩm hợp quy cách
Đg: Đơn giá lương sản phẩm một sản phẩm
Đơn giá lương sản phẩm là tiền lương trả cho một đơn vị sản phẩm hoàn
thành và được xác định căn cứ vào mức lương cấp bậc công việc và định mức
thời gian hoặc định mức số lượng cho công việc đó. Ngoài ra trong đơn giá còn
được tính thêm tỷ lệ khuyến khích trả lương sản phẩm hoặc phụ cấp khu vực(
nếu có)
Công thức xác định:
ML X Đ
t
(100+K
1
+K
2
)
Đ

G
=
100

Trong đó:
ML: mức lương giờ( ngày) của cấp bậc công việc.
Đt: Định mức thời gian đơn vị sản phẩm ( giờ hoặc ngày)
K1: Tỷ lệ khuyến khích trả lương sản phẩm do nhà nước quy định(%)
K2: Tỷ lệ phụ cấp khu vực ( nếu có) (%)
Hình thức này đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người công nhân. Nó được
áp dụng rộng rãi trong các xí nghiệp công nghiệp đối với những công nhân trực
tiếp sản xuất có thể định mức và hạch toán kết quả riêng cho từng người. Tuy
nhiên hình thức này có nhược điểm là người lao động quan tâm đến số lượng
sản phẩm chứ không quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc, tiết kiệm vật tư.
3.2.2 Tiền lương theo sản phẩm tập thể:
Tiền lương căn cứ vaof số lượng sản phẩm của cả tổ và đơn giá chung để
tính lương cho cả tổ sau đó phân phối lại từng người trong tổ. Phương pháp này
cũng như đối với cá nhân trong chế độ tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực
tiếp.
Việc phân phối tiền lương cho của tổ cho từng người có thể tiến hành
theo nhiều phương pháp song tất cả các phương pháp đều dựa vào 2 yếu tố cơ
bản là thời gian công tác thực tế và cấp bậc công việc mà công nhân đảm
nhiệm. Trong thực tế có thể áp dụng 2 phương pháp sau:
+ Phương pháp phân chia theo hệ số: Thực chất phương pháp này là quy
đổi trong làm việc của từng người ở các cấp bậc khác nhau thành thời gian của
công nhân bậc 1 bằng cách nhân với hệ số cấp bậc tiền lương. Sau đó tính tiền
lương của 1 giờ hệ số bằng cách lấy lương của cả tổ chia tổng số giờ hệ số của
cả tổ. Cuối cùng tính phần tiền lương của mỗi người căn cứ vào hệ số giờ của
họ và tiền lương 1 giờ hệ số. Cách tính này được thể hiện bằng công thức:


Li =
ii
ii
t
Kt
Kt
L




Li: Tiền lương của công nhân i
ti: thời gian làm việc thực tế của công nhân i
Ki: Hệ số cấp bậc của công nhân
Li: Tiền lươnhg sản phẩm của cả tổ

+ Phương pháp điều chỉnh: Căn cứ vào giờ làm việc thực tế và mức
lương cấp bậc của tưng công nhân để tính tiền lương của mỗi người và của cả
tổ, sau đó dùng hệ số điều chỉnh để tính toán lại tiền lương của mỗi người được
hưởng. Hệ số điều chỉnh là tỷ số giữa tiền lương sản phẩm của cả tổ và tổng số
tiền lương cấp bậc của cả tổ.
Công thức tính:

Li =
ii
ii
t
Mt
Mt
L




Trong đó:
Mi: mức lương giờ theo cấp bậc của công nhân i
Hình thức này được áp dụng đối với những công việc do một tổ sản xuất
hay một nhóm công nhân cùng tiến hành và khó thống kê kết quả công việc của
từng cá nhân. Chẳng hạn việc lắp ráp thiết bị, sản xuất ở các bộ phận làm theo
dây chuyền, việc điều khiển các máy lưưu động hạng nặng.
Trả lương theo sản phẩm tập thể có tác dụng khuyến khích công nhân
quan tâm đến kết quả sản xuất chung của cả tổ, phát triển việc kiểm nghiệm
nghề nghiệp và nâng cao trình độ của công nhân.
Tuy nhiên, do nhược điểm của công việc chia lương là chưa tính đến thái
độ lao động, đặc điểm sức khoẻ, sự nhanh nhẹn tháo vát hoặc kết quả công tác
của từng công nhân, số lượng của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định
đến tiền lương của họ, do đó ít kích thích công nhân nâng cao năng suất lao
động cá nhân.
3.2.3 Tiền lương sản phẩm cá nhân gián tiếp:
Lương sản phẩm cá nhân gián tiếp được áp dụng đối với những công
nhân phụ, phục vụ và hỗ trợ cho sản xuất chính như công nhân điều chỉnh máy,
sửa chữa thiết bị… mà kết quả công tác của họ có ảnh hưởng trực tiếp tới kết
quả công tác của những người công nhân sản xuất chính nhằm khuyến khích họ
nâng cao chất lượng phục vụ tiền lương của công nhân phục vụ được xác định
bằng cách nhân số lượng sản phẩm thực tế của công nhân chính mà người đó
phục vụ với đơn giá lương cấp bậc của họ với tỷ lệ phần trăm hoàn thành định
mức sản lượng bình quân của những công nhân chính.
Có thể biểu diễn bằng công thức:
L
G
= S

C
X Đ
SG
hoặc L
P
= M
P
X T
C

Trong đó:
L
P
: Tiền lương công nhân phụ
S
C
: Sản lượng sản phẩm của công nhân chính
Đ
SG
: Đơn giá lương sản phẩm gián tiếp
M
P
: Mức lương cấp bậc của công nhân phụ
T
C
: Tỷ lệ hoàn thành định mức sản lượng bình quân của công nhân chính
(%)

Đơn giá sản lượng gián tiếp tính bằng công thức:
M

P
Đ
SG
=
Đ
MC

Trong đó:
Đ
MC
: Định mức sản lượng công nhân chính
Hình thức tiền lương này không phản ánh chính xác kết quả lao động của
công nhân phụ nhưng nó lại làm cho mọi người trong cùng một bộ phận công
tác quan tâm đến kết quả chung. Việc khuyến khích vật chất đối với công nhân
phụ sẽ có tác dụng nâng cao năng suất lao động của công nhân chính.
3.2.4 Hình thức trả lương sản phẩm luỹ tiến:
Thực chất của hình thức tiền lương này là dùng nhiều đơn giá khác nhau,
tuỳ theo mức độ hình thức vượt mức khởi điểm luỹ tiến, là mức sản lượng quy
địng mà nếu số sản phẩm sản xuất vượt quá mức đó sẽ được trả theo đơn giá
cao hơn (luỹ tiến). Mức này có thể quy định bằng hoặc cao hơn định mức sản
lượng. Những sản phẩm dưới mức khởi điểm luỹ tiến được tính theo đơn
giá chung cố định, những sản phẩm vượt mức này sẽ được trả theo đơn giá luỹ
tiến (tăng dần)
Ta có công thức như sau:



L
= Đ
G

X Q
1
+ Đ
G
X K(Q
1
- Q
0
)
Trong đó


L
: Tổng lương trả theo hình thức sản phẩm luỹ tiến
Đ
G
: Đơn giá cố định tính theo theo sản phẩm.
Q
1
: Sản lượng mức khởi điểm
K : Tỷ lệ đơn giá sản phẩm được
áp dụng hình thức tiền lương này thường dẫn đến tốc độ tăng tiền lương
cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Vì vậy chỉ sử dụng một biện pháp tạm
thời trong điều kiện cần khuyến khích mạnh mẽ việc tăng năng suất lao động và
tăng sản lượng ở các khâu yếu hoặc những khâu quan trọng của sản xuất nhằm
tạo điều kiện phát triển sản lượng cho các bộ phận khác và của toàn đơn vị.
Nhờ việc tăng khối lượng sản xuất của đơn vị mà chi phí cố định/đơn vị
sản phẩm sẽ phải trả. Đó cũng chính là nguồn bù đắp cho số tiền lương mà đơn
vị phải trả thêm do áp dụng lương sản phẩm luỹ tiến. Chính vì vậy khi áp dụng
hình thức tiền lương này cần phải xác định đúng đắn tỉ lệ tăng đơn giá nhằm

đảm bảo điều kiện là chi phí cố định phải giảm nhiều hơn hoặc bằng mức tiền
lương tăng lên.
Ta có:


S
S
HL
HC
CD



)1(

Công thức này được sử dụng để tính tỷ lệ tăng đơn giá hợp lý, bảo đảm
hiệu quả của việc áp dụng trả lương theo sản phẩm luỹ tiến. Ngoài ra cần chu ý
khi áp dụng hình thức trả lương này, sản lượng sản phẩm vượt mức khởi điểm
luỹ tiến phải được tính theo kết quả cả tháng để tránh tình trạng có ngày vượt
mức nhiều có ngày lại hụt mức, kết quả cả tháng cộng lại có thể hụt mức mà
tiền lương nhận được vẫn vượt tiền lương cấp bậc hàng tháng.
Đó cũng là một khía cạnh của nguyên tắc “Tốc độ tăng năng suất lao động
lớn hơn tốc độ tăng tiền lương”
3.2.5 Hình thức tiền lương sản phẩm có thưởng:
Thực chất của hình thức tiền lương này là sự kết hợp chế độ tiền lương
theo sản phẩm với chế độ tiền thưởng. ở các doanh nghiệp, việc áp dụng hình
thức trả lương này nhằm mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm mức
phế phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu.
Tiền lương tính theo sản phẩm có thưởng được tính theo công thức:
L X (M X H)

L
TH
= L+
100
Trong đó:
L
TH
: Tiền lương trả theo sản phẩm có thưởng.
L : Tiền lương trả theo đơn giá cố định.
M :% tiền thưởng trả cho 1% hoàn thành vượt múc chỉ tiêu thưởng.
H :% hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng.
3.2.6 Hình thức lương khoán:
Là hình thức đặc biệt của tiền lương trả theo sản phẩm, trong đó tổng số
tiền lương trả cho công nhân hoặc một nhóm công nhân được qui định trước
cho một khối lượng công việc hoặc khối lượng sản phẩm nhất định phải được
hoàn thành trong thời gian qui định
Chế độ trả lương này chủ yếu áp dụng trong đơn vị xây dựng cơ bản hoặc
một số công việc nông nghiệp. Trong công nghiệp chế độ trả lương khoán có
thể áp dụng đối với các cá nhân tập thể.
Sau khi nhận tiền công do hoàn thành công việc, các cá nhân sẽ được chia
lương. Việc chia lương có thể áp dụng theo cấp bậc và thời gian làm việc hoặc
theo cách bình công điểm. Nguyên tắc chung chia lương là phải chia hết.
Hình thức trả lương khoán khuyến khích công nhân hoàn thành nhiệm vụ
trước thời hạn đảm bảo chất lượng công việc nhưng chia lương khá là là khó
khăn.
Tóm lại: Việc trả lương cho người lao động không chỉ căn cứ vào thang
lương, bậc lương, các định mức tiêu chuẩn mà còn lựa chọn hình thức tiền
lương thích hợp với điều kiện cụ thể của nghành và doanh nghiệp có như vậy
mới phát huy được tác dụng của tiền lương, vừa phản ánh lao động hao phí
trong quá trình sản xuất vừa làm đòn bẩy kích thích người lao động nâng cao

hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong thực tế nhêìu doanh nghiệp mức lương được trả cao hơn thế kia do
còn có một số loại phụ cấp thêm vào và chế độ hình thức trả lương cũng khá đa
dạng. Đi sâu vào tìm hiểu ta thấy có các loại phụ cấp laọi thưởng sau:
3.3 Các chế độ trả lương phụ, thưởng, trợ cấp áp dụng tại doanh
nghiệp
3.3.1 Chế độ trả lương khi ngừng việc và khi làm ra sản phẩm hỏng, xấu
Khi ngừng việc người lao động vẫn được hưởng 1 khoản lương tuy nhiên
mức lương này nhỏ hơn mức lương chính thức khi đi làm việc thực tế. Các
trường hợp ngừng việc là do nguyên nhân khách quan, do người khác gây ra
hoặc do khi chế thử, sản xuất thử sản phẩm mới. Với mỗi trường hợp mức
lương qui định như sau:
+ 70% lương khi không làm việc
+ ít nhất 80% lương nếu phải làm việc khác có mức lương thấp.
+ 100% lương khi ngừng việc do chế thử, sản xuất thử.
Cách tính này thống nhất với mọi lao động theo % trên mức lương
cấp bậc kể cả phụ cấp.
Còn trong trường hợp cả công nhân làm ra sản phẩm hỏng, xấu thì tuỳ
từng trường hợp họ sẽ được nhận:
+ Nguyên lương nếu mức hỏng này trong phạm vi định mức cho phép
hoặc nguyên nhân khách quan.
+ Nếu mức hỏng ngoài định mức cho phép do lỗi của công nhân thì họ
được hưởng 70% lương.
+ Nhưng nếu là chế thử, sản xuất thử thì họ vẫn được hưởng nguyên
lương.
+ Đối với sản phẩm xấu mà người công nhân sửa lại được thì sẽ được
hưởng nguyên lương theo sản phẩm sản xuất được nhưng thời gian sửa chữa
không được tính lương.
3.3.2 Một số chế độ phụ cấp và tính lương, phép:
Khi người lao động nghỉ phép thì họ được tính lương phép. Theo chế độ

hiện hành thì lương phép bằng 100% lương theo cấp bậc( chức vụ). Trên lương
nghỉ phép là tiền lương phụ. Hiện nay mỗi năm công nhân được nghỉ phép 12
ngày phép, nếu làm việc từ 5 năm liên tục sẽ được hưởng thêm một ngày còn
nếu làm việc từ 30 năm trở lên thời gian nghỉ phép sẽ tăng lên 6 ngày.
Nếu vì lý do gì đó người lao động không nghỉ phép được thì ngoài tiền
lương chính thức trong nhưng ngày đó người lao động còn được hưởng thêm
một khoản bằng 100% lương cấp bậc của họ.
Các khoản phụ cấp áp dụng hiện nay rất đa dạng và được quy định cụ thể
cho đối tượng áp dụng. Nhìn chung chỉ có một số loại phụ cấp cụ thể được áp
dụng rộng rãi ở mọi nơi. Đó chính là phụ cấp làm đêm, thêm giờ:
Nếu người lao động làm phải làm đêm( từ 22h đến 6h) thì sẽ được phụ
cấp làm đêm. Phụ cấp làm đêm có hai mức: 30% lương cấp bậc( chức vụ) đối
với các công việc không phải làm đêm thường xuyên, 40% đối với nhưng người
chuyên làm việc theo ca chẳng hạn. Nhưng đây chỉ là chế độ đối với hình thức
lương thời gian. Đối với hình thức lương sản phẩm thì lương làm đêm căn cứ
vào số lượng, chất lượng của sản phẩm mà tính.
Trường hợp làm thêm giờ người lao động sẽ được nhận một khoản lương
ngoài mức lương cấp bậc bình thường. Mức lương thêm này là 50% lương giờ
tiêu chuẩn nếu làm thêm vào ngày lễ, ngày nghỉ.
+ Phụ cấp trách nhiệm: Khoản này được tính cho những người có trách
nhiệm trong doanh nghiệp là giám đốc, phó giám đốc.
+ Phụ cấp độc hại: Dùng trong các nghề có mức độc hại như các doanh
nghiệp trực thuộc công ty hoá chất… Mức phụ cấp là 0,1; 0,2; 0,3; 0,4 theo mức
tối thiểu.
3.3.3 Hình thức trả lương phụ:
Theo quy định của nhà nước thì hiện nay có 2 hình thức thưởng.
Thưởng thường xuyên: Là hình thức thưởng gắn liền với việc nâng cao
năng suất lao động. Xét về thực chất hình thức thưởng thường xuyên này nhằm
quán triệt hơn nữa hình thức phân phối lương theo lao động. Thưởng thường
xuyên gồm:

+ Thưởng tiết kiệm vật tư: Hình thức thưởng này nhằm khích người công
nhân tiết kiệm vật tư. Mức tiền thưởng tối đa không quá 50% số vật tư tiết kiệm
được.
+ thưởng do nâng cao chất lượng sản phẩm: Thể hiện ở việc nâng cao tỷ
trọng hàng hoá loại 1 và giảm tỷ lệ hàng hỏng. Các doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm có nhiều thứ bậc hay áp dụng và mức thưởng căn cứ vào giá trị chênh
lệch giữa sản phẩm loại cao so với tỷ lệ đã qui định.
+ Thưởng định kỳ: Là hình thức thưởng nhằm bổ sung thêm thu nhập cho
người lao động. Hình thức thưởng này căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh trong kỳ nên gắn người lao động với tập thể và doanh nghiệp mình.
Quỹ thưởng định kỳ được lấy từ quĩ khen thương của doanh nghiệp.
Thưởng định kỳ thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng áp dụng. Thông thường có
các hình thức:
+ Thưởng thi đua vào dịp cuối năm: Được thông qua việc xếp hạng
A,B,…căn cứ xếp hạng là thái độ, ý thức làm việc trong năm của mỗi lao động
và tiền thưởng của mỗi cá nhân là khác nhau doanh nghiệp quyết định thưởng
từng loại và hệ số khen thưởng giữa từng loại lại qui đổi số người các loại thành
một loại chung. Sau đó tách ra mức thưởng của từng người.
+ Thưởng sáng kién, thưởng chế tạo sản phẩ với mục đích phát huy tính
sáng tạo của người công nhân như sáng kiến sử dụng máy móc có hiệu quả tạo
sản phẩm hựp vứi nhu cầu thị trường …
+ Thưởng nhân dịp lễ, tết: Thưởng với mức thưởng như nhau cho mọi
người.
3.4 Quỹ tiền lương
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương của doanh nghiệp
trả cho tất cả các loại lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng, bao gồm
các khoản sau:
Tiền lương tính theo thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm, tiền lương
khoán
Tiền lương trả cho người lao động tạo ra sản phẩm hỏng trong phạm vi

chế độ qui định
Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do
nguyên nhân khách quan, trong thời gian được điều động đi công tác làm nghĩa
vụ theo chế độ qui định, thời gian nghỉ phép , thời gian đi học…
Các khoản phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ…
Các khoản tiền lương có tính chất thường xuyên.
Ngoài ra trong quỹ tiền lương kế hoạch còn được tính cả các khoản tiền
chi trợ cấp bảo hiểm xã hội cho công nhân viểntong thời gian ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động…
Về phương diện hạch toán, tiền lương công nhân viên trong doanh nghiệp
được chia làm 2 loại:
Tiền lương chính: Là tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian
công nhân viên thực hiện nhiệm vụ chính của họ bao gồm: Tiền lương phải trả
theo cấp bậc và các khoản phụ kèm theo như phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu
vực…
Tiền lương phụ: Là tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian
công nhân viên thực hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính của họ, và thời
gian công nhân viên nghỉ được hưởng lương theo qui định của chế độ như: Nghỉ
phép, nghỉ vì ngừng sản xuất.
Cách phân loại như trên có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán và
phân tích tiền lương trong giá thành sản phẩm.
Tiền lương chính của công nhân sản xuất gắn liền với quá trình sản xuất
và được hạch toán trực tiếp vào chi phí sản xuất từng loại sản phẩm, tiền lương
phụ của công nhân sản xuất không gắn liền với từng loại sản phẩm, nên được
hạch toán gián tiếp vào chi phí sản xuất sản phẩm.
3.5 Các hình thức của quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ
Ngoài tiền lương trả cho người lao động theo qui định hiện hành doanh
nghiệp phải tính vào chi phí sản xuất kinh doanh một bộ phận chi phí gồm các
khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Trong điều 1 và
điều 2 của điều lệ bảo hiểm xã hội ghi rõ “bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo vật

chất, góp phần làm ổn định đời sống cho những người tham gia bảo hiểm xã hội
tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
mất sức, nghỉ hưu, chết…”
3.5.1 Quỹ BHXH
Theo quy định hiện hành, hàng tháng doanh nghiệp trích lập quỹ bảo
hiểm xã hội theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương thực tế phải trả cho công
nhân viên hàng tháng và phân bổ cho các đối tượng liên quan sử dụng lao động.
Khoản trích này hình thành trên quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội
được thiết lập nhằm tạo ra nguồn vốn tài trợ cho người lao động trong trường
hợp ốm đau, thai sản, mất sức, nghỉ hưu… Tuỳ theo cơ chế tài chính quy định
cụ thể mà việc quản lý sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội có thể ở tại doanh nghiệp
hay cơ quan chuyên môn, chuyên trách. Theo cơ chế tài chính hiện hành, nguồn
quỹ như ốm đau, thai sản… Và tổng hợp chi tiêu để thanh toán với cơ quan
chuyên trách. Việc sử dụng chi tiêu quỹ bảo hiểm xã hội dù ở cấp nào quản lý
phải thực hiện theo chế độ quy định.

3.5.2. Quỹ BHYT
Bảo hiểm y tế tài trợ cho việc phòng, chữa và chăm sóc sức khoẻ cho
người lao động. Theo quy định của chế độ tài chính hiện hành được hình thành
từ hai nguồn: Một phần do doanh nghiệp phải gánh chịu, được tính trích vào chi
phí sản xuất kinh doanh hàng tháng theo tỷ lệ quy định. Tính trên tổng số tiền
lương thực tế trả cho công nhân viên trong kỳ. Một phần do người lao động
chịu, thường được trừ vào lương công nhân viên. Bảo hiểm y tế được nộp lên
cho cơ quan chuyên môn, chuyên trách( thường chủ yếu dưới hình thức mua
bảo hiểm y tế) để phục vụ, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho công nhân viên
như khám bệnh, chữa bệnh
3.5.3 Kinh phí công đoàn
Kinh phí công đoàn phục vụ chi tiêu cho hoạt động tổ chức của giới lao
động nhằm chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Kinh phí công đoàn
được hình thành do việc trích lập tính toán chi phí sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp hàng tháng theo tỷ lệ quy định tính trên tổng số tiền lương thực tế
được trả cho công nhân viên trong kỳ, số kinh phí công đoàn doanh nghiệp trích
được phân cấp quản lý và chi tiêu theo chế độ quy định. Một phần nộp cho hoạt
động công đoàn tại doanh nghiệp.
*Các khoản trích trên cùng vơí tiền lương phải trả cho người lao động hợp
thành loại chi phí về nhân công trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh quản lý
việc tính toán, trích lập và chi tiêu sử dụng các quỹ tiền lương, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn có ý nghĩa không những đối với việc đảm
bảo quyền lợi cho người lao động tại doanh nghiệp.
IV. Hạch toán tiền lương, tiền thưởng và thanh toán với người lao động.
1.Tính lương, tính thưởng cho người lao động.
Công việc tính lương, tính thưởng và các khoản khác phải trả cho người
lao động được được thực hiện tập trung tại phòng kế toán doanh nghiệp. Thời
gian để tính lương, tính thưởng và các khoản phải trả cho người lao động là
hàng ngày. Căn cứ để tính là các chứng từ theo dõi thời gian lao động, kêt quả
lao động và các chứng từ khác có liên quan( như giấy phép nghỉ, biên bản
ngừng việc…). Tất cả các chứng từ trên phải được kế toán kiểm tra trước khi
tính lương, tính thưởng và phải bảo đảm được các yêu cầu của chứng từ kế toán.
Sau khi đã kiểm tra các chứng từ, kế toán tiến hành tính lương tính
thưởng, tính trợ cấp phải trả cho người lao động theo hình thức trả lương, trả
thưởng đang áp dụng tại doanh nghiệp. Trên cơ sở các bảng thanh toán lương,
thưởng kế toán tiến hành phân loại tiền lương, tiền thưưỏng theo đối tượng sử
dụng lao động để tiến hành lập chứng từ phân bổ tiền lương , tiền cho chi phí
kinh doanh.
“Bảng thanh toán tiền lương” là chứng từ làm cơ số thanh toán tiền
lương, phụ cấp cho người lao động làm việc trong các đơn vị sản xuất kinh
doanh. “ Bảng thanh toán tiền lương” được lập cho từng bộ phận( phòng, ban,
tổ, nhóm…) tương ứng với “ bảng chấm công”. “Bảng thanh toán tiền lương”
co mẫu như sau: (mẫu số 02- TĐTL chế độ chứng từ kế toán).
Khi thanh toán tiền lương thương xuyên cho người lao động, kế toán

lập” bảng thanh toán tiền lương” dựa trên các chứng từ ban đầu như “ bảng
chấm công”, “ phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành”… và
phương án tính thưởng đã được người có thẩm quyền phê duyệt.
Trong các trương hợp thưởng đột xuất cho người lao động, kế toán
không lập “ bảng thanh toán cho người lao động”theo mẫu mà tự thiết kế
mẫu phù hợp với phương án tinh thưởng.
2. Hạch toán tổng hợp về tiền lương và tình hình thanh toán với người lao
động
Tài khoản để sử dụng hạch toán tổng hợp với tiền lương, tiền thưởng và
tình hình thanh toán với người lao động là tài khoản 334 “ phải trả người lao
động”. Nội dung của tài khoản này như sau:
Bên Nợ:
- Các khoản tiền lương, tiền thưởng, BHXH và các khoản khác đã trả, đã ứng
trước cho người lao động.
- Các khoản khấu trừ vào thu nhập của người lao đông.
Bên Có: các khoản tiền lương, tiền thưởng, BHXH và các khoản khác thực
tế phải trả cho người động.
Số dư bên Có: Các khoản tiền lương, tiền thưởngr còn phải trả cho
người lao động.
Trường hợp các biệt, TK 334 có thể có số dư bên Nợ phản ánh số tiền đã
trả quá số tiền phải trả cho người lao động .
TK 334phỉa hạch toán chi tiết theo 2 nội dung: thanh toán lương và thanh
toán các khoản khác.
TK 334 chi tiết thành 2 TK cấp 2:
TK3341 “ Phải trả công nhân viên”: Phản ánh các khoản phải trả và thanh
toán các khoản phải trả cho công nhân viên về tiền lương, BHXH và các khoản
phải trả khác thuộc về thu nhập của công nhân viên.
Bảng thanh toán tiền thưởng
Bộ phận…… Tháng…. năm …
đơn vị………. Nợ ……

Có……
STT

Họ và tên Bậc
lương
Mức thưởng Ghi chú
Xếp loại Số tiền Ký nhận

Kế toán thanh toán Ngày …tháng …năm
( ký, họ tên) kế toán trưởng
( ký, họ tên)

×