Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

khảo sát tình hình nhiễm leptospira trên chó tại thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 49 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
************************




PHẠM HẬU GIANG


KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM LEPTOSPIRA
TRÊN CHÓ TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH THÚ Y







Cần Thơ, 2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG


BỘ MÔN THÚ Y
************************




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH THÚ Y

Tên đề tài:
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM LEPTOSPIRA
TRÊN CHÓ TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ


Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Bé Mười Phạm Hậu Giang
MSSV: 3102943
Ngành Thú Y


Cần Thơ, 2014
i

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y
Đề tài: “Khảo sát tình hình nhiễm Leptospira trên chó tại Thành phố
Cần Thơ” do sinh viên Phạm Hậu Giang thực hiện tại Phòng thí nghiệm vi
trùng - Bộ môn Thú Y và Bệnh xá Thú Y Trường Đại học Cần Thơ từ tháng 8
đến tháng 11 năm 2014.





Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2015 Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2015
Duyệt Bộ Môn Duyệt Giáo viên hướng dẫn



Nguyễn Thị Bé Mười




Cần Thơ, ngày….tháng…năm 2015
Duyệt Khoa Nông Nghiệp & SHƯD
ii

LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn, tôi xin chân thành cảm ơn
Cô Nguyễn Thị Bé Mười đã tận tình động viên, hướng dẫn và giúp đỡ
em trong suốt quá trình làm luận văn.
Cố vấn học tập Thầy Lê Hoàng Sĩ đã tận tình hướng dẫn em trong suốt
khóa học.
Quí Thầy, Cô Bộ môn Thú Y và Bộ môn Chăn Nuôi Khoa Nông Nghiệp
và Sinh học Ứng dụng, cùng các Thầy, Cô Trường Đại học Cần Thơ đã hết
lòng giảng dạy em trong 5 năm qua.
Các anh, chị tại Bệnh xá Thú Y Trường Đại học Cần Thơ, cùng các bạn
lớp Thú Y K36 đã luôn ủng hộ và giúp đỡ.


Cần Thơ, ngày…tháng…năm 2015


Phạm Hậu Giang

iii

MỤC LỤC
TRANG DUYỆT i
LỜI CẢM ƠN ii
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT v
DANH SÁCH HÌNH vi
DANH SÁCH BIỂU ĐỒ vi
DANH SÁCH SƠ ĐỒ vi
DANH SÁCH BẢNG vii
TÓM LƯỢC viii
CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1 Tình hình nghiên cứu bệnh 2
2.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới 2
2.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước 3
2.2 Căn bệnh học 6
2.2.1 Phân loại 6
2.2.2 Đặc điểm hình thái và tính chất bắt màu 6
2.2.3 Đặc tính nuôi cấy 7
2.2.4 Sức đề kháng 7
2.2.5 Cấu tạo kháng nguyên 8
2.2.6 Một số nhóm Leptospira gây bệnh 8
2.3 Dịch tễ học 10
2.3.1 Loài mắc bệnh 10

2.3.2 Nguồn bệnh 10
2.3.3 Phương thức truyền bệnh 10
2.3.4 Cơ chế gây bệnh 11
2.4 Triệu chứng 12
2.4.1 Trên chó 12
2.4.2 Trên người 12
2.4.3 Trên heo 13
2.5 Bệnh tích 13
2.6 Chẩn đoán 13
iv

2.6.1 Chẩn đoán vi khuẩn học 13
2.6.2 Chẩn đoán huyết thanh học 15
2.7 Phòng và điều trị bệnh Leptospira 16
2.7.1 Phòng bệnh 16
2.7.2 Điều trị 18
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM 19
3.1 Nội dung 19
3.2 Thời gian và địa điểm 19
3.3 Phương tiện tiến hành thí nghiệm 19
3.3.1 Dụng cụ, thiết bị và hóa chất thí nghiệm 19
3.3.2 Nguyên liệu dùng trong thí nghiệm 19
3.4 Phương pháp tiến hành thí nghiệm 21
3.4.1 Phương pháp lấy mẫu 21
3.4.2 Kiểm tra kháng nguyên 21
3.4.3 Thực hiện phản ứng 21
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN 26
4.1 Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên chó tại Thành phố Cần Thơ 26
4.2 Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên chó theo nhóm tuổi 27
4.4 Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên chó theo giới tính 29

4.5 Tỷ lệ các serovar Leptospira trong số mẫu dương tính và hiệu giá kháng
thể Leptospira của chó 31
4.6 Kết quả tỷ lệ nhiễm ghép giữa các chủng Leptospira trên chó 33
4.7 Phân bố mẫu huyết thanh dương tính theo hiệu giá kháng thể 33
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 35
5.1 Kết luận 35
5.2 Đề nghị 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
PHỤ CHƯƠNG 38

v

DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
BSA: Bovine serum albumin
o
C: Degree Celsus
Ctv: Cộng tác viên
EMJH: Ellinghausen McCullough Johnson Harris
ELISA: Ezyme Linred Immuno Sorbet Assay
MAT: Microscopic Agglutination Test
TT: Thể trọng
ml: Milliliter
µm: Micrometer

vi

DANH SÁCH HÌNH

Hình
Tên hình

Trang
1
Đặc điểm hình thái Leptospira
7
2
Các mức độ ngưng kết trong phản ứng vi ngưng kết (MAT)
24

DANH SÁCH BIỂU ĐỒ

Biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
1
So sánh tỷ lệ nhiễm Leptospira trên chó theo các lứa tuổi
27
2
So sánh tỷ lệ nhiễm Leptospira trên chó theo phương thức
nuôi
29

DANH SÁCH SƠ ĐỒ

Sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
1
Sự truyền lây của Leptospirosis
11
2

Sơ đồ pha loãng huyết thanh
22
3
Sơ đồ nâng hiệu giá pha loãng huyết thanh
25
vii

DANH SÁCH BẢNG

Bảng
Tên bảng
Trang
1
Một số vaccine phòng bệnh Leptospira trên chó
17
2
Danh mục 24 serovar Leptospira sử dụng trong phản ứng
vi nghưng kết (MAT)
20
3
Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên chó tại Thành phố Cần Thơ
26
4
Tỷ lệ nhiễm Leptospira theo lứa tuổi
27
5
Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên chó theo phương thức nuôi
28
6
Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên chó theo giới tính

29
7
Tỷ lệ các serovar Leptospira trong số mẫu dương tính và
hiệu giá kháng thể Leptospira của chó
31
8
Kết quả khảo sát sự nhiễm ghép giữa các chủng
Leptospira trên chó
33
9
Phân bố mẫu huyết thanh dương tính theo hiệu giá kháng
thể
33


viii

TÓM LƯỢC
Đề tài “Khảo sát tình hình nhiễm Leptospira trên chó tại Thành phố Cần
Thơ” được thực hiện từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2014. Việc khảo sát bệnh
Leptospira trên chó được ghi nhận trên 135 chó. Tình hình nhiễm Leptospira
trên chó được xác định bằng phương pháp vi ngưng kết (MAT) với 24 chủng
kháng nguyên sống Leptospira interrogans trên 135 mẫu huyết thanh chó thu
thập được từ các hộ dân thuộc khu vực Thành phố Cần Thơ. Kết quả xét
nghiệm bằng phản ứng vi ngưng kết cho thấy 20,00% (27/135) chó có kháng
thể dương tính với một hoặc nhiều chủng Leptospira. Tỷ lệ nhiễm Leptospira
trên chó theo giống: chó ta 18,52% (15/135) mẫu huyết thanh và giống chó
ngoại 22,22% (12/135) mẫu huyết thanh có kháng thể dương tính với
Leptospira. Tuổi có tỷ lệ nhiễm cao nhất ở nhóm >6 năm tuổi (24,00%), kế
đến là ở nhóm 1 - 6 năm tuổi (19,78%) và thấp nhất là nhóm <1 năm tuổi

(15,79%). Theo phương thức nuôi, tỷ lệ nhiễm ở chó nuôi thả là 31,03% và
nuôi nhốt là 11,69%.
Trong 24 chủng Leptospira, chó dương tính với 18 chủng Leptospira,
chủng nhiễm cao là L. hustbridge (40,74%), L. icterohaemorrhagiae
(25,93%), L. copenhageni (14,84%), L. gryppotyphosa (14,84%), thấp nhất là
L. bataviae, L. canicola, L. hebdomadis, L. panama, L. hardjo và L. saxkoebing
(3,70%). Chó nhiễm ghép 2 chủng 14,81%, 3 chủng 11,11%, chó nhiễm ghép
4 chủng 3,7%, 5 chủng 3,7% và 6 chủng là 3,7%. Hiệu giá ngưng kết từ 1/200
đến 1/1800.
1

CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Chó là loài vật rất thông minh và gần gũi với con người. Chúng rất trung
thành và được con người nuôi từ lâu đời. Với sự phát triển của kinh tế đất
nước, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao nên việc nuôi chó
cũng ngày càng nhiều với sự đa dạng về giống, nguồn gốc.
Cùng với sự gia tăng số lượng chó là sự gia tăng về tỷ lệ mắc các bệnh
truyền nhiễm, mà trong đó có Leptospirosis. Leptospirosis là một bệnh truyền
nhiễm do nhiều serovar của vi khuẩn Leptospira interrogans gây ra ở nhiều
loài động vật và con người. Bệnh có thể lây truyền trực tiếp từ vật bệnh sang
vật khỏe hoặc qua vật trung gian mang mầm bệnh. Bệnh có những biểu hiện
lâm sàng đa dạng do vi khuẩn gây bệnh có thể gây tổn thương ở nhiều cơ
quan, đặc biệt là gan và thận, gây ra những biểu hiện đặc trưng như sốt, vàng
da, đi tiểu ra máu,…
Leptospirosis tuy không lây lan mạnh và làm chết nhiều chó như Canine
Parvovirus nhưng lại có khả năng lây truyền cho người, đặc biệt là với chủ
nuôi.
Xuất phát từ thực tế trên, được sự phân công của bô môn Thú Y, Khoa
Nông Nghiệp và SHƯD trường Đại học Cần Thơ, chúng tôi tiến hành đề tài
“Khảo sát tình hình nhiễm Leptospira trên chó tại Thành phố Cần Thơ”.

Mục tiêu đề tài: Khảo sát sự hiện diện của Leptospira trên đàn chó
thuộc Thành phố Cần Thơ.

2

CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Tình hình nghiên cứu bệnh
2.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Năm 1800, bệnh được ghi nhận đầu tiên ở thung lũng sông Nill, dựa vào
triệu chứng hoàng đản, xuất huyết.
Năm 1950, bệnh được phát hiện trên chó tại Stuttgart (Đức) gọi là bệnh
thương hàn chó, về sau gọi là bệnh Stuttgart.
Năm 1886, Mathieu và Weil cùng một lúc mô tả một bệnh với các triệu
chứng hoàng đản, sốt lập lại nhiều ngày.
Martin và Petit (1916), đã phân lập được chủng gây bệnh đầu tiên ở Pháp
và sau đó một năm đặt ra nguyên tắc phản ứng vi ngưng kết để chẩn đoán
bệnh về mặt huyết thanh học. Cũng vào năm 1916, Y.I. Do và R. Inada đã
phân lập được Leptospira gây bệnh cho người ở Nhật Bản. Đến năm 1917,
Noguchi đã tìm thấy xoắn khuẩn trong thận và nước tiểu ở chuột, sau đó ông
đã đề nghị đặt tên cho căn bệnh Leptospira vào năm 1918.
Cũng năm 1918, Tarrasor đã phân lập được loài L. gryppotyphosa ở bệnh
nhân có triệu chứng viêm màng não ở Liên Xô, Utlenhut và Frome (1918)
phát hiện loài L. icterohaemorrhagiae.
Nikonxki, Dexiatop và Mactrenko (1936) đã phân lập được mầm bệnh ở
trâu bò và sau đó tìm thấy ở nhiều loài động vật khác.
Tùy theo điều kiện sinh thái từng vùng, từng nước, tùy theo tập quán
chăn nuôi, điều kiện vệ sinh và các loại thú hoang mà các chủng gây bệnh cho
các động vật khác nhau theo tỷ lệ nhất định.
Năm 1980, theo Milner et al., (Úc) vào những năm 70 của thế kỷ 20,
chủng gây bệnh chủ yếu cho bò là L. ponama (16%), nhưng sau đó là L.

hardjo (34%) đã trở nên phổ biến hơn và về sau hai chủng này đều tồn tại.
Adrew (1992) cho rằng bò ở nước này có tỷ lệ huyết thanh dương tính với
Leptospira là 86%, ở gia súc bị bệnh do Leptospira gây sẩy thai 30% và chết
5%, ảnh hưởng đến sức khỏe của 40% cư dân nước Úc.
Alvarez Leonardo et al., (2011) thực hiện một nghiên cứu dịch tễ học cắt
ngang về bệnh Leptospira trên 70 chó ở Cienaga de Oro, Cordoba (Colombia).
Bằng phản ứng MAT, kết quả có 33/70 (47,14%) con chó dương tính với
Leptospira. Serovar có tỷ lệ xuất hiện cao nhất là L. gryppotyphosa (37,14%),
tiếp theo là L. icterohaemorrhaegiae (34,29%), L. pomona (25,71%), 10,01%
3

nhiễm với 1 serovar duy nhất, 5,72% nhiễm 2 serovar, 4,24% nhiễm với 3
serovar và 27,17% nhiễm với 4 serovar hoặc nhiều hơn.
Solomon Dhliwayo et al., (2012) điều tra về tình hình nhiễm Leptospira
trên chó ở Harare thuộc Zimbabwe, Mỹ. Kết quả xét nghiệm cho thấy 15,6%
mẫu huyết thanh dương tính với Leptospira (39/250 mẫu huyết thanh). Chó ở
thành thị có tỷ lệ bệnh Leptospira (25%) cao hơn chó ở nông thôn (11,2%).
Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ dương tính với Leptospira giữa 5 khu
vực nông thôn và giới tính. Nghiên cứu cũng cho thấy có sự liên quan giữa
Leptospirosis với các triệu chứng suy gan và thận.
Năm 2013, một điều tra cắt ngang của Jo E B Halliday et al., về tình
nhiễm Leptospirosis ở loài gặm nhấm ở Kibera - một khu ổ chuột gần Nairobi,
Kenya thuộc Châu Phi. Kết quả của cuộc điều tra cho thấy tỷ lệ dương tính là
18,3%, trong đó chi Rattus (chuột cống) là 10,25% (4/39), chi Mus (chuột nhà)
là 20% (37/185).
Koizumi et al., (2013) thực hiện cuộc khảo sát huyết thanh học để giám
sát sự lưu hành của Leptospira trên chó từ đó đánh giá được yếu tố nguy cơ
của bệnh này đối với con người, đặc biệt là khi căn bệnh nguy hiểm này đang
có mặt tại Nhật Bản. Với 283 mẫu huyết thanh chó nghi ngờ được thu thập từ
năm 2007 đến tháng 3 năm 2011. Kết quả 83 (29,3%) trường hợp dương tính

với Leptospira, trong đó chó đực chiếm 63,4% với tỷ lệ tử vong là 53,2%. Các
nhóm huyết thanh chủ yếu là hebdomadis (53,3%), tiếp theo là australis
(16,7%) và autumnalis (16,7%). Leptospira interrogans phân lập từ 45 con
chó của các nhóm huyết thanh: australis (16), autumnalis (6), canicola (1),
hebdomadis (21) và icterohaemorrhagiae (1). Tất cả các nhóm huyết thanh
này gây chết 57,1 % đến 100% những người bị nhiễm. Từ xưa nhóm huyết
thanh canicola và icterohaemorrhagiae được xem là nhóm huyết thanh gây
bệnh trên chó, bên cạnh đó nhóm hebdomadis đã trở thành nhóm huyết thanh
chủ yếu gây tử vong cao ở Nhật Bản.
Calderón et al., (2014) điều tra về tình hình nhiễm Leptospira ở lợn,
chó, chuột, con người và môi trường nước ở Cordoba - một khu vực của
vùng nhiệt đới Colombia, kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm ở lợn là 55,9%, ở chó
là 35,2%, ở người là 75,8%.
2.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Năm 1931, Ragiot và Souchrd lần đầu tiên phát hiện mầm bệnh trên
người. Sau đó, Vaucel (1934) cũng đã phát hiện Leptospirosis với các triệu
chứng của bệnh Weil’s. Đến năm 1937, Vaucel đã phân lập được mầm bệnh ở
Hà Nội, Hải Phòng, Tuyên Quang, Phú Thọ.
4

Đào Trọng Đạt và ctv (1970) thuộc viện Thú y đã xét nghiệm 3.880 mẫu
huyết thanh heo ở 19 điểm thuộc 12 tỉnh miền Bắc có kết quả dương tính là
27,5%.
Viện Thú Y Việt Nam (1972) đã phát hiện bò ở Hà Nội và các vùng phụ
cận nhiễm Leptpspira (L) với nhiều chủng như: L. icterohaemorrhagiae,
L. australis, L. pomona, L. canicola.
Viện Thú Y (1978) đã điều tra tại một số trại chăn nuôi ở các tỉnh Quảng
Ninh, Yên Bái, Lào Cai, Hà Bắc, kết quả cho thấy trâu, bò, heo, chó và công
nhân ở các trại này đều có phản ứng dương tính với Leptospira, trong đó bò
38%, trâu 0,1%, heo 22,9%, chó 26,47% và với công nhân chăn nuôi tỷ lệ

dương tính là 56%.
Năm 1984, Vũ Đình Hưng và ctv đã nghiên cứu một số ổ dịch
Leptospira điển hình ở người và tìm hiểu sự liên quan với gia súc ở địa
phương quanh một trại khai hoang thuộc Hoàng Liên Sơn cho thấy 75 người
mắc bệnh với triệu chứng điển hình, bằng phản ứng huyết thanh học đã phát
hiện 63,1% số người có kháng thể chống Leptospira với các chủng là
L. gryppotyphosa, L. autumnalis. Các tác giả đã phân lập được hai chủng
Leptospira từ người bệnh và việc gây nhiễm bệnh cho chuột cũng cho kết quả
cao, đồng thời còn phát hiện 42,7% ở người, 50% ở heo, 70% ở bò và 10% ở
chuột bị nhiễm bệnh ở khu vực xung quanh xảy ra ổ dịch. Các chủng được
phát hiện là L. canicola, L. autumnalis, L. gryppotyphosa, L. hebdomadis,
L. mitis, L. bataviae. Cũng năm 1984, Phùng Quốc Chương điều tra trên heo
tại ĐakLak với tỷ lệ nhiễm là 9,2%.
Sofia Boqvist (1998) xét nghiệm 444 mẫu huyết thanh heo nái tại 6 tỉnh
ở Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy tỷ lệ nhiễm bình quân ở Cần Thơ là
64,92%, trong đó heo nuôi ở các trại là 76,47%, heo nuôi hộ gia đình là
57,14%.
Lê Thanh Hải và ctv (1988, 1989) nghiên cứu về tình hình nhiễm
Leptospira ở đàn chó nghiệp vụ trong các trại giam đã công bố: trại V
21

73,3% chó nhiễm bệnh, trại T
24
có 66,2% chó nhiễm bệnh. Chó ở cơ sở của
công an Hải Phòng nhiễm 27%, chủ yếu là chó đực trên 1 tuổi. Chó nuôi tại
các cơ sở Nam Bộ nhiễm 88% so với toàn cầu.
Theo Vũ Đạt và Lê Huỳnh Thanh Phương (1999), tỷ lệ nhiễm Leptospira
của chó ở các địa phương vùng phụ cận Hà Nội 23,19% với các serovar là
L. bataviae, L. canicola, L. grippotyphosa và L. icterohaemorrhagiae. Tỷ lệ
nhiễm Leptospira của các giống chó ngoại cao: chó Ý 29,03%, chó Đức

5

30,55% và chó Nga 35,90%. Giống chó Việt Nam chỉ nhiễm 17,50%. Tỷ lệ
nhiễm của chó đực 27,66% và chó cái 18,50%.
Năm 2001, Hoàng Mạnh Lâm và ctv nghiên cứu xác định một số serovar
Leptospira trên bò và heo tại ĐakLak, kết quả kiểm tra 257 mẫu huyết thanh
bò và 537 mẫu huyết thanh heo cho thấy ở bò là 3,8%, heo là 3,53% với 14
serovar Leptospira trên bò và 15 serovar Leptospira trên heo. Trong số các
serovar đã xác định có 4 serovar ở bò từ trước chưa được công bố ở Việt Nam
là: L. panama, L. pyrogens, L. semranga và L. tasaaovi và 4 serovar chưa
được công bố ở heo là L. djasiman, L. jivanica, L. panama, L. semaranga.
Sau đó năm 2002 cũng tại ĐakLak, Hoàng Mạnh Lâm và ctv qua kiểm
tra xác định một số serovar Leptospira ở chó, chuột và người kết quả cho thấy
ở chuột tỷ lệ nhiễm là 21,1% (151/714 mẫu huyết thanh) với 4 serovar mới
công bố lần đầu ở Việt Nam là L. cellendoni, L. panama, L. sejroe và L.
semaranga. Ở chó là 19,8% (54/273 mẫu huyết thanh) với 3 serovar mới phát
hiện là L. pyrogenes, L. mini và L. javanica. Ở người là 19,8% (74/411 mẫu
huyết thanh) với 4 serovar mới phát hiện là L. panama, L. sejroe, L. tarassovi
và L. semaranga.
Võ Thành Thìn và ctv (2012) đã khảo sát tình hình nhiễm Leptospira
trên đàn lợn nái tại Khánh Hòa với tỷ lệ dương tính là 17,7%. Tỷ lệ này phụ
thuộc vào điều kiện chăn nuôi và mùa vụ tại địa phương. Có sự lưu hành của
10 serovar Leptospira trên đàn lợn, trong đó, các serovar chiếm ưu thế là L.
pomona (51,2%), L. panama (19,5%), L. icterohaemorrhagiae (14,6%), L.
autumnalis (12,2%).
Lý Thị Liên Khai (2012), điều tra về tình hình nhiễm khuẩn Leptospira
trên đàn bò sữa, chó và chuột tại Công ty cổ phần thủy sản sông Hậu, kết quả
cho thấy tỷ nhiễm Leptospira ở chuột là 55,55%, kế đến là chó 40,46% và đàn
bò sữa là 22,61%.
Năm 2013, Nguyễn Thị Bé Mười nghiên cứu bệnh do Leptospira trên

chó tại Thành phố Cần Thơ, kết quả kiểm tra cho thấy tỷ lệ chó bị nhiễm
Leptospira interrogans là 21,33% (64/300).

6

2.2 Căn bệnh học
2.2.1 Phân loại
Leptospira thuộc
Lớp Schizomycetes
Bộ Spirochaetales
Họ Leptospiraceae
Giống Leptospira
Giống Leptospira được phân chia thành hai loài:
- Leptospira interrogans là loài gây bệnh cho người và gia súc.
- Leptospira biflexa thường sống hoại sinh trong nước và không
gây bệnh (Watch, Binger và Noguchi, 1918).
2.2.2 Đặc điểm hình thái và tính chất bắt màu
Hiện nay, người ta đã phát hiện được 23 nhóm huyết thanh với 260
serovar Leptospira gây bệnh. Các chủng xoắn khuẩn này có hình thái tương tự
nhau và được cấu tạo gồm nhiều vòng xoắn nhỏ xếp (10 - 20 vòng) sát vào
nhau, rất khó phân biệt dưới kính hiển vi thường. Chiều dài trung bình 4 -
20µm, rộng 0,1 - 0,2µm, đầu uốn cong tựa hình móc câu hoặc hình chữ C hay
chữ S. Chuyển động của Leptospira nhờ một bộ phận cơ động gồm một trục ở
giữa và thân xoắn như lò xo quanh trục. Ngoài cùng có một lớp vỏ mềm co
giãn được chứa nhiều kháng nguyên, kế đến là màng bao bọc tế bào chất bao
gồm 3 - 5 lớp, ở giữa là nhân không có màng ngăn cách với nguyên sinh chất
đảm nhận chức năng di truyền, nó có thể xoay dọc, xoay ngang, xoay tròn
(Nguyễn Vĩnh Phước, 1977). Do cấu trúc đặc biệt, kích thước khá nhỏ, sự di
động uyển chuyển và khả năng co giãn dễ dàng như vậy nên chúng có thể chui
qua màng lọc có đường kính 0,1 - 0,45µm như da, niêm mạc của gia súc hoặc

người hay qua vết xước để gây bệnh (Nguyễn Vĩnh Phước và ctv, 1978).
Leptospira khó bắt màu khi nhuộm bằng thuốc nhuộm màu anilin thông
thường. Nhuộm bằng phương pháp giemsa xoắn khuẩn bắt màu đỏ tím và xem
được dưới kính hiển vi thường. Khi nhuộm bằng phương pháp mạ bạc
(Fontana tribondeau) Leptospira có màu đen. Ngoài ra, còn có phương pháp
nhuộm Romanopxki, xoắn khuẩn bắt màu tím sau khi nhuộm.



7


Hình 1 : Đặc điểm hình thái Leptospira
2.2.3 Đặc tính nuôi cấy
Leptospira là một vi khuẩn hiếu khí, rất khó nuôi cấy, nhiệt độ thích hợp
28 - 30
o
C, không mọc ở 13
o
C, pH thích hợp 7,2 - 7,4, mọc chậm trong các môi
trường nuôi cấy vì vậy việc nuôi cấy có thể kéo dài hàng tháng (Trần Thanh
Phong, 1998).
Người ta dùng nhiều môi trường giàu dưỡng chất để nuôi cấy như môi
trường Tween - Albumine hay EMJH, môi trường Stuart.
Leptospira có thể mọc được ở những môi trường nhân tạo thông thường
như môi trường Terkish, EMJH. Môi trường EMJH gồm hai thành phần: môi
trường cơ sở và môi trường làm giàu bằng albumine bò hoặc huyết thanh thỏ
(Srivastava and Harbola, 1989). Môi trường EMJH có thêm 5-fluoro-uracile
(100µg/ml) thường dùng làm môi trường tuyển lựa. Các kháng sinh hoặc
Sulfamide khác cũng có thể dùng được như Neoycine 300µg/ml, Kanamycine,

Rifamycine,… Ngoài ra, có thể cấy Leptospira vào màng niệu đệm phôi gà 10
ngày tuổi, sau khi cấy 7 ngày phôi gà bị chết, bệnh tích không điển hình
(Prydie, 1968).
2.2.4 Sức đề kháng
Leptospira có sức đề kháng tương đối yếu với các yếu tố lý hóa. Sự sấy
khô làm xoắn khuẩn chết nhanh. Leptospira nhạy cảm với nhiệt độ cao, bị giết
chết ở nhiệt độ 56
o
C – 60
o
C trong 5 phút, nhưng lại chịu được nhiệt độ thấp ở
- 30
o
C Leptospira không chết, ở 4
o
C Leptospira có trong gan chuột lang có thể
sống được 26 ngày mà không giảm độc lực (Nguyễn Như Thanh, 2001).
Trong nước tiểu của gia súc bị bệnh, ở nhiệt độ môi trường bình thường xoắn
khuẩn tồn tại hàng tháng và lây truyền bệnh tốt.
Trong môi trường ẩm ướt, đặc biệt ở các đầm lầy, ao hồ, sông suối, đồng
cỏ thoát nước kém, trong bùn lầy nước đọng, nhất là cống rãnh, kênh mương,
ruộng đồng xoắn khuẩn có thể sống dai dẳng.
8

Xoắn khuẩn nhạy cảm với pH acid, ở trong dạ dày chỉ 10 phút là chết,
môi trường acid pH<6,5 Leptospira không sống được, pH≥7 xoắn khuẩn tồn
tại vài tuần. Tuy nhiên, nước hơi kiềm mà không bị pha loãng như trong rơm,
cỏ khô thì mầm bệnh chỉ sống được vài giờ (Davidson và Smith, 1936;
Fuhner, 1950).
Dưới ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp, Leptospira bị chết trong vòng

30 - 120 phút, nhưng với tia tử ngoại sau 30 phút Leptospira vẫn còn hoạt
động, sau 50 phút giảm hoạt động, sau 2 giờ tự ngưng kết 50%, sau 3 giờ
ngưng kết 100%, sau 4 giờ ngừng hoạt động hoàn toàn.
Các chất sát trùng thông thường có thể diệt xoắn khuẩn nhanh chóng:
acid phenic 0,5% trong 5 phút, formol 0,25% trong 5 phút, acid sunfu 0,05%
trong 10 phút, biclorua thủy ngân 1/2000 sau 10 - 15 phút. Leptospira rất mẫn
cảm với muối, dung dịch muối 2,8% giết xoắn khuẩn trong vòng 15 phút.
Kháng sinh penicillin có tác dụng rất tốt đối với Leptospira (Nguyễn Tiết
Liên và Nguyễn Thanh Bình, 1991).
2.2.5 Cấu tạo kháng nguyên
Năm 1956, Rothotein và Riatto chia cấu trúc kháng nguyên ra làm hai
phần chính.
Kháng nguyên P thuộc phần vỏ có cấu trúc là Lipopolysacharide giúp
phân biệt các nhóm Leptospira, là cơ sở phân loại xoắn khuẩn.
Kháng nguyên S thuộc tế bào chất, thành phần cấu tạo là
Lipopolysacharide có tính chuyên biệt, dùng để nhận biết các Leptospira, đặc
trưng cho giống.
Do sự khác nhau về cấu trúc kháng nguyên, người ta chia Leptospira
thành nhiều nhóm huyết thanh (Serogroup), mỗi nhóm huyết thanh có nhiều
chủng huyết thanh (Serotype). Ngày nay, người ta chia mỗi nhóm huyết thanh
thành nhiều serovar (Jonhson và Feine, 1984).
2.2.6 Một số nhóm Leptospira gây bệnh
Nhóm L. canicola
L. canicola lần đầu tiên phân lập được từ bò ở Israel vào năm 1955, sau
đó vào năm 1956 phân lập được mầm bệnh từ heo và chó ở Czechoslovakia,
Mỹ và Chi Lê (Chenukha, 1981). Nhóm L. canicola gồm các serovar đại diện
là L. canicola, L. bafani, L. benjamin, L. broomi, L. schueffneri và L. kamituga.
9

L. canicola có thời gian tồn lưu ở heo ít nhất là 90 ngày và có thể sống

trong nước tiểu là 6 ngày (Michna, 1962). Điều kiện thuận lợi này giúp mầm
bệnh khuếch tán và lây truyền dễ dàng giữa các loài gia súc.
Nhóm L. autumnalis
Kitemura năm 1918 đã phân lập được L. autumnalis từ heo, sau đó phân
lập được từ bò tại Nhật năm 1953 (Cacciapuotti, 1981). Gồm các serovar là
L. autumnalis, L. bangkinang, L.butembo, L. bim, L. bungarica và L. rachmati.
Nhóm L. icterohaemorrhagiae
L. icterohaemorrhagiae được Do. Y. I và Inada R phân lập từ chuột năm
1915. Nhóm L. icterohaemorrhagiae gồm: L. copenhageni, L. lai, L. 017,
L. mankarso, L. nadambari, L. wijinberg, L. shiromizu và L. shibaura (Krover
et al., 1988). Bằng phản ứng vi ngưng kết, L. icterohaemorrhagiae còn được
tìm thấy trên nhiều loài gia súc như trâu, bò, heo, chó, dê, cừu (Hathaway,
1981).
Nhóm L. pomona
L. pomona lần đầu tiên phân lập từ heo ở Australia năm 1939, sau đó
phân lập từ bò, ngựa, dê. Nhóm này bao gồm các serovar là L. kennewicki,
L. mozdok, L. proechimys, L. salinem và L. tropica. Động vật mang trùng là
loài gặm nhấm (Sebek và cộng sự, 1983). L. pomona thường khu trú, sinh sản
ở thận và theo nước tiểu ra ngoài môi trường, góp phần phát tán mầm bệnh.
Nhóm L. grippotyphosa
Nhóm L. grippotyphosa gây bệnh ở bò, dê, cừu, ngựa, kể cả người. Gồm
các serovar là L. valbuzzi, L. muelleri, L. moskva và L. canalzonae (Sebek and
Vlcek, 1990).
Tarasova đã phân lập được L. grippotyphosa năm 1928, đó là một trong
những serovar gây bệnh chủ yếu ở vùng Trung và Đông Âu, ở Liên Xô năm
1946, ở Mỹ (Hanson và cộng sự, 1965, 1971).
Nhóm L. australis
Nhóm L.australis gồm các serovar L. bratislava, L. muenchen và L. lora.
Vật mang mầm bệnh là chuột bạch Rattus culmorum, động vật mắc bệnh là
heo, chó, chuột.

Lần đầu tiên Morissey phân lập được L. australis ở bò năm 1934, sau đó
L. australis cũng phân lập được ở bò tại Nhật vào các năm 1953, 1955 và năm
1960 (Waitkins, 1981).
10

2.3 Dịch tễ học
2.3.1 Loài mắc bệnh
Bệnh Leptospira là bệnh truyền nhiễm chung cho nhiều loài gia súc, thú
hoang dã và người. Trong đó, loài gặm nhấm là ổ chứa xoắn khuẩn trong tự
nhiên, chúng đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bệnh và bài thải mầm
bệnh ra môi trường. Ở thú hoang hay loài gặm nhấm thường mang mầm bệnh
ở thể mang trùng hay ẩn tính (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978).
Tỷ lệ mắc bệnh do Leptospira tùy thuộc vào các chủng gây bệnh, động
vật cảm thụ, điều kiện thổ nhưỡng, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh
chuồng trại và môi trường xung quanh. Những trận dịch quan trọng được ghi
nhận thường do lây truyền qua nước lũ, ô nhiễm mầm bệnh từ nước tiểu chuột
và động vật khác (Hồ Thị Việt Thu, 2012). Thú non cảm nhiễm mạnh hơn thú
lớn, nhưng tỷ lệ cảm nhiễm ớ thú lớn (ví dụ: heo nọc, nái sinh sản, ) thường
cao hơn do thời gian sống lâu hơn, cơ hội tiếp xúc với mầm bệnh nhiều hơn.
Ở người, bệnh thường gặp trên cán bộ lâm nghiệp, công nhân chăn nuôi,
đặc biệt là cán bộ thú y làm công tác chẩn đoán xét nghiệm.
2.3.2 Nguồn bệnh
Các loài gia súc bệnh như chó, heo, bò, đặc biệt loài gặm nhấm là
nguồn bài thải xoắn khuẩn trong tự nhiên. Ở nước ta Rattus norvegicus mang
Leptospira chủ yếu là L. bataviae (Nguyễn Như Thanh, Nguyễn Bá Hiên, Trần
Thị Lan Phương, 1997).
Gia súc mang trùng không mang mầm bệnh suốt đời như loài gặm nhấm
nên mầm bệnh thải ra ngoài lúc có lúc không. Gia súc mang xoắn khuẩn sau
khi lành bệnh ở thể ẩn, thời gian mang trùng và mức độ bài thải qua nước tiểu
thay đổi tùy theo loài mang xoắn khuẩn và chủng gây bệnh. Khi ra ngoài môi

trường, xoắn khuẩn có mặt ở những khu vực nhiễm nước tiểu loài mang trùng,
các ao, hồ, đầm lầy, đất bùn, đây là những nguồn lây truyền bệnh trong tự
nhiên.
Ở động vật khi mới nhiễm bệnh, trong máu có xoắn khuẩn nhưng khi
bệnh kéo dài trên 15 ngày thì mầm bệnh khu trú ở bể thận, bàng quang, nước
tiểu, gan, lách, hạch lâm ba,
2.3.3 Phương thức truyền bệnh
Ở động vật, bệnh lây chủ yếu qua đường tiêu hóa do thức ăn và nước
uống có nhiễm Leptospira từ nước tiểu của động vật mắc bệnh hoặc mang
11

trùng (Hồ Thị Việt Thu, 2012). Leptospirosis còn lây qua các chất tiết mắt,
mũi, miệng (Alson và Broom, 1958; Alexander, 1964).
Bệnh có thể truyền qua vết xay xát ngoài da hoặc niêm mạc do tiếp xúc
với bùn, đất có nhiễm xoắn khuẩn hoặc tiếp xúc trực tiếp với nước tiểu, phủ
tạng của gia súc bệnh.
Ngoài ra, bệnh còn lây nhiễm qua côn trùng chích hút, qua nhau thai, lây
nhiễm qua đường âm đạo. Trong phòng thí nghiệm, khi bôi canh trùng xoắn
khuẩn vào đùi chuột lang sau 20 phút trong máu chuột đã tìm thấy xoắn
khuẩn, hay cho chuột lội trong nước nhiễm khuẩn, tiêm dưới da, phúc mạc,
bắp thịt hay cho uống đều bị nhiễm.

()
Sơ đồ 1: Sự truyền lây của Leptospirosis
2.3.4 Cơ chế gây bệnh
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, xoắn khuẩn vào máu, gây sốt. Sau đó mầm
bệnh vào gan, thận và tử cung của con vật mang thai. Trong máu, một số mầm
bệnh như L. pomona, L. grippotyphosa, L. canicola,… có độc tố phá hủy hồng
cầu, do đó gia súc bị thiếu máu, vàng da, có huyết sắc tố trong nước tiểu. Độc
tố còn gây tổn thương ở các mao quản gây xuất huyết, thủy thũng, hoại tử da

và niêm mạc. Cuối thời kỳ bệnh, mầm bệnh vào thận, căn bệnh thường khu trú
ở niệu quản, có lúc được bài thải ra ngoài theo nước tiểu, gây viêm thận, hoại
12

tử. Độc tố còn gây viêm gan, viêm màng não. Ở thú cái mang thai, xoắn khuẩn
gây sẩy thai.
Thời gian nung bệnh từ 10 - 20 ngày. Thời kỳ này dài hay ngắn còn tuỳ
thuộc vào trạng thái cơ thể, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, đường xâm nhập
và trạng thái cơ thể. Sau khi khỏi bệnh con vật có miễn dịch nhưng chỉ có
miễn dịch với chủng gây bệnh mà thôi.
2.4 Triệu chứng
2.4.1 Trên chó
Thể xuất huyết: thường xảy ra trên chó trưởng thành.
Bệnh xảy ra đột ngột. Chó sốt cao (40,5
o
C - 41,5
o
C), bỏ ăn, có trường
hợp sung huyết ở niêm mạc mắt. Sang ngày thứ 2 nhiệt độ giảm xuống
37
o
C - 38
o
C, chó ủ rũ, khó thở, bỏ ăn, khát nước, có trường hợp nôn mửa.
Đến ngày thứ 2 - 3 niêm mạc miệng sung huyết sau đó xuất huyết hoặc
hoại tử, hơi thở có mùi hôi, đôi khi viêm họng khó nuốt. Những ngày sau có
hiện tượng run cơ bắp, đau vùng bụng khi nằm, hoặc khi sờ nắn nôn mửa ra
máu, chảy máu ở mũi, con vật gầy nhanh, da khô, mắt lõm sâu, viêm kết mạc,
táo bón, nước tiểu ít, màu vàng đôi khi phù mật, hạch cổ nổi rõ. Bệnh tiến
triển nặng dần, con vật bị hôn mê hoặc co giật và chết. Tỷ lệ chết rất cao 65 -

95%, nếu qua khỏi thì thường viêm thận mạn (Binrbaum et al., 1998).
Thể vàng da: thường xuất hiện ở chó còn nhỏ.
Bệnh tiến triển từ từ cho đến khi vàng da, cũng có khi bệnh phát ra đột
ngột. Chó bị bệnh lúc đầu thân nhiệt 39,5 - 40
o
C, khi xuất hiện vàng da thì
thân nhiệt hạ xuống 36 - 36,5
o
C.
Ở thể vàng da, lúc đầu chó bệnh vẫn vui vẻ, nhưng khi bệnh tiến triển sẽ
có những biểu hiện mệt mỏi. Giai đoạn cấp tính nghe phổi có tiếng ran, không
ho, cá biệt có chảy máu mũi. Niêm mạc miệng màu vàng đậm hay vàng nhạt
phụ thuộc vào thời gian và mức độ nặng nhẹ của bệnh. Nhiều trường hợp nôn
ra máu, nước tiểu thường có màu vàng sẫm và lượng protein rất cao. Thường
viêm kết mạc, đôi khi ngứa. Thể vàng da thường do L. icterohaemorrhagiae
gây nên (Bishop et al., 1979).
2.4.2 Trên người
Thời gian ủ bệnh từ 3 đến 21 ngày (thường từ 3 - 14 ngày). Bệnh xảy ra
với các triệu chứng rất đa dạng, tùy thuộc vào tuổi, sức đề kháng của cơ thể,
chủng vi khuẩn cũng như số lượng vi khuẩn xâm nhập (Phạm Sỹ Lăng và
Hoàng Văn Năm, 2012).
13

Người bệnh thường có biểu hiện theo hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: sốt đột ngột >39
o
C, kéo dài trong vài ba ngày; sau đó có các
triệu chứng giống như bị cúm. Người bệnh mệt mỏi, đau đầu (>90% trường
hợp), mắt có màu đỏ, đau cơ (đặc biệt cơ vùng lưng và bắp chân), buồn nôn,
da mẩn đỏ (30% trường hợp).

Bệnh kéo dài trong 3 - 5 ngày, người bệnh dần dần hồi phục. Trong giai
đoạn này xoắn khuẩn nhân lên trong máu nên có thể sử dụng các xét nghiệm
để phát hiện. Trường hợp đang mang thai sẽ bị sẩy thai ở tháng thứ 2 hoặc 3.
Giai đoạn 2: giai đoạn này không có biểu hiện triệu chứng hoặc triệu
chứng kéo dài trong một thời gian ngắn rồi ngưng, bệnh cũng có thể tiến triển
rất nhanh trong một số trường hợp nặng.
2.4.3 Trên heo
Con vật sốt bất thường, ăn ít hoặc bỏ ăn, phù thũng ở đầu và hầu, nước
tiểu vàng nhạt; niêm mạc, da có màu vàng.
Heo nái đang mang thai bị nhiễm bệnh sẽ bị sẩy thai.
Heo con theo mẹ nhiễm Leptospira sẽ bị thiếu máu; da nhợt nhạt, hơi
vàng; chậm lớn, phù thũng ở đầu.
2.5 Bệnh tích
Ở chó
Thể vàng da: người ta quan sát thấy da vùng bụng, bàn chân, mặt trong
tai; niêm mạc mắt, niêm mạc miệng có màu vàng.
Ngoài ra, bệnh còn thể hiện bệnh tích đại thể bao gồm các nốt xuất huyết
hoặc tụ máu ở các cơ quan, màng phổi, màng xoang bao tim, thận. Gan thường
bở, màu nâu vàng. Trên bề mặt thận có nhiều nốt hoại thử màu trắng. Bệnh
tích vi thể tập trung chủ yếu ở gan bao gồm hoại tử tế bào gan, thâm nhiễm tế
bào lympho và đơn nhân lớn, tế bào ống dẫn mật tăng sinh, hoại tử ống dẫn
mật. Ngoài ra, có thể quan sát thấy các vùng viêm ở thận (Phạm Sỹ Lăng và
Hoàng Văn Năm, 2012). Lách có kích thước bình thường, đôi khi bị teo nhỏ,
có nốt hoại tử.
2.6 Chẩn đoán
2.6.1 Chẩn đoán vi khuẩn học
Lấy bệnh phẩm để chẩn đoán: tùy theo thời gian và thể bệnh, có thể lấy
các bệnh phẩm khác nhau.
- Sốt tuần đầu thì lấy máu.
14


- Sốt trong 10 ngày thì lấy nước tiểu.
- Nếu con vật bị chết thì lấy những cơ quan như gan, thận, phổi, tim,
2.6.1.1 Kiểm tra bằng kính hiển vi tụ quang nền đen
Xem tươi mẫu máu và nước tiểu
Mẫu máu: Lấy 1ml máu trộn với 2ml dung dịch 1,5% citrat natri, trộn
đều rồi để lắng 1 giờ, lấy phần dịch trong phía trên nhỏ lên lame đem quan sát
dưới kính hiển vi tụ quang nền đen.
Mẫu nước tiểu: Ly tâm nước tiểu ở tốc độ 10.000 vòng/phút trong 10
phút; mô bào được nghiền thành huyễn dịch bệnh phẩm theo tỷ lệ 1/10 với
BSA 1%. Hút 1 giọt nhỏ lên phiến kính và soi dưới kính hiển vi tụ quanh nền
đen.
Làm tiêu bản và nhuộm màu
Phương pháp miễn dịch huỳnh quang có thể phát hiện xoắn khuẩn trong
nước tiểu, mô bào.
Ngoài phương pháp trên còn có phương pháp nhuộm thấm bạc và
immunoperoxidase được sử dụng để tìm xoắn khuẩn trong lát cắt mô bào của
thận, gan và các cơ quan khác.
2.6.1.2 Nuôi cấy vào môi trường thích hợp.
Lấy bệnh phẩm đem cấy vào các môi trường như Terkich, Korthoff. Để ở
28 - 30
o
C, sau vài ngày đem quan sát dưới kính hiển vi tụ quang nền đen.
2.6.1.3 Tiêm truyền cho động vật thí nghiệm
Sử dụng thí nghiệm là chuột nhảy, chuột Hamster hoặc chuột lang non,
không sử dụng chuột trên 30gram vì ít nhiều chúng đã cảm nhiễm với
Leptospira trong tự nhiên.
Tiêm vào xoang bụng 0,5 - 1ml nước tiểu đã trung hòa, máu đã được
chống đông hoặc huyễn dịch bệnh phẩm 1/10 pha trong EMJH hoặc BSA 1%.
Khi nhiệt độ cơ thể tăng hoặc tại thời điểm 5, 8, 10 và 14 ngày sau khi tiêm,

tiến hành lấy máu tim rồi nuôi cấy 2 - 3 giọt máu trong các môi trường nuôi
xoắn khuẩn. Nếu động vật nuôi thí nghiệm còn sống sau 21 ngày, tiến hành
gây chết nhân tạo và lấy máu làm phản ứng huyết thanh học (Phạm Sỹ Lăng
và Hoàng Văn Năm, 2012).
15

2.6.2 Chẩn đoán huyết thanh học
2.6.2.1 Phản ứng vi ngưng kết với kháng nguyên sống (MAT)
MAT là phản ứng huyết thanh học chẩn đoán bệnh xoắn khuẩn có ý
nghĩa, MAT cho kết quả nhanh chóng nên được sử dụng nhiều trong chẩn
đoán Leptospirosis. Tuy nhiên, người ta đã chứng minh có sự xuất hiện ngay
từ đầu bệnh loại kháng thể IgM có tính không đặc hiệu, gây ngưng kết rộng
cho nhiều chủng Leptospira, do đó có thể làm sai lệch kết quả thí nghiệm nếu
lấy máu ngay từ đầu bệnh. Kháng thể IgG sẽ xuất hiện từ ngày thứ 6 hoặc
muộn hơn. Trong khi tiến hành phản ứng cũng cần lưu ý lịch sử sử dụng
vaccine của đàn gia súc, vì việc tiêm phòng vaccine sẽ sản sinh kháng thể
kháng lại các serovar có trong vaccine.
Kháng nguyên sử dụng trong phản ứng là các chủng được nuôi cấy trong
môi trường thích hợp (ví dụ: Tween 80 BSA) ở nhiệt độ 29 ± 1
o
C trong
khoảng thời gian từ 4 - 8 ngày; sự nhân lên của xoắn khuẩn yêu cầu đạt 60 -
70% được xác định bằng máy đo quang phổ (spectrophotometer) có độ lọc
400nm (Phạm Sỹ Lăng, 2012). Kháng nguyên được bảo quản bằng cách cấy
truyền 7 - 15 ngày 1 lần vào môi trường mới và tiêm truyền cho chuột lang
non 3 tháng 1 lần.
Kháng thể là huyết thanh của con vật bị bệnh trên 5 ngày hoặc nghi bị
bệnh. Nếu huyết thanh dùng trong thí nghiệm được vận chuyển đi xa thì nên
thêm 1 - 2 giọt dung dịch axid afenic 5% vào 1ml huyết thanh để tránh làm
hỏng huyết thanh, cũng có thể cho huyết thanh vào bình trữ lạnh để bảo quản.

Nếu trong huyết thanh có kháng thể thì khi thực hiện phản ứng với kháng
nguyên sẽ có hiện tượng ngưng kết “hình mạng nhện” hoặc “cụm hình sao”.
Với phản ứng này, theo G. R Carter (1984) đánh giá kết quả như sau: ở
chó, heo, trâu bò hiệu giá 1/200 trở lên là dương tính nếu chưa được tiêm
phòng vaccine ngừa bệnh. Nếu con vật đã được tiêm phòng thì hiệu giá ngưng
kết 1/1600 trở lên là dương tính. Tuy nhiên, một số quốc gia trên thế giới qui
định mức dương tính ở hiệu giá thấp hơn như 1/100 ở Nga (1979), 1/100 -
1/200 ở Mỹ (B. Strotts, 1976).
2.6.2.2 Phản ứng ELISA
Phản ứng được sử dụng để phát hiện kháng thể với các kháng nguyên
chuẩn đã có. Thông thường, phản ứng có độ nhạy cao, nhưng độ đặc hiệu với
các serovar thấp hơn so với phản ứng vi ngưng kết (MAT). Đặc biệt, sử dụng
phản ứng ELISA xác định được IgG và IgM có trong huyết thanh của chó
kháng nhiều loại serovar khác nhau. IgM kháng Leptospira có thể phát hiện

×