Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện quế võ, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.19 KB, 128 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM











TRẦN VĂN TUÂN







¬
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH





LUẬN VĂN THẠC SĨ













Hà Nội, năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM











TRẦN VĂN TUÂN






¬
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH




LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số : 60.34.04.10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. TÔ DŨNG TIẾN






Hà Nội, năm 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác.

Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm
2014
Tác giả luận văn


Trần Văn Tuân



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài: “Giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn trên địa bàn huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh’’, tôi nhận được sự hướng dẫn,
giúp đỡ động viên của nhiều cá nhân và tập thể. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc
tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn ban lãnh đạo và các thầy giáo, cô giáo khoa
Kinh tế và phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam và đặc biệt
là giáo sư, Tiến sỹ Tô Dũng Tiến đã nhiệt tình hướng dẫn chỉ bảo tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tại của mình.
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi còn nhận được sự giúp đỡ và cộng tác
của các cá nhân và tập thể: UBND huyện Quế Võ, phòng Nông nghiệp, phòng
lao động TB&XH, phòng công thương, phòng Tài nguyên – Môi trường,
phòng Thống Kê, Ủy ban dân số và trẻ em huyện và các hộ gia đình đã tạo
điều kiện cho tôi trong quá trình điều tra thu thập số liệu, cũng như nghiên
cứu thực hiện đề tài, tôi xin cảm ơn.

Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của bạn bè và gia đình đã giúp đỡ
tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó!
Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm
2014
Tác giả luận văn


Trần Văn Tuân


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH vii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT viii
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1 Mục tiêu chung 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 2
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 2

PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 4
2.1 Cơ sở lý luận 4
2.1.1. Lao động và việc làm 4
2.1.2 Đặc điểm lao động, việc làm ở nông thôn 14
2.1.3 Vai trò của lao động trong nông thôn Việt Nam 16
2.1.4 Sự cần thiết tạo việc làm cho lao động nông thôn 18
2.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm ở nông thôn 21
2.2 Cơ sở thực tiễn 26
2.2.1. Khái quát thực trạng lao động và việc làm nông thôn nước ta hiện nay 26
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page iv

2.2.2 Khái quát tình hình lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bắc Ninh trong
thời gian qua 27
2.2.2 Bài học kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số nước 30
PHẦN III. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 41
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 41
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên 41
3.1.2. Khí hậu và thời tiết 43
3.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện 43
3.2 Phương pháp nghiên cứu 51
3.2.1 Phương pháp thu thập thông tin 51
3.2.2 Các phương pháp phân tích chủ yếu 53
PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 54
4.1 Thực trạng việc làm của lao động nông thôn huyện Quế Võ trong
thời gian qua 54
4.1.1 Thực trạng phát triển dân số và lao động 54
4.1.2 Thực trạng việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn huyện Quế Võ 56
4.1.3 Chất lượng lao động nông thôn trên địa bàn huyện Quế Võ 58
4.1.4 Thực trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của người lao động nông thôn 60
4.1.5 Phân bố quỹ thời gian sử dụng lao động nông thôn ở huyện Quế Võ tỉnh

Bắc Ninh 62
4.2 Các giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động lao động
nông thôn trên địa bàn huyện trong thời gian qua 63
4.2.1 Phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản 63
4.2.2 Phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng
cơ bản. 71
4.2.3 Phát triển ngành dịch vụ 81
4.2.4 Tăng cường công tác xuất khẩu lao động 82
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page v

4.2.5 Đánh giá thực trạng việc làm của người lao động nông thôn ở huyện
Quế Võ tỉnh Bắc Ninh 86
4.3 Định hướng và một số giải pháp tạo việc làm cho lao động nông
thôn trên đại bàn huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh. 93
4.3.1 Quan điểm, định hướng, dự báo và mục tiêu giải quyết việc làm cho
người lao động trong vùng thu hồi đất 93
4.3.2 Những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm cho người lao động nông
thôn trên địa bàn huyện Quế Võ 98
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 111
5.1 Kết luận 111
5.2 Kiến nghị 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
PHỤ LỤC 115


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang


2.1 Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế 29
3.1 Tình hình nhân khẩu và lao động của huyện 46
3.2. Tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện 48
3.3 Kết quả sản xuất kinh doanh một số ngành của huyện 50
3.4 Tổng hợp số xã và cơ sở đào tạo nghề điều tra 52
4.1 Tổng hợp phát triển dân số và lao động 54
4.2 Quy mô, cơ cấu lao động phân theo khu vực 55
4.3 Tổng hợp thực trạng việc làm lao động nông thôn của huyện 57
4.4 Tình hình lao động nông thôn ở huyện Quế Võ chia theo trình độ
văn hóa 58
4.5 Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn 59
4.6 Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp của lao động nông thôn 61
4.7 Nhu cầu làm thêm của lao động nông thôn 61
4.8 Kết quả sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp huyện 66
4.9 Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chủ yếu ở huyện 67
4.10 Kết quả chăn nuôi của người lao động nông thôn huyện 68
4.11 Tổng hợp số doanh nghiệp và số lao động khu công nghiệp Quế Võ 72
4.12 Các doanh nghiệp tại cụm công nghiệp huyện 77
4.13 Kết quả xuất khẩu lao động của huyện 83
4.14 Kết quả giải quyết việc làm của huyện 89
4.15 Biến động về đất đai của Quế Võ đến năm 2020 94
4.16 Dự báo biến động về dân số và lao động 95

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page vii

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang
3.1 Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Ninh 42



DANH MỤC BIỂU ĐỒ

STT Tên biểu đồ Trang

4.1 Cơ cấu lực lượng lao động nông thôn huyện Quế Võ năm 2013 56
4.2 Giá trị sản xuất ngành dịch vụ của lao động nông thôn trên địa
bàn huyện 82


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page viii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
BQ Tốc độ phát triển bình quân
CC Cơ cấu
CNH - HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
CSHT Cơ sở hạ tầng
CN-TTCN&XD Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng
DV Dịch vụ
ĐH, CĐ, THCN Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp
ĐVT Đơn vị tính
GTSX Giá trị sản xuất
HTX Hợp tác xã
KCN Khu công nghiệp
ILO Tổ chức Lao động quốc tế
KD Kinh doanh
KTXH Kinh tế xã hội

LĐ Lao động
NN Nông nghiệp
PTNN Phát triển nông thôn
SXKD Sản xuất kinh doanh
SL Số lượng
SS So sánh
TMDV Thương mại dịch vụ
Tr.đ Triệu đồng
Tỷ.đ Tỷ đồng
HTX Hợp tác xã
UBND Ủy ban nhân dân
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 1

PHẦN I. MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đang trong quá trình tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Trên địa bàn cả nước có tới 75,06% dân số sống ở nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu lao động, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn là một trong những mục tiêu quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Trong những năm qua,
chuyển dịch cơ cấu lao động của huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh còn chậm so
với dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Lao động nông nghiệp tuy có giảm qua các
năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn, năm 2011 chiếm 53,8% trong tổng số lao
động, năm 2013 chiếm 48,8%. Lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ tăng nhanh trong giai đoạn 2010-2013. Lao động nông thôn vẫn chiếm tỷ
lệ cao trong tổng số lao động của huyện. Thời gian sử dụng lao động ở nông
thôn tuy có tăng trong những năm gần đây nhưng cũng chưa cao, năm 2013
đạt 83%.
Nông nghiệp là một thế mạnh của huyện nhưng sản xuất ở ngành này

mang tính chất thời vụ nên nhiều lao động ở ngành vẫn có nhiều thời gian
rảnh rỗi, bên cạnh đó quá trình đô thị hóa của huyện ngày càng phát triển và
mở rộng, nhiều cụm công nghiệp được xây dựng do vậy một phần diện tích
đất nông nghiệp phải chuyển đối mục đích, dẫn đến diện tích đất canh tác
ngày càng thu hẹp, trong khi đó dân số nông thôn ngày một tăng. Điều đó cho
thấy tình trạng thiếu việc làm cho người lao động nông thôn đang ngày càng
gia tăng. Thời gian sử dụng lao động chưa hợp lý, chưa phát huy được khả
năng của người lao động, vì vậy một trong những mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm 2015 “ giải quyết việc làm nâng cao
thu nhập, mức sống cho người lao động nông thôn ’’.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 2

Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần tìm hiểu và làm rõ thực trang
việc làm của người lao động nông thôn trên địa bàn huyện Quế Võ trong thời
gian qua, chỉ ra những thách thức, hạn chế cũng như khả năng tạo việc làm
cho người lao động trong thời gian tới. Xuất phát từ tình hình thực tế đó tôi
lựa chọn đề tài: “Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh’’ nhằm góp phần vào quá trình phát triển kinh
tế xã hội của huyện ngày càng hiệu quả theo mục tiêu đề ra.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn thực trạng lao động và việc làm tại nông
thôn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đề xuất định hướng và các giải pháp giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động tại địa bàn nghiên cứu.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản cơ sở lý luận và thực tiễn về việc
làm và giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông thôn.
- Phân tích rõ thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh cùng những nguyên
nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng đó.

- Đề xuất định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho lao động nông thôn trên địa
bàn huyện.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Tập trung phản ánh cơ sở lý luận và thực tiễn thực
trạng và giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 3

- Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên địa bàn
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm và
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện những năm
trước đây và đặc biệt thời kỳ từ năm 2011- 2013. Định hướng và các giải
pháp đề xuất cho thời kỳ đến năm 2020.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 4

PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1. Lao động và việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình kinh tế, xã
hội và nhân khẩu. Có nhiều quan niệm khác nhau về việc làm.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập
đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân
làm hai loại: Có trả công (những người làm thuê, học việc …) và không được
trả công nhưng vẫn có thu nhập (những người như giới chủ làm kinh tế gia

đình …). Vì vậy, “việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong
đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực, có
tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất”. Theo khái niệm này, người
có việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được thanh
toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất
tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được nhận tiền
công hay hiện vật). Khái niệm này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc
tế lần thứ 13 của Tổ chức lao động thế giới ILO.1993) và đã được áp dụng ở
nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất rộng, bao trùm mọi
hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan niệm
trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt động
mang tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là những
hoạt động lao động của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi phạm
đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin,
mại dâm,… ở các nước như Hà Lan, Côlômbia thì không cấm, nhưng những
hoạt động này bị cấm ở những nước khác, đặc biệt ở các nước châu Á như:
Việt Nam, Trung Quốc,… Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là
cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 5

Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải
quyết việc làm, trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ
đến việc sử dụng đãi ngộ đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp
lệnh. Trong giai đoạn này, những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư
thừa, việc làm không đầy đủ… hầu như không được biết đến. Còn khái niệm
“thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào,
trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh hóa được coi là một điều tất
yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào
khu vực quốc doanh, đối với mỗi công dân là vào đội ngũ viên chức nhà
nước. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân

trọng là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực
Nhà nước và kinh tế tập thể.
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm
được hiểu là hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm tạo thu nhập
hoặc tạo ra điều kiện cho các thành viên trong hộ gia đình có thêm thu
nhập. Điều này cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích của Nhà nước
ta, được quy định trong Điều 13 của Bộ Luật Lao động: “Mọi hoạt động lao
động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa
nhận là việc làm”
Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hóa,
có thể hiểu dưới ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc
bằng hiện vật
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân.
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù
lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 6

Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn
hai tiêu thức:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ ra tính hữu ích và nhấn
mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ ra tính
pháp lý của việc làm, quan niệm đó rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ chức
ILO. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, hành nghề và hoàn toàn
phù hợp với sự phát triển thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được
đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên kết kinh doanh, tự

do tìm kiếm việc làm, tư do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của pháp
luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực ngoài nhà
nước và các khu vực phi chính thức.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ
để một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động
tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma túy, mại
dâm,… thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp
pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là
việc làm.
Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đã có sự chuyển biến căn bản.
Nếu như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo
việc làm và bố trí việc làm cho người lao động thì nay đã chuyển sang quan
niệm tạo việc làm là trách nhiệm của nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của
chính bản thân người lao động. Sự thay đổi quan niệm về việc làm của Nhà
nước phù hợp với nền kinh tế thị trường, coi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, có vai trò
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 7

quan trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát
triển thị trường lao động ở nước ta.
Quan niệm về việc làm nêu trên đã mang tính khái quát cao, tuy nhiên
vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động
lao động được thừa nhận là việc làm tùy thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia
và mỗi thời kỳ. Có hoạt động là việc làm ở nước này nhưng lại không được
thừa nhận là việc làm ở nước khác.
Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và
xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình
thay vì thuê người làm công.
Theo giáo trình Kinh tế Lao động của khoa Kinh tế Lao động và Dân số

- Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu “là
phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần
thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,… ) để sử dụng sức lao động đó”
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí
ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu … và chi phí
về sức lao động (V). Quan hệ tỷ lệ biểu diễn sự kết hợp giữa sức lao động với
trình độ công nghệ sản xuất. Khi công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng
thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng
nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công, một đơn vị
chi phí ban đầu về tư liệu sản xuất, vốn có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức
lao động. Còn trong điều kiện tự động hóa, sản xuất theo dây truyền hiện đại
thì chi phí về vốn, thiết bị, công nghệ rất cao, nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động
với tỷ lệ thấp. Do đó, tùy từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù
hợp để có thể tạo việc làm cho người lao động.
Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành
tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỷ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 8

lệ giữa C và V thường xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau.
- Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có ý nghĩa là mọi
người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ
xem xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động có nghĩa là việc làm
đầy đủ. Trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử dung
triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái niệm
việc làm hợp lý.
- Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến
thiếu nguồn nhân lực tức thiếu việc làm và thất nghiệp.
Từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái niệm: việc làm là
phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều
kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao

động đó. Trên cơ sở này sẽ hình thành các dạng việc làm cũng như phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến hỗ trợ giải quyết việc làm. (Lưu Bình
Nhưỡng,2001).
2.1.1.1. Thất nghiệp.
Theo quan niệm của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO), thất nghiệp là
người không có việc làm, có khả năng làm việc và có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
Những người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có sức lao động
chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội (BLĐTB-XH), cũng quy đinh:
“Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động, có nhu cầu tìm kiếm việc làm nhưng không có việc làm”.
Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số người thất nghiệp và
tổng nguồn nhân lực. Thất nghiệp có thể được chia ra làm một số loại chính sau:

- Thất nghiệp tạm thời: là thất nghiệp xảy ra khi một số người lao động
đang trong thời kỳ tìm kiếm việc làm hoặc chờ làm ở nơi có việc làm tốt hơn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 9

- Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối cung
cầu giữa các loại lao động, giữa các ngành nghề trong khu vực.
- Thất nghiệp do thiếu cầu: là thất nghiệp xảy ra khi mức cầu chung về
lao động giảm xuống, ngồn gốc chính là do sự suy giảm tổng cầu.
- Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: là loại thất nghiệp theo lý
thuyết cổ điển, xảy ra khi tiền lương được xác định không bởi các lực lượng
thị trường và cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động.
Thất nghiệp cũng có thể chia thành thất nghiệp tự nguyện và thất
nghiệp không tự nguyện:
- Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp trong đó những người lao
động không quan tâm đến một số nghề mặc dù họ có đủ điều kiện để làm vì
họ có một phần vốn từ bên ngoài.

- Thất nghiệp không tự nguyện là loại thất nghiệp trong đó những
người lao động muốn làm bất kỳ một công việc nào đó mà họ không quan tâm
đến mức lương nhưng họ không tìm được việc làm.
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế tất yếu, song duy trì ở mức độ nào
cho hợp lý còn tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia và khả năng
quản lý nền kinh tế của Chính phủ. Tỷ lệ thất nghiệp thấp đồng nghĩa với lực
lượng lao động trong nền kinh tế được tăng cường và tỷ lệ lạm phát cao.
Ngược lại, tỷ lệ thấp nghiệp cao đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát thấp cũng tạo
ra những vấn đề xã hội bức xúc về việc làm, về tệ nạn xã hội, Vì vậy, duy trì
một tỷ lệ thất nghiệp hợp lý ở mức thất nghiệp tự nhiên (tỷ lệ thất nghiệp mà
ở đó ai có nhu cầu làm việc đều có thể kiếm được việc làm) là điều lý tưởng.
Thất nghiệp trong trường hợp mất đất do chuyển đổi mục đích sử dụng
thuộc loại thất nghiệp tạm thời, bởi việc làm của người lao động nông thôn
luôn gắn liền với đất đai. Khi tư liệu sản xuất chính bị mất, một bộ phận lao
động nông nghiệp được chuyển sang lao động công nghiệp. Một bộ phận còn
lại, không đáp ứng được yêu cầu của khu công nghiệp đã tạm thời mất việc.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 10

2.1.1.2. Thiếu việc làm.
Người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ tính đến thời
điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc
nhỏ hơn số giờ quy định đối với nhừng người làm công việc nặng nhọc,
độc hại theo quy định hiện hành của Nhà nước, có nhu cầu làm thêm giờ và
đã sẵn sàng làm việc nhưng không có việc để làm ( trừ những người có giờ
làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng
không tìm được việc).
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì người thiếu việc làm là những
người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn
cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm. Từ các quan niệm trên có
thể thấy người thiếu việc làm là những người trong độ tuổi lao động đang có

việc làm nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn cho người có đủ việc làm
và mang lại thu nhập thấp hơn mức chuẩn mức nghèo đói quy định tại thời
điểm công bố. (Lưu Bình Nhưỡng,2001).
2.1.1.3.Tạo việc làm, việc làm mới
* Tạo việc làm
Tạo việc làm cho người lao động là phát huy, sử dụng tiềm năng sẵn có
của từng đơn vị, từng địa phương và của người lao động nhằm tạo ra những
công việc hợp lý, ổn định cho người lao động những công việc đó phải đem
lại thu nhập đảm bảo thoã mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần cho bản thân
người lao động và gia đình họ; phù hợp với đặc điểm tâm lý và trình độ
chuyên môn nghề nghiệp của bản thân người lao động.
Có thể hiểu tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào
làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo
ra hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường.
Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình
người lao động làm việc. Người lao động làm việc không chỉ tạo ra thu nhập
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 11

cho riêng họ mà còn tạo ra của cải, vật chất, tinh thần cho xã hội. Vì vậy, tạo
việc làm không chỉ là nhu cầu chủ quan của người lao động mà còn là yếu tố
khách quan của xã hội.
Việc hình thành việc làm thường là sự tác động giữa ba yếu tố:
- Nhu cầu thị trường
- Điều kiện cần thiết để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ:
+ Người lao động
+ Công cụ sản xuất
+ Đối tượng lao động
- Môi trường xã hội: xét cả góc độ kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội.
Người ta có thể mô hình hóa quy mô tạo việc làm theo phương trình sau:
Y = f ( C,V,X…)

Trong đó: Y: Số lượng việc làm được tạo ra
C: Vốn đầu tư
V: Sức lao động
X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Trong đó, quan trọng nhất là yếu tố đầu tư(C) và sức lao động(V) hai yếu
tố này hợp thành năng lực sản xuất. Mối quan hệ giữa C và V phụ thuộc vào
tình trạng công nghệ và tồn tại dưới dạng khả năng. Đó là những điều kiện
kinh tế, xã hội, thông qua hệ thống các chính sách của Nhà nước như chính
sách thu hút người lao động, chính sách vay vốn…
* Việc làm mới
Việc làm mới cũng là những việc làm được pháp luật cho phép, đem lại
thu nhập cho người lao động, nó được tạo ra theo nhu cầu của thị trường để
sản xuất và cung ứng một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó cho xã hội. Sự xuất
hiện của những việc làm mới là một yếu tố khách quan do hàng năm lực
lượng lao động được bổ sung thêm cùng với tiến trình phát triển của dân số.
Khái niệm việc làm thường gắn với chỗ làm việc bởi vì mỗi công việc cụ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 12

thể phải có môi trường làm việc nhất định. Như thế việc làm tạo ra những chỗ
làm việc mới cũng hàm ý với việc tạo ra việc làm mới. Việc làm mới bao gồm
những công việc đòi hỏi kỹ năng và những việc làm được tạo thêm cho người
lao động. Đối với những công việc mới này cần phải có sự thay đổi kỹ năng
lao động thông qua đào tạo, còn đối với những việc làm được tạo thêm đồng
nghĩa với với việc tạo thêm những chỗ làm việc mà không yêu cầu phải thay
đổi kỹ năng của người lao động.
Như vây, việc làm mới là phạm trù nói lên sự tăng lượng cầu về lao
động, nó được thể hiện dưới hai dạng: Những việc làm đòi hỏi kỹ năng lao
động mới và những chỗ làm việc mới được tạo thêm, song không đòi hỏi sự
thay đổi về kỹ năng của người lao động.
Việc làm mới được tạo ra bằng nhiều cách: Tăng chi tiêu của Chính phủ

cho các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, giảm thuế để khuyến khích
phát triển sản xuất từ đó tạo việc làm mới. Đối với người lao động, để tham
gia được những việc làm mới phải không ngừng đào tạo nâng cao trình độ lao
động của mình.
2.1.1.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động
- Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi qua thời gian về tỷ trọng
của từng bộ phận trong tổng số lao động theo một không gian, thời gian nào
đó và diễn ra theo một xu hướng nào đó (tăng lên, giảm đi…).
- Như vậy, chuyển dịch cơ cấu lao động là một khái niệm trong một
không gian và thời gian nhất định, làm thay đổi số lượng và chất lượng lao
động. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình tổ chức và phân
công lại lực lượng lao động qua đó làm thay đổi quan hệ tỷ trọng giữa các bộ
phận của tổng thể.
- Do đặc điểm của nguồn lao động ở Việt Nam, nên chuyển dịch cơ cấu
lao động ở nước ta chủ yếu theo hướng chuyển lao động nông nghiệp, nông
thôn sang lao động công nghiệp, dịch vụ ở các thành thị và khu công nghiệp
cũng như ở ngay tại khu vực nông thôn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 13

- Có thể xảy ra các dạng sau:
+ Nếu theo mức độ tích tụ, tập trung của các nguồn lực, thì trước tiên,
chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ diễn ra từ chỗ lấy việc tập trung lao động làm
chính, chuyển sang chủ yếu lấy việc tập trung vốn làm yếu tố kích thích sản
xuất, rồi sau đó tiếp tục chuyển sang một giai đoạn mới cao hơn là lấy việc
tập trung kỹ thuật làm nội dung cơ bản để chuyển dịch lao động.
+ Nếu theo khả năng tiếp nhận thành quả của cách mạng khoa học kỹ
thuật thì chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra trước tiên từ chỗ lấy khả năng
giải quyết việc làm cho lao động là chính, sang giai đoạn lấy việc nâng cao
trình độ nhận thức và kỹ năng làm việc cho lao động làm mục tiêu cơ bản.
+ Nếu theo mức độ gia tăng của giá trị đầu ra, chuyển dịch cơ cấu lao

động sẽ diễn ra từ chỗ ban đầu có giá trị đầu ra thấp đến các giai đoạn sau có
giá trị đầu ra cao.
+ Nếu căn cứ vào không gian di chuyển của lao động thì chuyển dịch
cơ cấu lao động có thể diễn ra theo hai phương thức:
Một là: chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, đây là sự chuyển dịch của
lao động nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác ngay trong địa bàn nông
thôn. Đặc điểm cơ bản của sự dịch chuyển này là không có sự di chuyển nơi
sinh sống, nên không làm thay đổi cơ cấu, cũng như mật độ dân cư sinh sống
ở nông thôn, nhưng cơ cấu lao động ở đây lại có sự thay đổi rõ rệt. Đây chính
là phương thức chuyển dịch cơ cấu lao động tích cực nhất, đảm bảo được mục
tiêu “Ly nông bất ly hương'' mà nhiều quốc gia đang phát triển đã đặt ra.
Hai là: chuyển dịch cơ cấu lao động kèm theo sự di cư, đây là sự chuyển dịch
lao động về mặt không gian. Hậu quả là tạo ra các dòng di chuyển dân cư và
lao động từ nông thôn ra thành thị, nông thôn - nông thôn, từ vùng này, nơi
này qua vùng khác, nơi khác hoặc từ quốc gia này sang quốc gia khác. Đặc
điểm của sự dịch chuyển này là sẽ làm giảm quy mô cũng như cơ cấu của
nguồn lao động nơi ra đi, nhưng lại làm tăng quy mô cũng như cơ cấu của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 14

nguồn lao động nơi đến. Để lý giải cho quá trình chuyển dịch phức tạp này,
các nhà kinh tế đã đưa ra lý thuyết về ''lực hút và lực đẩy”, đối với lao động.
Theo lý thuyết trên, một trong những yếu tố cơ bản tạo ra lực hút đối với lao
động nơi ra đi chính là do mức thu nhập dự kiến ở khu vực họ sẽ chuyển đến.
Vì vậy, để giảm bớt áp lực về đời sống, việc làm do hậu quả của việc di dân
và lao động gây ra, cần phải có các giải pháp tích cực để xoá bỏ sự chênh lệch
về thu nhập và mức sống giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng và trong nội
bộ vùng; từng bước làm giảm và đi đến triệt tiêu được những lực hút và lực
đẩy tiêu cực nói trên đối với lao động nông nghiệp, nông thôn. (Chuyển dịch
cơ cấu lao động trong xu hướng hội nhập quốc tế(2006), Nxb Lao động xã
hội, Hà Nội).

2.1.2 Đặc điểm lao động, việc làm ở nông thôn
Khu vực nông thôn của nhiều nước đang phát triển trên thế giới nói
chung và của nước ta nói riêng có đặc điểm chung là dân số tăng nhanh, cấu
trúc dân số trẻ dẫn đến nguồn lao động tăng hàng năm với tốc độ cao. Vì vậy,
khả năng tạo việc làm của nền kinh tế luôn thấp hơn nhu cầu việc làm của dân
số. Trong khi công nghiệp và ngành nghề ở các địa phương chỉ thu hút thêm
được một số lượng không nhiều.
Sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực tạo việc làm truyền thống và thu hút
nhiều lao động của cư dân nông thôn, nhưng bị giới hạn bởi diện tích đất canh
tác vốn rất hạn hẹp và có xu hướng giảm dần do quá trình đô thị hóa và công
nghiệp hóa đang phát triển mạnh ở các nước. Điều đó đã hạn chế rất lớn đến
khả năng giải quyết việc làm ở nông thôn. Trong giai đoạn bắt đầu phát triển,
tình hình khan hiếm đất canh tác nông nghiệp tất yếu gây nên tình trạng thiếu
việc làm cho lao động ở nông thôn, vì đại bộ phận lao động nông thôn làm
nông nghiệp. Nếu tình trạng dân số còn gia tăng, thị sự khan hiếm đất nông
nghiệp càng trầm trọng thêm, đưa đến hậu quả ngày càng thiếu việc làm cho
lao động nông nghiệp nếu lực lượng này không được chuyển dần sang khu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế Page 15

vực sản xuất khác.
Sản xuất nông nghiệp luôn chịu sự tác động và chi phối mạnh mẽ của
các quy luật và các điều kiện tự nhiên: đất đai, thời tiết, khí hậu, sinh
vật…quá trình sản xuất mang tính thời vụ cao, thu hút lao động không đồng
đều, chỉ tập trung chủ yếu vào thời vụ gieo trồng và thu hoạch, thời gian còn
lại là rỗi rãi.
Trong thời kỳ nông nhàn, một bộ phận lao động nông thôn thường
chuyển sang làm các công việc phi nông nghiệp hoặc đi sang các địa phương
khác hành nghề tăng thu nhập. Tình trạng lao động nông nhàn cùng với thu
nhập thấp trong sản xuất nông nghiệp là nguyên nhân đầu tiên gây nên hiện
tượng di chuyển lao động trong nông nghiệp mang tình thời vụ để tìm kiếm

thêm thu nhập. Trong điều kiện có sự gia tăng tình trạng thiếu việc làm, thì
lao động nông nhàn càng di chuyển từ vùng này đến vùng khác, từ nông thôn
ra thành thị, tạm thời hoặc lâu dài.
Trong sản xuất nông nghiệp luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó từ
đất đai đến cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như giao thông, thủy lợi và các
hoạt động dịch vụ sản xuất như cung ứng giống, phân bón, phòng trừ sâu
bệnh, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho nên lao động nông
nghiệp có tính cộng động chặt chẽ.
Tổ chức sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ luôn
bắt nguồn từ lao động của kinh tế hộ gia đình, các thành viên trong gia đình
trong quá trình lao động sản xuất có thể chuyển đổi thay thế thực hiện công
việc của nhau. Việc chú trọng thúc đẩy phát triển kinh tế hộ gia đình là một
trong những biện pháp tạo việc làm có hiệu quả.
Trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn một số nghề thủ công
mỹ nghệ được lưu truyền từ đời này qua đời khác trong từng gia đình, từng dòng
họ, từng làng xã, dần dần hình thành nên những làng nghề truyền thống tạo ra
những sản phẩm hàng hóa tiêu dùng độc đáo vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị

×