Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đánh giá thực trạng và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện phù cừ tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 105 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





DOÃN MẠNH ĐÔNG



ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
QUY HOẠCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÙ CỪ - TỈNH HƯNG YÊN



CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ: 60.85.01.03



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ THỊ BÌNH



HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ
một học vị nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả luận văn


Doãn Mạnh Đông






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn trực tiếp và quý báu của cô giáo
PGS.TS. Vũ Thị Bình, cùng các thầy cô giáo trong Khoa Quản lý đất đai, Viện
Đào tạo Sau Đại học - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi thực hiện và hoàn thành luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo và cán bộ Ủy ban nhân dân huyện Phù
Cừ, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Thống kê, Ủy ban nhân dân các xã,
thị trấn thuộc huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo cơ quan và bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn.

Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả luận văn


Doãn Mạnh Đông
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ viii
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục đích - yêu cầu của đề tài 2
2.1 Mục đích của đề tài 2
2.2 Yêu cầu của đề tài 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1 Cơ sở lý luận về quy hoạch nông thôn mới 3

1.1.1 Một số khái niệm cơ bản 3
1.1.2 Mối liên hệ giữa phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới và
chương trình nông thôn mới 7
1.2 Tình hình quy hoạch phát triển nông thôn trên thế giới 9
1.2.1 Nhật Bản: Con đường hiện đại hóa nông nghiệp theo mô hình tiết kiệm
đất đai 9
1.2.2 Trung Quốc: Chính sách ly lương bất ly nông 10
1.2.3 Thái Lan: Tăng cường vai trò của cá nhân và các tổ chức trong phát triển
nông nghiệp toàn diện 11
1.2.4 Hàn Quốc: Phong trào Làng mới 13
1.3 Tình hình quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam và ở tỉnh
Hưng Yên 16
1.3.1 Tình hình quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam 16
1.3.2 Tình hình quy hoạch xây dựng nông thôn mới tỉnh Hưng Yên 23
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 26
2.2 Nội dung nghiên cứu 26
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

2.2.1 Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Phù Cừ 26
2.2.2 Thực trạng phát triển nông thôn huyện Phù Cừ 26
2.2.3 Đánh giá các tiêu chí nông thôn mới trên địa bàn huyện Phù Cừ so với bộ
tiêu chí nông thôn mới của tỉnh và bộ tiêu chí nông thôn mới của Việt
Nam 26
2.2.4 Đánh giá tình hình tổ chức thực hiện đồ án Quy hoạch xây dựng nông
thôn mới xã Đình Cao - huyện Phù Cừ 27
2.2.5 Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quy hoạch xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn huyện 27
2.3 Phương pháp nghiên cứu 27

2.3.1 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu, tài liệu 27
2.3.2 Phương pháp so sánh 28
2.3.3 Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu 28
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 29
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Phù Cừ 29
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 29
3.1.2 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 34
3.1.3 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện 37
3.2 Thực trạng phát triển nông thôn huyện Phù Cừ 39
3.2.1 Thực trạng phát triển nông thôn 39
3.2.2 Tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới 44
3.3 Đánh giá các tiêu chí nông thôn mới theo Bộ tiêu chí quốc gia được thực
hiện trên địa bàn huyện Phù Cừ 52
3.3.1 Nhóm tiêu chí về quy hoạch 52
3.3.2 Nhóm tiêu chí về hạ tầng - kinh tế - xã hội 52
3.3.3 Nhóm tiêu chí về kinh tế và tổ chức sản xuất 53
3.3.4 Nhóm tiêu chí về văn hoá - xã hội - môi trường 54
3.3.5 Nhóm tiêu chí về hệ thống chính trị 55
3.4 Đánh giá tình hình tổ chức thực hiện đồ án Quy hoạch xây dựng nông
thôn mới xã Đình Cao - huyện Phù Cừ 55
3.4.1 Tóm tắt phương án quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Đình Cao -
huyện Phù Cừ - tỉnh Hưng Yên đến năm 2020 55
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.4.2 Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới xã Đình
Cao 63
3.4.3 Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quy hoạch xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn huyện 74
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 76

1 Kết luận 76
2 Kiến nghị 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
PHỤ LỤC 80
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
CNH
-
HĐH

Công nghi
ệp hóa


hi
ện đại hóa

CSHT

Cơ s
ở hạ tầng

CTMTQG Chương trình mục tiêu Quốc gia
GTNT Giao thông nông thôn
GTSX


Giá tr
ị sản xuất

HĐND

H
ội đồng nhân dân

HTX Hợp tác xã
MTQG

M
ục ti
êu qu
ốc gia

NSTW

Ngân sách Trung ương

NTM Nông thôn mới
NTTS

Nuôi tr
ồng thủy sản

PTNT

Phát tri
ển nông thôn


QCVN Quy chuẩn Việt Nam
QCXDVN Quy chuẩn xây dựng Việt Nam
SU

Phong trào Làng m
ới

c
ủa H
àn Qu
ốc l
àng (Saemaul)

TCVN

Tiêu chu
ẩn Việt Nam

TCXDVN Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam
THPT

Trung h
ọc phổ thông

THSC

Trung h
ọc c
ơ s



TMDV Thương mại dịch vụ
TTCN

Ti
ểu thủ công nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

VSMTNT Vệ sinh môi trường nông thôn
XD Xây dựng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

3.1 Dân số, mật độ dân số phân theo đơn vị hành chính của xã 36
3.2 Kết quả thực hiện 19 tiêu chí theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới
của 13 xã 51
3.3 Quy hoạch sử dụng đất xã Đình Cao, huyện Phù Cừ đến năm 2020 56
3.4 Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp xã Đình Cao 56
3.5 Quy hoạch hệ thống trạm biến áp xã Đình Cao 61
3.6 Quy hoạch nghĩa trang, nghĩa địa xã Đình Cao 63
3.7 Kết quả thực hiện phương án Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2014 xã
Đình Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên 66

3.8 Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp xã Đình Cao 67
3.9 Kết quả thực hiện tiêu chí Giao thông năm 2014 69
3.10 Kết quả thực hiện tiêu chí Thuỷ lợi năm 2014 71




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ

Hình 1: Sơ đồ vị trí huyện Phù Cừ 29
Biểu đồ 1: Cơ cấu kinh tế huyện Phù Cừ năm 2014 35
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, Nước ta đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ trong
lịch sử. Đời sống người dân được nâng cao, các dịch vụ xã hội được cải thiện.
Tuy nhiên, tốc độ đô thị hoá nhanh tạo ra sự bất bình đẳng và chênh lệch về giàu
nghèo, mức sống, thu nhập lớn giữa khu vực nông thôn và thành thị. Khu vực
nông thôn đang chịu nhiều thiệt thòi, hệ thống hạ tầng cơ sở thiếu đồng bộ, ô
nhiễm môi trường, đời sống vẫn còn nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, để thúc
đẩy sự phát triển kinh tế bền vững và giải quyết những bất cập mà khu vực nông
thôn đang gặp, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách về đầu
tư phát triển cho khu vực nông thôn. Để vấn đề đầu tư được hiệu quả cao thì
công tác quy hoạch cho khu vực nông thôn phải đi trước một bước.

Xây dựng nông thôn mới là chương trình mục tiêu quốc gia chiếm vị trí
hết sức quan trọng. Thực hiện Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 02/02/2010 và
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/06/2010 của Thủ tướng Chính Phủ. Bộ tài
nguyên môi trường, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có văn bản hướng
dẫn các địa phương triển khai công tác lập quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
Theo đó, quy hoạch xây dựng nông thôn mới phải gắn với đặc trưng vùng miền
và các lợi thế của từng địa phương là nhằm đáp ứng sự phát triển theo các tiêu
chí nông thôn mới do Chính phủ ban hành tại Quyết định số 491/QĐ – TTg ngày
16/4/2009.
Huyện Phù Cừ là huyện nằm ở cực Đông của tỉnh Hưng Yên, thuộc vùng
đồng bằng Bắc Bộ, gồm 1 thị trấn và 13 xã. Trong những năm qua huyện Phù Cừ
đã có bước chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là việc xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn như: Điện, đường, trường, trạm, Vấn đề
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn của huyện đang tạo ra một bộ mặt
mới theo hướng rất tích cực.
Tuy nhiên, đời sống nhân dân của huyện vẫn còn gặp nhiều khó khăn: giá
trị tăng thêm bình quân đầu người chưa cao, VSMTNT còn chưa được quan tâm,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

thu ngân sách trên địa bàn còn rất hạn chế, đặc biệt trên địa bàn thường chịu ảnh
hưởng bởi lũ lụt, hạn hán và mưa bão.
Vì vậy, đánh giá kết quả công tác tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện là rất cần thiết nhằm tìm ra những vấn đề tồn tại của
chương trình xây dựng nông thôn trên địa bàn huyện và tìm ra những giải pháp
giải quyết kịp thời những tồn tại đó, góp phần thực hiện thành công chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Phù Cừ.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá
thực trạng và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn huyện Phù Cừ – tỉnh Hưng Yên”.

2. Mục đích - yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích của đề tài
- Đánh giá thực trạng công tác phát triển nông thôn huyện Phù Cừ thời
gian qua nhằm khẳng định những thành tựu của địa phương đồng thời tìm ra
những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển nông thôn của huyện.
- Đánh giá công tác tổ chức thực hiện Quy hoạch xây dựng nông thôn mới
xã Đình Cao nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch và góp phần nâng cao
đời sống vật chất tinh thần cho người dân, đồng thời cũng làm điều kiện tham
khảo cho các xã có điều kiện tương tự.
2.2. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá đầy đủ các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, thực trạng phát
triển nông thôn và đưa ra định hướng phát triển về không gian, mạng lưới điểm
dân cư, về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo các tiêu chí của quy hoạch xây
dựng nông thôn mới.
- Các số liệu, tài liệu điều tra phải đảm bảo tính trung thực, chính xác,
phản ánh đúng hiện trạng.
- Tuân thủ các văn bản pháp quy hiện hành về quy hoạch xây dựng;
- Tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan về bảo vệ các công trình kỹ
thuật, công trình quốc phòng, di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh và
bảo vệ môi trường.
- Phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và các quy
hoạch ngành của huyện, xã đã được phê duyệt.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về quy hoạch nông thôn mới
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Nông thôn
Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa có định nghĩa chuẩn xác về nông thôn, có

rất nhiều định nghĩa khác nhau.
Khi định nghĩa về nông thôn người ta thường so sánh nông thôn với đô
thị. Có ý kiến cho rằng, khi xem xét nông thôn dùng chỉ tiêu mật độ dân số, số
lượng dân cư: ở nông thôn thấp hơn so với thành thị. Có ý kiến dùng chỉ tiêu
trình độ cơ cấu hạ tầng để phân biệt nông thôn với thành thị.
Quan điểm khác cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường,
phát triển hàng hoá để xác định vùng nông thôn (nông thôn thấp hơn).
Lại có quan điểm cho rằng, vùng nông thôn là vùng mà dân cư ở đây làm
nông nghiệp là chủ yếu.
Như vậy có thể thấy rằng, khái niệm về nông thôn chỉ mang tính chất
tương đối, thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của
các quốc gia trên thế giới. Khái niệm nông thôn bao gồm nhiều mặt có quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Có thể hiểu: “Nông thôn là vùng khác với vùng đô thị là ở đó có một cộng
đồng chủ yếu là nông dân làm nghề chính là nông nghiệp, có mật độ dân cư thấp
hơn, có cơ cấu hạ tầng kém phát triển hơn, có mức độ phúc lợi xã hội thua kém
hơn, có trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hoá thấp
hơn ” (Vũ Thị Bình, 2006).
1.1.1.2. Phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn (PTNT) nhìn chung được diễn tả bao gồm các hành
động và sáng kiến được thực hiện để cải thiện mức sống khu vực ngoài đô thị,
nông thôn, và các làng bản xa xôi. Những cộng đồng này có thể được nhận diện
bởi mật độ dân số thấp, người dân sống trong các vùng không gian mở
Như vậy, PTNT là hệ thống đảm bảo sự phát triển tổng hợp kinh tế, xã
hội, văn hóa và bảo vệ môi trường tại khu vực nông thôn nhằm vào việc cải thiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

mức sống, cả tinh thần và vật chất của dân cư nông thôn. Tùy theo góc độ xem
xét, PTNT có thể được diễn giải theo những cách khác nhau. Góc độ xem xét và

diễn giải nội dung PTNT tương ứng đồng thời phục vụ triển khai thực hiện PTNT
theo các cách, mục tiêu khác nhau.
Theo lĩnh vực phát triển, PTNT bao gồm các lĩnh vực phát triển được xem
xét riêng biệt, mặc dù trong thực tế, các lĩnh vực đó có mối liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau. Các lĩnh vực đó bao gồm: Quản lý các nguồn tài nguyên (tự nhiên -
đất đai, nguồn nước, thảm thực vật, con người, tổ chức, ); Phát triển kinh tế
(nông nghiệp, phi nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất
hàng hóa, chế biến, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển thị trường, ); Nghiên
cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật (giống cây trồng, vật nuôi, chế
biến, bảo quản, quản lý, ); Phát triển cơ sở hạ tầng (hệ thống đường giao thông,
hệ thống công trình thủy lợi, hệ thống điện, ); Văn hóa - xã hội (giáo dục, y tế,
mức độ nghèo đói, ); Chính sách (đất đai, tín dụng, đầu tư, ); Phòng chống
giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai,
Theo phạm vi lãnh thổ, PTNT có thể được xem xét bao gồm PTNT cho cả
nước, theo vùng, tỉnh, huyện, xã và cả thôn ấp. Nó còn có thể được xem xét dưới
góc độ quản lý hành chính Nhà nước, có cấp trung ương và cấp địa phương, khi
đó cấp địa phương có thể bao gồm các cấp khác nhau theo chiều từ trên xuống là
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và cuối cùng là thôn ấp. Tham gia thực hiện và hỗ trợ
PTNT, bên cạnh đó, có thể là hệ thống không chính thức gồm các tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau tại khu vực nông thôn.
Theo cách tiếp cận cơ chế quản lý, PTNT có thể quy định chức năng,
nhiệm vụ và vai trò của các bên liên quan khác nhau trong thực hiện PTNT. Điều
này có thể thấy được khi chức năng, nhiệm vụ và vai trò của các bên liên quan
thay đổi rất lớn, thậm chí là đảo chiều khi có sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập
trung trước kia sang cơ chế thị trường hiện nay. Từ vai trò gần như tuyệt đối của
kinh tế tập thể, kinh tế HTX trước kia chuyển sang vai trò quan trọng của kinh tế
hộ gia đình tại khu vực nông thôn.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5


Theo cách tiếp cận phát triển, PTNT có thể bao gồm tiếp cận phát triển
thông thường từ trên xuống; tiếp cận phát triển từ cộng đồng, từ người dân đi lên
và tiếp cận phát triển có kết hợp từ trên xuống với từ dưới đi lên. Mỗi cách tiếp
cận có thể có lợi thế riêng. Tuy vậy tiếp cận thông thường, tiếp cận từ trên xuống
đang bộc lộ nhiều nhược điểm, không còn tạo ra động lực cho PTNT, nhất là việc
áp dụng tại cấp cơ sở địa phương. Tiếp cận từ dưới lên coi trọng vai trò của cộng
đồng, cho rằng cộng đồng khi được nâng cao năng lực, được trao quyền có thể
phát huy vai trò làm chủ, quản lý các nguồn lực từ huy động các nguồn lực trong
và ngoài cộng đồng phục vụ việc tổ chức thực hiện các hoạt động cơ bản, thiết
yếu, quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản tốt hơn (Viện quy hoạch và thiết kế nông
nghiệp (2010), Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ: nghiên cứu hỗ trợ xây
dựng mô hình phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng làm cơ sở cho việc đề
xuất chính sách xây dựng nông thôn mới trong điều kiện của Việt Nam.)

1.1.1.3. Phát triển nông thôn dựa vào cộng đồng
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về PTNT theo định hướng cộng đồng
và có một số cách dùng từ khác nhau như phát triển theo định hướng cộng đồng,
phát triển dựa vào cộng đồng, phát triển do cộng đồng làm chủ và phát triển lấy
người dân làm trung tâm. Phát triển theo các tên gọi khác nhau này đều có chung
bản chất là phát triển theo định hướng cộng đồng.
Phát triển theo định hướng cộng đồng cho rằng các cộng đồng địa phương
khi có được quyền ra các quyết định và quản lý các nguồn lực trong tay sẽ thực
hiện việc phát triển tốt hơn.
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới, phát triển do cộng đồng làm chủ
phụ thuộc vào việc xây dựng mối quan hệ đối tác giữa các tổ chức cộng đồng,
các tổ chức phi chính phủ với các đơn vị cung cấp các dịch vụ tư nhân hay công
cộng (như dịch vụ khuyến nông). Trong điều kiện của Việt Nam, có thể hiểu
trong điều kiện khi chính quyền xã, các thôn và các tổ chức cộng đồng đang giữ
vai trò chủ đạo trong việc lựa chọn, lập kế hoạch và quản lý các chương trình,

các hoạt động phát triển địa phương. Điều đó còn bao gồm cả việc chuyển quyền
chủ đầu tư và sử dụng tài chính cho cấp địa phương.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

Trong định nghĩa khác thì nhấn mạnh đến việc ra quyết định và thúc đẩy
sự tham gia của người dân như những vấn đề quan trọng nhất. Khi đó phát triển
nông thôn dựa vào cộng đồng là việc tập trung phát triển nguồn nhân lực, phát
triển con người để họ có đủ năng lực đứng ra chủ động tổ chức việc phát triển
của bản thân. Việc nâng cao năng lực được thực hiện qua một quá trình liên tục.
Vai trò của các bên liên quan khác nhau có sự thay đổi. Các tổ chức chính quyền,
tổ chức cấp trên từ vị trí lãnh đạo chuyển sang làm người hỗ trợ. Người dân,
cộng đồng địa phương từ vị trí cấp dưới, thực hiện theo định hướng, mệnh lệnh
từ trên đưa xuống chuyển sang người làm chủ, trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực
hiện các hoạt động. Vấn đề quan trọng nhất trong phát triển nông thôn dựa vào
cộng đồng liên quan đến sự tham gia của người dân, cộng đồng địa phương vào
các hoạt động tại địa phương.
PTNT dựa vào cộng đồng chính là việc tổ chức thực hiện các nội dung
thông thường trong PTNT với việc nhấn mạnh vai trò cộng đồng là người đứng
ra lãnh đạo tổ chức thực hiện. Nó phân biệt với các cách tiếp cận khác khi có thể
cùng thực hiện các nội dung thông thường của PTNT nhưng không do cộng đồng
đứng ra lãnh đạo việc tổ chức thực hiện. Theo cách đánh giá ở trên, nội dung
PTNT có thể khác nhau. Phổ biến hơn, nội dung thông thường trong PTNT gồm
các lĩnh vực phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, văn hóa - xã hội và bảo vệ môi
trường. PTNT dựa vào cộng đồng hướng đến việc xây dựng và nâng cao năng lực
để các tổ chức và người dân trong cộng đồng có thể làm chủ, hướng dần đến việc
chủ động thực hiện các nội dung PTNT theo khả năng cho phép. Đây là điều kiện
cần có để bắc cầu sang thực hiện các nội dung thông thường trong PTNT.
Như vậy, PTNT dựa vào cộng đồng hướng đến con đường, cách thức để
thực hiện các nội dung thông thường trong PTNT. Kết quả cần đạt được ngoài

các nội dung thông thường trong PTNT như tất cả các cách thức PTNT khác,
quan trọng hơn chính là tìm ra con đường, cách thức để thực hiện nó. Các vấn đề
l ý luận về PTNT dựa vào cộng đồng, nhìn chung, xoay quanh việc xem xét cơ
chế, cách thức để huy động sự tham gia tự nguyện và chủ động của cộng đồng
vào tổ chức PTNT (Viện quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, 2010).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

1.1.2. Mối liên hệ giữa phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới và
chương trình nông thôn mới
a. Vị trí và phạm vi của PTNT
Như được phân tích ở trên, PTNT bao gồm các hoạt động đa ngành nhằm
mục tiêu cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn. Theo cách
đánh giá phục vụ các mục tiêu khác nhau, nội dung liên quan trong PTNT cũng
thay đổi khác nhau tương ứng. Tuy vậy nhìn chung, nội dung PTNT là rất rộng
lớn, có thể bao gồm các hoạt động đa ngành, liên quan đến nhiều cấp độ khác
nhau diễn ra chủ yếu tại khu vực nông thôn. Như vậy tất cả các hoạt động nhằm
đến mục tiêu cuối cùng, có tác động đến việc cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của bộ phận dân cư, của các cộng đồng nông thôn một cách bền vững, đều
có thể coi là hoạt động, nội dung của PTNT.
b. Vị trí và phạm vi của xây dựng NTM
Xây dựng nông thôn mới NTM có thể tạm coi là một bộ phận, hợp phần
của tổng thể PTNT. Nếu căn cứ vào diễn giải ngôn từ, nông thôn mới sẽ khác
biệt với nông thôn hiện nay hoặc với nông thôn trước kia. Sự khác biệt đó hàm ý
sự thay đổi theo hướng tích cực của vùng nông thôn. Các thay đổi có thể về bộ
mặt nông thôn thể hiện ra bên ngoài nói chung, nhưng cũng có thể là các thay đổi
về chất lượng, về tinh thần tạo ra động lực thúc đẩy PTNT tại vùng phạm vi địa
lý nhất định. Nếu PTNT là vấn đề phát triển chung, có sự thống nhất tương đối
và có thể chia sẻ giữa các nước khác nhau trên thế giới, thì xây dựng NTM có
tính chất đặc thù. Không nhiều nước sử dụng và phát triển nội dung này thành

công trong PTNT.
Nổi bật hơn cả có trường hợp phong trào Làng Mới của Hàn Quốc. Khi đó
người nông dân trong các làng quê được khơi dậy và khai sáng tinh thần để làm
việc chăm chỉ trên cơ sở tính gắn kết cộng đồng, đoàn kết và kỷ luật cao, cộng
đồng làng của họ có thể thực hiện được các công việc khó khăn. Từ đó tạo ra sự
thay đổi của bộ mặt làng quê, người nông dân đồng thời cải thiện đáng kể điều
kiện đời sống vật chất và tinh thần. Kết quả thu được từ phong trào Làng Mới
được coi là có vai trò quan trọng, đóng góp đáng kể vào hiện đại hóa, phát triển
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

khu vực nông thôn và phát triển đất nước Hàn Quốc. Như vậy yếu tố Mới vừa là
thay đổi tích cực về chất - tinh thần người nông dân, vừa là thay đổi tích cực về
hình thức - bộ mặt làng quê. Trong đó thay đổi về chất có vai trò quyết định.
Xây dựng NTM tập trung vào tổ chức thực hiện các nội dung PTNT tại
cấp cơ sở. Việc quản lý và thực hiện trên cơ sở cấp quản lý chính quyền tiếp xúc
trực tiếp với cộng đồng dân cư. Nó có giới hạn về phạm vi địa lý với vùng diện
tích tương đối nhỏ, tương ứng với phạm vi sinh sống của mỗi cộng đồng dân cư
nông thôn. Xây dựng NTM là một quá trình liên tục, lâu dài. Các nội dung sẽ bao
trùm tất cả các hoạt động PTNT tại cấp cơ sở. Có nhiều bên với vai trò khác nhau
sẽ tham gia vào quá trình xây dựng NTM, đó là người dân, Nhà nước, các tổ
chức và cá nhân khác.
c. Vị trí và phạm vi của chương trình NTM
Xây dựng NTM là việc tập trung thực hiện các nội dung PTNT tại cấp cơ
sở. Trong đó có sự tham gia của nhiều bên liên quan khác nhau. Sự tham gia của
Nhà nước có vai trò rất quan trọng để có thể thúc đẩy PTNT cấp cơ sở ở vùng
nông thôn trên phạm vi cả nước, đưa đến một mặt bằng chung, nhất là có thể tạo
ra động lực cho sự phát triển mạnh mẽ về chất trong các giai đoạn tiếp theo.
Nhà nước cần thiết kế và xây dựng một chương trình NTM nằm trong bối
cảnh xây dựng NTM. Chương trình NTM là một chương trình do Nhà nước chủ

trì, thực hiện hỗ trợ một số lĩnh vực cụ thể về quản lý, kỹ thuật và nguồn lực
trong việc xây dựng NTM. Các lĩnh vực, cách thức hỗ trợ của Nhà nước trong
chương trình NTM phải là thiết yếu, có hiệu quả, tạo ra tác động tích cực trong
xây dựng NTM cấp cơ sở. Nếu như xây dựng NTM là một quá trình lâu dài thì
chương trình NTM được thực hiện trong một khung thời gian nhất định (Quyết
định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009).
Như vậy, chương trình NTM do Nhà nước khởi xướng và thiết kế chương
trình, trong đó có phần hỗ trợ quan trọng và phù hợp của Nhà nước nhắm đến
việc xây dựng NTM. Chương trình NTM thường có khung thời gian trong giai
đoạn 5-10 năm đầu của quá trình xây dựng NTM.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

1.2. Tình hình quy hoạch phát triển nông thôn trên thế giới
1.2.1. Nhật Bản: Con đường hiện đại hóa nông nghiệp theo mô hình tiết kiệm
đất đai
Bắt đầu từ thời Minh Trị Duy Tân cho đến trước khi công nghiệp phát
triển nhanh chóng sau chiến tran, lương thực luôn là một trong những vấn đề chủ
yếu mà Nhật Bản phải đối diện. Một mặt, họ mưu cầu có thể tự cung cấp lương
thực, mặt khác lại gặp phải tình trạng nông nghiệp mất dần ưu thế, vấn đề điều
chỉnh nông nghiệp của Nhật Bản lúc này cực kỳ cấp thiết.
Năm 1870, Nhật Bản nhập nông cụ, phân bón và giống từ các nước Âu,
Mỹ nhằm hiện đại hóa nông nghiệp, mô phỏng Âu, Mỹ thiết lập các xưởng chế
tạo nông cụ, bãi ươm giống, ruộng thí nghiệm Nhưng thực tiễn đã chứng minh,
con đường hiện đại hóa nông nghiệp theo mô hình “tiết kiệm lao động” của Âu,
Mỹ không phù hợp với một Nhật Bản lạc hạu về kinh tế, đất chật người đông,
quy mô nông điền nhỏ. Xuất phát từ thực tế đó, Nhật Bản lựa chọn một phương
thức kinh doanh theo mô hình “tiết kiệm đất đai”, nhằm nhiều vào lao động và
phân bón, cải thiện hệ thống thủy lợi nội đồng, nhân rộng các giống cây trồng tốt,

sử dụng nhiều phân bón hóa học, phát triển kỹ thuật canh tác kinh doanh mô thức
nhỏ kết hợp giữa tập trung lao động và tập trung đất đai.
Đến giữa những năm 50 của thế kỷ XX, sự tăng tốc của công nghiệp hóa ở
Nhật Bản đã thu hút một lượng lớn sức lao động của nông nghiệp, lực lượng lao
động ở nông thôn trở nên thiếu hụt. Nhưng lúc này, Nhật Bản đã kịp chuẩn bị
điều kiện “tư bản thay thế lao động”. Công nghiệp hóa cung cấp cho nông nghiệp
một lượng lớn máy móc công cụ, bắt đầu thời kỳ cơ khí hóa nông nghiệp quy mô
lớn. Máy cày động lực và máy kéo dùng trong nông nghiệp ở Nhật Bản đã tăng
từ 90 ngàn chiếc (năm 1955) lên gần 400 ngàn chiếc (đầu những năm 1970), cơ
bản hoàn thành hiện đại hóa nông nghiệp. Nhưng cũng vào thời kỳ này, chính sự
bảo hộ nông nghiệp của Nhật Bản gặp phải sự phản đối của các tập đoàn lợi ích
thương nghiệp, công nghiệp và người tiêu dùng. Về sau, khi công nghiệp phát
triển nhanh chóng, sự tẩy chay đối với nông nghiệp ở trong nước mới mất đi.
Đoàn thể nông nghiệp đã thành công trong công việc đề xướng và thực thi bảo hộ
nông nghiệp ở trình độ cao nhất thế giới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

Để có một nền nông nghiệp phát triển như vậy, chính phủ Nhật Bản đã nắm
vai trò chủ đạo, mạnh dạn đầu tư hơn 2000 tỷ yên để làm các hạng mục xây dựng cơ
bản của nông thôn, cải thiện môi trường, đưa nước, đường, điện, điện thoại, đến
từng hộ dân, miễn phí hoàn toàn giáo dục sơ đẳng, tạo dựng cơ sở để thành thì và
nông thôn tác động tốt tới nhau. Về cơ bản, quốc gia này đã làm tốt việc phát triển
cân bằng, bền vững
1.2.2. Trung Quốc: Chính sách ly lương bất ly nông
Từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Trung Quốc đã chọn hướng phát
triển nông thôn bằng cách phát huy những công xưởng nông thôn thừa kế được
của những công xã nhân dân trước đây, thay đổi sở hữu và phương thức quản lý
để phát triển mô hình “công nghiệp hưng trấn”. Các lĩnh vực như chế biến nông
lâm sản, hàng công nghiệp nhẹ, máy móc nông cụ phục vụ sản xuất nông

nghiệp đang ngày càng được đẩy mạnh.
Nguyên tắc của Trung Quốc là quy hoạch đi trước, định ra các biện pháp
thích hợp cho từng nơi, đột phá trọng điểm, làm mẫu đường. Chính phủ hỗ trợ,
nông dân xây dựng. Với mục tiêu “ly nông bất ly hương” Trung Quốc đã thực
hiện đồng thời 3 chương trình phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Chương trình đốm lửa: Điểm khác biệt của chương trình này là trang bị
cho hàng triệu nông dân các tư tưởng, tiến bộ khoa học, bồi dưỡng nhân tài đốm
lửa, nâng cao tố chất nông dân. Sau 15 năm thực hiện, chương trình đã bồi dưỡng
được 60 triệu thanh niên nông thôn thành một đội ngũ cán bộ khoa học cốt cán, tạo
ra một động lực tiềm năng thúc đẩy nông thôn phát triển theo kịp với thành thị.
- Chương trình được mùa: chương trình này giúp đại bộ phận nông dân áp
dụng khoa học tiên tiến, phương thức quản lý hiện đại để phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Trong 15 năm sản lượng lương thực của Trung Quốc đã tăng lên 3 lần so
với những năm đầu 70. Mục tiêu phát triển nông nghiệp là sản xuất các nông sản
chuyện dụng, phát triển chất lượng và tăng cường chế biến nông sản phẩm.
- Chương trình giúp đỡ vùng nghèo: mục tiêu là nâng cao mức sống của
các vùng nghèo, vùng miền núi, dân tộc ít người; mở rộng ứng dụng thành tựu
khoa học tiên tiến, phổ cập tri thức khoa học công nghệ và bồi dưỡng cán bộ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

khoa học cốt cán cho nông thôn xa xôi, tăng sản lượng lương thực và thu nhập
của nông dân. Sau khi thực hiện chương trình, ở những vùng này, số dân nghèo
giảm từ 1,6 triệu người xuống còn 5 vạn người, diện nghèo khó giảm từ 47%
xuống còn 1,5%.
Tại hội nghị toàn thể Trung Ương lần thứ 5 khóa XVI của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, năm 2005, lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra quy hoạch “Xây dựng
nông thôn mới xã hội chủ nghĩa”. Đây là kế hoạch xây dựng mới đã được Trung
Quốc đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm lần thứ XI (2006-
2010). Mục tiêu của quy hoạch là: “sản xuất phát triển, cuộc sống dư dật, làng

quê văn minh, thôn xã sạch sẽ, quản lý dân chủ”. Xây dựng nông thôn mới Trung
Quốc tạo nên một hình ảnh mới đầy ấn tượng về một “nông thôn Trung Quốc”
đầy vẻ đẹp tráng lệ. Tuy vậy, dù với rất nhiều cố gắng, phát triển nông thôn cấp
cơ sở và NTM tại Trung Quốc cũng chưa đạt được các mục tiêu đề ra để thúc đẩy
phát triển khu vực nông thôn. Mô hình NTM của Trung Quốc chưa được coi là
thành công khi hiện nay, khoảng cách giữa khu vực thành thị và nông thôn vẫn
đang ngày càng rộng ra. Còn tồn tại nhiều vấn đề trong khu vực nông nghiệp,
nông thôn Trung Quốc (Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ, 2010).
1.2.3. Thái Lan: Tăng cường vai trò của cá nhân và các tổ chức trong phát
triển nông nghiệp toàn diện
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn
chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông
nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò của cá
nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào
học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học
và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng
cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông
nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro cho nông dân.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh
tranh với các hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy
mạnh công tác tiếp thị; phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và
kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái; giải quyết những
mâu thuẫn có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa
dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã
có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi lớn phục vụ
cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên

toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác trong sản
xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm
thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước…
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã tập
trung vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công
nghiệp nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ
năng truyền thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song
song với việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng
nông nghiệp, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp
chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công
nghiệp phát triển. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan phát triển
rất mạnh nhờ một số chính sách sau:
- Chính sách phát triển nông nghiệp: Một trong những nội dung quan
trọng nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2000-2005 là kế hoạch
cơ cấu lại mặt hàng nông sản của Bộ Nông nghiệp Thái Lan, nhằm mục đích
nâng cao chất lượng và sản lượng của 12 mặt hàng nông sản, trong đó có các mặt
hàng: gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ Thái Lan cho rằng, càng có
nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế biến lương thực thực
phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Nhiều sáng
kiến làm gia tăng giá trị cho nông sản được khuyến khích trong chương trình Mỗi
làng một sản phẩm và chương trình Quỹ làng.
- Chính sách bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chính phủ Thái Lan
thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

2004, Thái Lan phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là
bếp ăn của thế giới”. Mục đích chương trình này là khuyến khích các nhà chế
biến và nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm để bảo

đảm an toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, Chính
phủ thường xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm. Do đó, ngày nay, thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu
dùng ở các thị trường khó tính, như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, chấp nhận.
- Mở cửa thị trường khi thích hợp: Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư,
thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản xuất
trong nước để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, thông qua việc
mở cửa cho các quốc gia dù lớn hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh. Trong tiếp cận
thị trường xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan là người đại diện thương lượng với
chính phủ các nước để các doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong xuất
khẩu thực phẩm chế biến. Bên cạnh đó, Chính phủ Thái Lan có chính sách trợ
cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư trực tiếp vào kết cấu hạ tầng
như: Cảng kho lạnh, sàn đấu giá và đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; xúc tiến
công nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xúc tiến công nghiệp là
trách nhiệm chính của Cục Xúc tiến công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp, nhưng
việc xúc tiến và phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan do nhiều
cơ quan cùng thực hiện. Chẳng hạn, trong Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, cùng
với Cục Xúc tiến nông nghiệp, Cục Hợp tác xã giúp nông dân xây dựng hợp tác
xã để thực hiện các hoạt động, trong đó có chế biến thực phẩm; Cục Thủy sản
giúp đỡ nông dân từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế biến thủy sản. Cơ quan Tiêu
chuẩn sản phẩm công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp xúc tiến tiêu chuẩn hoá và
hệ thống chất lượng; Cơ quan Phát triển công nghệ và khoa học quốc gia xúc tiến
việc áp dụng khoa học và công nghệ cho chế biến; Bộ Đầu tư xúc tiến đầu tư vào
vùng nông thôn (Tuấn Anh, 2012).
1.2.4. Hàn Quốc: Phong trào Làng mới
Cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, GDP bình quân đầu người của Hàn
Quốc chỉ có 85 USD; phần lớn người dân không đủ ăn; 80% dân nông thôn
không có điện thắp sáng và phải dùng đèn dầu, sống trong những căn nhà lợp
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14


bằng lá. Là nước nông nghiệp trong khi lũ lụt và hạn hán lại xảy ra thường
xuyên, mối lo lớn nhất của chính phủ khi đó là làm sao đưa đất nước thoát khỏi
đói, nghèo.
Phong trào Làng mới (SU) ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm chỉ), tự lực
vượt khó và hợp tác (hiệp lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án thí điểm
đầu tư cho nông thôn có hiệu quả, Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức phát động
phong trào SU và được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua cải tạo nhà
mái lá bằng mái ngói, đường giao thông trong làng, xã được mở rộng, nâng cấp;
Các công trình phúc lợi công cộng được đầu tư xây dựng. Phương thức canh tác
được đổi mới, chẳng hạn, áp dụng canh tác tổng hợp với nhiều mặt hàng mũi
nhọn như nấm và cây thuốc lá để tăng giá trị xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích
và hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện thu
nhập cho nông dân.
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ diệu. Chỉ
sau 8 năm, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản được hoàn
thành. Trong 8 năm từ 1971-1978, Hàn Quốc đã cứng hóa được 43.631km đường
làng nối với đường của xã, trung bình mỗi làng nâng cấp được 1.322m đường;
cứng hóa đường ngõ xóm 42.220km, trung bình mỗi làng là 1.280m; xây dựng
được 68.797 cầu (Hàn Quốc là đất nước có nhiều sông suối), kiên cố hóa
7.839km đê, kè, xây 24.140 hồ chứa nước và 98% hộ có điện thắp sáng. Đặc biệt,
vì không có quỹ bồi thường đất và các tài sản khác nên việc hiến đất, tháo dỡ
công trình, cây cối, đều do dân tự giác bàn bạc, thỏa thuận, ghi công lao đóng
góp và hy sinh của các hộ cho phong trào.
Nhờ phát triển giao thông nông thôn (GTNT) nên các hộ có điều kiện mua
sắm phương tiện sản xuất. Cụ thể là, năm 1971, cứ 3 làng mới có 1 máy cày, thì
đến năm 1975, trung bình mỗi làng đã có 2,6 máy cày, rồi nâng lên 20 máy vào
năm 1980. Từ đó, tạo phong trào cơ khí hóa trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng
công nghệ cao, giống mới lai tạo đột biến, công nghệ nhà lưới, nhà kính trồng
rau, hoa quả đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản phẩm nông nghiệp, tăng nhanh.

Năm 1979, Hàn Quốc đã có 98% số làng tự chủ về kinh tế.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

Ông Le Sang Mu, cố vấn đặc biệt của Chính phủ Hàn Quốc về nông, lâm,
ngư nghiệp cho biết, Chính phủ hỗ trợ một phần đầu tư hạ tầng để nông thôn tự
mình vươn lên, xốc lại tinh thần, đánh thức khát vọng tự tin. Thắng lợi đó được
Hàn Quốc tổng kết thành 6 bài học lớn.
Thứ nhất, phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng nông
thôn - phương châm là nhân dân quyết định và làm mọi việc, “nhà nước bỏ ra 1
vật tư, nhân dân bỏ ra 5-10 công sức và tiền của”. Dân quyết định loại công trình,
dự án nào cần ưu tiên làm trước, công khai bàn bạc, quyết định thiết kế và chỉ
đạo thi công, nghiệm thu công trình. Năm 1971, Chính phủ chỉ hỗ trợ cho 33.267
làng, mỗi làng 335 bao xi măng. Năm 1972 lựa chọn 1.600 làng làm tốt được hỗ
trợ thêm 500 bao xi măng và 1 tấn sắt thép. Sự trợ giúp này chính là chất xúc tác
thúc đẩy phong trào nông thôn mới, dân làng tự quyết định mức đóng góp đất,
ngày công cho các dự án.
Thứ hai, phát triển sản xuất để tăng thu nhập. Khi kết cấu hạ tầng phục vụ
sản xuất được xây dựng, các cơ quan, đơn vị chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, giống
mới, khoa học công nghệ giúp nông dân tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, xây
dựng vùng chuyên canh hàng hóa. Chính phủ xây dựng nhiều nhà máy ở nông
thôn để chế biến và tiêu thụ nông sản cũng như có chính sách tín dụng nông thôn,
cho vay thúc đẩy sản xuất. Từ năm 1972 đến năm 1977, thu nhập trung bình của
các hộ tăng lên 3 lần.
Thứ ba, đào tạo cán bộ phục vụ phát triển nông thôn Hàn Quốc, xác định
nhân tố quan trọng nhất để phát triển phong trào SU là đội ngũ cán bộ cơ sở theo
tinh thần tự nguyện và do dân bầu. Hàn Quốc đã xây dựng 3 trung tâm đào tạo
quốc gia và mạng lưới trường nghiệp vụ của các ngành ở địa phương. Nhà nước
đài thọ, mở các lớp học trong thời gian từ 1-2 tuần để trang bị đủ kiến thức thiết
thực như kỹ năng lãnh đạo cơ bản, quản lý dự án, phát triển cộng đồng.

Thứ tư, phát huy dân chủ để phát triển nông thôn. Hàn Quốc thành lập hội
đồng phát triển xã, quyết định sử dụng trợ giúp của chính phủ trên cơ sở công
khai, dân chủ, bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cần thiết của địa
phương. Thành công ở Hàn Quốc là xã hội hóa các nguồn hỗ trợ để dân tự quyết
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

định lựa chọn dự án, phương thức đóng góp, giám sát công trình.
Thứ năm, phát triển kinh tế hợp tác từ phát triển cộng đồng Hàn Quốc đã
thiết lập lại các hợp tác xã (HTX) kiểu mới phục vụ trực tiếp nhu cầu của dân, cán
bộ HTX do dân bầu chọn. Phong trào SU là bước ngoặt đối với sự phát triển của
HTX hoạt động đa dạng, hiệu quả trong dịch vụ tín dụng, cung cấp đầu vào cho
sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo hiểm nông thôn và các dịch vụ khác. Trong vòng
10 năm, doanh thu bình quân của 1 HTX tăng từ 43 triệu won lên 2,3 tỉ won.
Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức mạnh toàn
dân. Chính phủ quy hoạch, xác định chủng loại cây rừng phù hợp, hỗ trợ giống,
tập huấn cán bộ kỹ thuật chăm sóc vườn ươm và trồng rừng để hướng dẫn và yêu
cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc đều phải trồng rừng, bảo vệ rừng. Nếu năm
1970, phá rừng còn là quốc nạn, thì 20 năm sau, rừng xanh đã che phủ khắp
nước, và đây được coi là một kỳ tích của phong trào SU.
Phong trào SU của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng vùng nông thôn cũ
thành cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Khu vực nông
thôn trở thành xã hội năng động có khả năng tự tích lũy, tự đầu tư và tự phát
triển. Phong trào SU, với mức đầu tư không lớn, đã góp phần đưa Hàn Quốc từ
một nước nông nghiệp lạc hậu trở nên giàu có. (Đinh Quang Hải, Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, 2010).
1.3. Tình hình quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam và ở tỉnh
Hưng Yên
1.3.1. Tình hình quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Ngay trong những năm đầu triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia về

xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào của cả nước, các nhiệm vụ về
xây dựng nông thôn mới được xác định rõ trong nghị quyết đại hội Đảng các cấp
từ tỉnh đến huyện và xã. Ban Bí thư Trung ương khóa X đã trực tiếp chỉ đạo
Chương trình thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới cấp xã tại 11 xã điểm ở
11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền.
Bộ máy quản lý và điều hành Chương trình xây dựng nông thôn mới đã
được hình thành từ Trung ương xuống địa phương. 63/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, 84,7% huyện và 52% số xã trên toàn quốc đã thành lập được

×