ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THANH HẢI
NGUY£N T¾C §èI Xö B×NH §¼NG VíI C¸C Cæ §¤NG
TRONG C¤NG TY NI£M YÕT ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THANH HẢI
NGUY£N T¾C §èI Xö B×NH §¼NG VíI C¸C Cæ §¤NG
TRONG C¤NG TY NI£M YÕT ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐINH DŨNG SỸ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật kinh tế:
“Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các cổ đông trong công ty niêm
yết ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 04 năm 2015
Tác giả luận văn
Trần Thanh Hải
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ BÌNH ĐẲNG
ĐỐI VỚI CỔ ĐÔNG TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM 6
1.1. Khái niệm quản trị công ty 6
1.2. Công ty niêm yết và quyền lợi của các cổ đông trong công ty niêm yết 7
1.2.1. Khái niệm về công ty niêm yết theo pháp luật Việt Nam 7
1.2.2. Quyền lợi của các cổ đông trong công ty niêm yết 9
1.3. Nội dung và vai trò nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong
công ty niêm yết 10
1.3.1. Nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong công ty niêm yết 10
1.3.2. Vai trò nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong công ty niêm yết 13
1.3.3. Những điểm đặc thù của Nguyên tắc đối xử bình đẳng trong Công ty
niêm yết 16
1.4. Thông lệ quốc tế về nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông 17
1.4.1. Nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông tại Phi-líp-pin và Xing-ga-po 18
1.4.2. Các quy định của Đức về quản lý các giao dịch nội gián 19
1.4.3. Việc giám sát và thực thi các giao dịch với các bên có liên quan trong
công ty niêm yết tại Hoa Kỳ 21
1.4.4. Nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông theo bộ Nguyên tắc của OECD 25
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ BÌNH ĐẲNG VỚI
CÁC CỔ ĐÔNG TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG 32
2.1. Pháp luật về nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong công
ty niêm yết 32
2.1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật về nguyên tắc đối xử bình đẳng 32
2.1.2. Quy định của pháp luật về nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các cổ
đông trong công ty niêm yết ở Việt Nam 37
2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông tại
một số công ty niêm yết ở Việt Nam 47
2.2.1. Việc đảm bảo các cổ đông phải được đối xử bình đẳng trong các công
ty niêm yết ở Việt Nam 50
2.2.2. Việc ngăn cấm giao dịch nội gián trong các công ty niêm yết ở Việt Nam 53
2.2.3. Việc thành viên HĐQT/BKS/BGĐ phải công bố thông tin về lợi ích 54
2.2.4. Một số yếu tố tác động đến việc áp dụng Nguyên tắc đối xử bình đẳng
đối với các cổ đông trong các công ty niêm yết ở Việt Nam 55
2.3. Đánh giá pháp luật về nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông
trong công ty niêm yết ở Việt Nam và kết quả thực hiện 57
2.3.1. Những thành tựu đạt được 57
2.3.2. Những mặt hạn chế 61
Chương 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN NGUYÊN
TẮC ĐỐI XỬ BÌNH ĐẲNG VỚI CÁC CỔ ĐÔNG TRONG
CÔNG TY NIÊM YẾT 70
3.1. Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong công ty niêm yết 70
3.1.1. Khuyến nghị nhằm đảm bảo các cổ đông phải được đối xử bình đẳng 70
3.1.2. Khuyến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về ngăn cấm giao dịch nội
gián và lạm dụng quyền mua bán cá nhân 74
3.1.3. Khuyến nghị về việc công bố các thông tin về lợi ích của thành viên
HĐQT/BKS/BGĐ và các nhân sự chủ chốt của công ty 76
3.1.4. Khuyến nghị về việc hoàn thiện cơ chế giám sát, thực thi 77
3.2. Khuyến nghị cho các công ty niêm yết 79
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của QTCT nói chung và nguyên tắc đối
xử bình đẳng với cổ đông nói riêng 79
3.2.2. Chuẩn bị cơ sở vật chất và nguồn nhân lực nhằm thực hiện nguyên tắc
đối xử bình đẳng với cổ đông 82
3.2.3. Khuyến nghị về việc xây dựng khung thể chế cho doanh nghiệp nhằm
thúc đẩy thực hiện nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông 84
KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ đầy đủ
Nghĩa tiếng Việt
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BGĐ
Ban Giám đốc
BKS
Ban Kiểm soát
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đông
HĐQT
Hội đồng quản trị
HNX
Hanoi Stock Exchange
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
HNX30
30 Công ty vốn hóa lớn nhất tại
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
HOSE
HoChiMinh Stock Exchange
Sở giao dịch chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh
IFC
International Finance Corporation
Tổ chức Tài chính quốc tế
OCED
Organization for Economic Co-
operation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
QTCT
Quản trị công ty
SEC
Security and Exchange Commission
Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ
TTCK
Thị trường chứng khoán
UBCK
Ủy ban Chứng khoán
VN30
30 Công ty vốn hóa lớn nhất tại
Sở Sở giao dịch chứng khoán
tp.Hồ Chí Minh
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 1.1:
Giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài trong 3 năm
từ 2012 – 2014
15
Bảng 2.1:
Các Bộ luật, Nghị định, Thông tư có liên quan đến
nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông trong
công ty niêm yết
35
Bảng 2.2:
So sánh kết quả thẻ điểm QTCT trong ba năm 2010,
2011 và 2012
50
Bảng 2.3:
Khảo sát các công ty niêm yết có báo cáo thường niên
bằng tiếng anh
51
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO đầu năm 2007, các Doanh nghiệp Việt đã
có nhiều cơ hội tiếp cận các thị trường lớn trên thế giới: thị trường hàng hóa, thị
trường vốn,… song song với đó là rất nhiều khó khăn thách thức, cùng với sự cạnh
tranh quyết liệt của các doanh nghiệp nước ngoài. Đặc biệt những ảnh hưởng từ
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 và cuộc khủng hoảng của thị trường Bất
động sản trong nước đã làm cho các doanh nghiệp bộc lộ hết các điểm yếu của
mình. Một trong những yếu điểm nổi bật nhất là các vấn đề có liên quan đến hoạt
động Quản trị công ty (QTCT), bao gồm công bố thông tin, giao dịch nội gián,
bảo vệ cổ đông thiểu số, các giao dịch xung đột lợi ích… Những vấn đề này theo
cách gián tiếp, hay trực tiếp đều làm sói mòn niềm tin của các nhà đầu tư, cổ đông
vào các công ty.
Đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ảnh hưởng niềm
tin của các nhà đầu tư, các cổ đông tiềm năng là vô cùng sâu sắc, khi các công ty
niêm yết có số lượng cổ đông vô cùng lớn bao gồm cả các cổ đông trong và ngoài
nước. Việc suy giảm lòng tin của nhà đầu tư sẽ dẫn đến sự thoài vốn hàng loạt, thị
trường mất tính thanh khoản, khả năng tiếp cận thị trường vốn của các doanh
nghiệp không khả thi,… Điều này đã và đang xảy ra đối với thị trường chứng
khoán Việt Nam hiện nay, nơi có 700 công ty cổ phần có cổ phiếu niêm yết tại hai
sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Những tác động tiêu cực xuất phát từ niềm tin của các nhà đầu tư đối với
thị trường chứng khoán cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung, đòi hỏi sự nỗ lực
giải quyết không chỉ của riêng các công ty niêm yết, sở giao dịch chứng khoán hay
ủy ban chứng khoán nói riêng mà là sự phối hợp đồng bộ với các các cơ quan lập
pháp, nhằm xây dựng cơ chế QTCT tốt, là cơ sở để các doanh nghiệp lấy lại lòng
tin của các nhà đầu tư, ổn định cơ cấu bộ máy vận hành của các công ty, tạo nền
tảng để có thể đưa ra được các chính sách phát triển sản xuất kinh doanh bền vững,
2
nhằm đón đầu các cơ hội mới trong bối cảnh nền kinh tế đang có dấu hiệu phục hồi,
đồng thời tiếp cận thị trường vốn trong và ngoài nước. Điều này được coi một trong
những yếu tố sống còn của mỗi công ty và toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt khi thị
trường chứng khoán là kênh huy động vốn chi phí thấp hiệu quả nhất bên cạnh kênh
huy động vốn truyền thống khác là tín dụng ngân hàng.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết thực tế, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty niêm yết ở Việt
Nam”. Nguyên tắc bình đẳng là nền tảng của các mối quan hệ bền vững, là một
trong những nhân tố cốt lõi của QTCT tốt. Việc nghiên cứu đề tài góp phần đóng
góp ý kiến cho các cơ quan lập pháp hoàn thiện hệ thống pháp lý, nâng cao khả
năng nhận thức và quản trị của các công ty niêm yết, từ đó tạo ra môi trường công
bằng, bình đẳng cho các nhà đầu tư, cổ đông tiềm năng trong và ngoài nước, gây
dựng được lòng tin của các nhà đầu tư. Qua đó thúc đẩy sự phát triển của một thị
trường chứng khoán lành mạnh hơn, là kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh
tế, thu hút các nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc
đưa ra các quy định pháp luật phù hợp, hiệu quả và rõ ràng đối với nguyên tắc đối
xử bình đẳng với cổ đông trong công ty niêm yết tại Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài
cũng hướng đến mục tiêu đề xuất các kiến nghị nhằm thúc đẩy việc thực hiện và áp
dụng hiệu quả các nguyên tắc quản trị tốt trong lĩnh vực này.
Trên cơ sở mục tiêu nêu trên, đề tài xác định các nội dung nghiên cứu cụ thể
trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc Đối xử bình đẳng với cổ đông trong công ty niêm
yết ở Việt Nam đối chiếu với các thông lệ QTCT tốt và các bộ nguyên tắc quản trị
trên thế giới nhằm làm rõ các nội dung sau:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông
và bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trong lĩnh vực này;
Phân tích thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam có liên quan đến
nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông tại các công ty niêm yết tại Việt Nam
và kết quả thực hiện nguyên tắc này;
3
Đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp lý về nguyên tắc đối xử
bình đẳng và các khuyến nghị cho các công ty nhằm nâng cao chất lượng QTCT.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
3.1. Tính mới
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp lý liên quan đến thị trường chứng khoán nói chung và hoạt động quản trị
nội bộ của các công ty niêm yết nói riêng. Tuy nhiên, những nghiên cứu về việc
hoàn thiện các quy định pháp luật theo nguyên tắc Đối xử bình đẳng đổi với các cổ
đông vẫn còn hạn chế, đặc biệt trong một số nội dung cụ thể như bảo vệ quyền lợi
của cổ đông thiểu số, quản lý các giao dịch của ban điều hành, thành viên Hội đồng
quản trị (HĐQT)/Ban kiểm soát (BKS), hay quản lý các giao dịch nội gián, chưa
được đi sâu nghiên cứu cụ thể. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật cũng vẫn còn nhiều
bất cập, thiếu sót, thiếu tính khả thi cần được bổ sung hoàn thiện.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài sẽ cung cấp cơ sở lý thuyết một cách đầy đủ,
cụ thể về nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông tại công ty niêm yết, đồng thời
đưa ra đánh giá toàn diện về thực trạng của vấn đề này ở Việt Nam trên cả hai khía
cạnh pháp lý và thực tiễn. Từ đó, đề tài có thể đóng góp các khuyến nghị, giải pháp
phù hợp với tình hình thực tiễn, trên cơ sở áp dụng kinh nghiệm tiên tiến của nhiều
quốc gia trên thế giới. Đây là những nội dung chưa từng được nghiên cứu hoặc chưa
từng được đề cập cụ thể, chi tiết trong các nghiên cứu trước đây.
3.2. Ý nghĩa thực tế
Kết quả nghiên cứu đề tài nếu được lựa chọn và ứng dụng có thể đóng góp
vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp lý về Nguyên tắc đối xử bình đẳng và nâng
cao khả năng quản trị nội bộ của các công ty niêm yết. Kết quả này cũng đồng thời
góp phần vào việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu làm lành mạnh thị trường chứng
khoán, tạo được niềm tin của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, qua đó tăng
cường thu hút đầu tư vào thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Đặc biệt, đối với
các nhà đầu tư nước ngoài đang có sự hoài nghi rất lớn về tính minh bạch thông tin
và khả năng quản trị của các công ty niêm yết của Việt Nam, sự đổi mới này càng
4
có ý nghĩa quan trọng bởi nguồn vốn đầu tư của nhóm các nhà đầu tư này chiếm tỷ
trọng tương đối lớn đối với thị trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
các nội dung của Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các cổ đông và các công ty
niêm yết tại Việt Nam trên hai sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
và Hà Nội. Các công ty niêm yết nằm trong nghiên cứu là các công ty được đánh
giá theo Báo cáo thẻ điểm QTCT của Tổ chức tài chính quốc tế (IFC). Đề tài cũng
đề cập tới kinh nghiệm QTCT nói chung và nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ
đông nói riêng tại các quốc gia như: Đức, Hoa Kỳ, Xing-ga-po, Phi-líp-pin, Nhật
Bản, Trung Quốc….
5. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện các mục tiêu nghiên cứu, Luận văn đã tiến hành thu thập
thông tin thông qua các nguồn: các nhận định, ý kiến của các chuyên gia, nhà
nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan đến nội dung để tài; các tài liệu về QTCT,
các thông lệ QTCT tốt trên thế giới; các số liệu, chỉ số, đánh giá trên các trang web
điện tử, các báo cáo, dự án hợp tác của các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế
và các công ty trong phạm vi khảo sát.
Từ những thông tin thu thập được, Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: Phân tích, đánh giá, so sánh đối chiếu, tổng hợp, quy nạp, suy luận
logic để đưa ra các đánh giá, khuyến nghị cho nội dung nghiên cứu.
6. Tổng quan nghiên cứu
Tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài trước hết là những tài liệu về lý
luận chung liên quan đến quản trị nội bộ trong các công ty cổ phần, công ty niêm
yết trong và ngoài nước, để từ đó thấy được vai trò quan trọng và giá trị thực tế của
để tài nghiên cứu, tạo cơ sở lý luận vững chắc cho đề tài.
Tiếp theo, đề tài sử dụng các nguyên tắc quản trị, thông lệ QTCT tốt ở một
số nước trên thế giới và Hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan
đến QTCT niêm yết nói chung và các nội dung cụ thể liên quan đến các nội dung
5
nghiên cứu của đề tài như việc đối xử bình đẳng giữa các cổ đông, các quy định về
quản lý giao dịch nội gián, chế tài xử lý, quản lý giao dịch của ban điều hành, thành
viên HĐQT liên quan đến công ty. Việc đối chiếu nội dung của nguyên tắc QTCT,
thông lệ QTCT tốt với Hệ thống các quy phạm pháp luật của Việt Nam sẽ làm nổi
bật những kết quả đã đạt được trong việc xây dựng khung pháp lý cho QTCT ở Việt
Nam và những mặt còn hạn chế, còn thiếu cần phải bổ sung, điều chỉnh.
Luận văn cũng thực hiện khảo sát việc thực hiện Nguyên tắc đối xử bình
đẳng đối với các cổ đông trong các công ty niêm yết tại hai sở giao dịch chứng
khoán TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội thông qua các báo cáo thường niên, điều lệ và
trang thông tin điện tử của các công ty này, từ đó đánh giá thực trạng thực hiện
Nguyên tắc của các công ty, nhằm đưa ra những khuyến nghị giúp các công ty
hoàn thiện được Nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông nói riêng và nâng
cao trình độ quản trị công ty nói chung, thông qua việc xây dựng các quy chế,
thỏa thuận nội bộ.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các Mục: Danh mục ký hiệu, chữ viết tắt, Danh mục các bảng, Mở
đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 3 Chương, bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông
trong công ty niêm yết ở Việt Nam.
Chương 2: Pháp luật về Nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông
trong công ty niêm yết ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số Khuyến nghị nhằm hoàn thiện Nguyên tắc đối xử bình
đẳng với các cổ đông trong công ty niêm yết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ BÌNH ĐẲNG ĐỐI VỚI
CỔ ĐÔNG TRONG CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm quản trị công ty
“Quản trị công ty” là một thuật ngữ vô cùng phổ biến trong hoạt động kinh
tế toàn cầu hiện nay. Có thể nói không quá rằng “quản trị công ty” là một thước đo
đánh giá hoạt động của một công ty nói riêng, và là một phần vô cùng quan trọng
giúp các nhà đầu tư cá nhân hay tổ chức quốc tế đánh giá môi trường đầu tư của
một quốc gia có hấp dẫn hay không. QTCT là một chủ đề rộng, bao gồm tất cả các
khía cạnh có liên quan đến các cổ đông, các nhà quản lý, điều hành, các kiểm toán
viên, và các bên liên quan khác trong công ty. Có thể hiểu về “quản trị công ty”
theo nghĩa rộng và hẹp như sau:
Theo nghĩa rộng: “QTCT là tất cả các quy định, cơ chế nhằm tổ chức
công ty một cách có hiệu quả, vì lợi ích của chủ sở hữu công ty và của xã
hội” [16, tr.5,6].
Theo cách tiếp cận này QTCT không liên quan đến hoạt động tác nghiệp
điều hành các công việc hàng ngày của công ty, mà chủ yếu chỉ xác định quyền lợi
và trách nhiệm của các chủ thể quản lý, giám sát công ty, cũng như cơ chế đảm bảo
thực hiện các quyền lợi và nghĩa vụ này.
Theo nghĩa hẹp:
QTCT được hiểu là chế định về quản lý nội bộ công ty. Chúng điều
chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể quản lý, giám sát trong công ty với
nhau và với chủ sở hữu công ty, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực
và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro không cần thiết cho công ty và chủ sở
hữu công ty [16, tr.5,6].
Theo định nghĩa này QTCT có phạm vi hẹp hơn, chỉ tập trung chủ yếu vào
việc xác định quyền hạn, trách nhiệm của các bên quản lý và giám sát trong công
ty, đồng thời xây dựng mối quan hệ giữa các bên này với nhau và với chủ sở hữu
của công ty.
7
Hệ thống pháp lý của Việt Nam cũng đã từng đưa ra khái niệm về QTCT tại
Điểm a Khoản 1 Điều 2 Quy chế QTCT áp dụng cho các công ty niêm yết ban hành
kèm theo Quyết định số: 12/2007/QĐ-BTC về việc ban hành quy chế QTCT áp
dụng cho các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán/trung tâm giao dịch
chứng khoán, theo đó: “QTCT là hệ thống các quy tắc để đảm bảo cho công ty
được định hướng điều hành và được kiểm soát một cách có hiệu quả vì quyền lợi
của cổ đông và những người liên quan đến công ty…” [2, Điều 2].
Pháp luật về QTCT của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở vận dụng Các
nguyên tắc quản trị của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ban hành lần
đầu năm 1999 và được sửa đổi bổ sung năm 2004. Tính đến nay, khái niệm về
QTCT được OECD đưa ra trong bộ nguyên tắc là khái niệm rộng nhất và được áp
dụng phổ biến nhất về QTCT, theo đó:
QTCT bao gồm việc thiết lập các mối quan hệ giữa BGĐ, HĐQT, cổ
đông và các bên có quyền lợi liên quan khác. QTCT cũng thiết lập cơ cấu
qua đó giúp xây dựng mục tiêu của công ty, xác định phương tiện để đạt
được các mục tiêu đó, và giám sát hiệu quả thực hiện mục tiêu [18, tr.13]
Như vậy, có thể thấy QTCT tập trung vào các cơ cấu và các quy trình của
công ty nhằm đảm bảo sự bình đẳng, tính minh bạch, trách nhiệm và tính giải trình,
xuất phát từ việc tách rời quyền sở hữu và quyền kiểm soát. QTCT thường hay bị
nhầm lẫn với quản lý công ty, tuy nhiên, khác với hoạt động quản trị, quản lý công
ty tập trung vào các công cụ cần thiết để điều hành doanh nghiệp. QTCT có vị trí
cao hơn trong việc đảm bảo công ty được quản lý theo cách thức nhằm đem lại lợi
ích cao nhất cho các cổ đông.
1.2. Công ty niêm yết và quyền lợi của các cổ đông trong công ty niêm yết
1.2.1. Khái niệm về công ty niêm yết theo pháp luật Việt Nam
Theo Điểm b Khoản 1 Điều 2 Quy chế QTCT áp dụng cho các công ty niêm
yết ban hành kèm theo Quyết định số: 12/2007/QĐ-BTC về việc ban hành quy chế
QTCT áp dụng cho các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán/trung tâm
giao dịch chứng khoán, công ty niêm yết được định nghĩa như sau: “Công ty niêm
8
yết là công ty cổ phần được chấp thuận niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao dịch Chứng
khoán/ Trung tâm Giao dịch Chứng khoán trên lãnh thổ Việt Nam” [2, Điều 2].
Như vậy, Công ty niêm yết được hiểu trước hết là công ty cổ phần, và thỏa
mãn các điều kiện để được niêm yết cổ phiếu trên các trung tâm giao dịch chứng
khoán hoặc Sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam. Hiện nay tại Việt Nam có hai
sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
(HOSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX). Điều kiện để được niêm yết
cổ phiếu tại hai sở chứng khoán được quy định tại Nghị định 58/2012/NĐ-CP Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán. Theo đó tại Khoản 1 Điều 53 của
Nghị định này, điều kiện để một công ty được niêm yết cổ phiếu tại sở giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh bao gồm:
a) Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký
niêm yết từ 120 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Có ít nhất 02 năm hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần
tính đến thời điểm đăng ký niêm yết (ngoại trừ doanh nghiệp nhà nước
cổ phần hóa gắn với niêm yết); tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ
sở hữu (ROE) năm gần nhất tối thiểu là 5% và hoạt động kinh doanh
của hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi; không có các
khoản nợ phải trả quá hạn trên 01 năm; không có lỗ lũy kế tính đến
năm đăng ký niêm yết; tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán
báo cáo tài chính;
c) Công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên HĐQT,
BKS, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc),
Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan;
d) Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít
nhất ba trăm (300) cổ đông không phải cổ đông lớn nắm giữ, trừ trường
hợp doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy
định của Thủ tướng Chính phủ;… [7, Điều 53].
9
Điều kiện để một công ty được niêm yết cổ phiếu tại sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội theo quy định tại khoản 1 Điều 54 của Nghị định này:
a) Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký
niêm yết từ 30 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
b) Có ít nhất 01 năm hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần
tính đến thời điểm đăng ký niêm yết (ngoại trừ doanh nghiệp nhà nước
cổ phần hóa gắn với niêm yết); tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở
hữu (ROE) năm liền trước năm đăng ký niêm yết tối thiểu là 5%; không
có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 01 năm, không có lỗ lũy kế tính
đến thời điểm đăng ký niêm yết; tuân thủ các quy định của pháp luật về
kế toán báo cáo tài chính;
c) Tối thiểu 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do
ít nhất 100 cổ đông không phải cổ đông lớn nắm giữ, trừ trường hợp
doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy định
của Thủ tướng Chính phủ;… [7, Điều 54].
Qua các điều kiện trên có thể thấy các công ty niêm yết là các công ty có quy
mô lớn cả về số lượng cổ đông, vốn điều lệ, hiểu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
và có yêu cầu chặt chẽ hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay.
Ở một khía cạnh nào đó có thể đánh giá các công ty niêm yết là các công ty tốt tiêu
biểu của nền kinh tế. Thông qua các công ty niêm yết có thể xác định được trình độ
QTCT của các công ty tại Việt Nam nói chung, và mức độ phù hợp của các quy
định pháp lý về lĩnh vực này.
1.2.2. Quyền lợi của các cổ đông trong công ty niêm yết
Trước hết, cổ đông trong các công ty niêm yết sẽ có đầy đủ các quyền như cổ
đông trong các công ty cổ phần được quy định trong Luật Doanh nghiệp (2005) và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Một số quyền cơ bản của cổ đông phổ thông được
quy định tại Điều 79 Luật Doanh nghiệp 2005.
Ngoài các quyền được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005, các cổ đông
trong công ty niêm yết còn có các quyền quy định trong Luật chứng khoán 2006;
10
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật chứng khoán năm 2010; và các văn bản
hướng dẫn thi hành, đặc biệt là các quyền được quy định trong Thông tư số
121/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính Quy định về QTCT áp dụng cho các công ty
đại chúng và Điều lệ mẫu kèm theo thông tư này. Nổi bật trong đó là các quyền:
a) Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần đã được thanh toán đầy
đủ và được ghi trong sổ cổ đông của công ty, trừ một số trường hợp bị
hạn chế chuyển nhượng theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và
quyết định của ĐHĐCĐ;
b) Quyền được đối xử bình đẳng: Mỗi cổ phần của cùng một loại
đều tạo cho cổ đông sở hữu các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau.
Trường hợp công ty có các loại cổ phần ưu đãi, các quyền và nghĩa vụ
gắn liền với các loại cổ phần ưu đãi phải được công bố đầy đủ cho cổ
đông và phải được ĐHĐCĐ thông qua;
c) Quyền được thông báo đầy đủ thông tin định kỳ và thông tin
bất thường về hoạt động của công ty;
d) Quyền và trách nhiệm tham gia các cuộc họp ĐHĐCĐ và thực
hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện được ủy quyền
hoặc thực hiện bỏ phiếu từ xa;
đ) Quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với
tỷ lệ sở hữu cổ phần trong công ty [3].
1.3. Nội dung và vai trò nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong
công ty niêm yết
1.3.1. Nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong công ty niêm yết
1.3.1.1. Nguyên tắc bình đẳng
Theo Từ điển Bách khoa, “bình đẳng” được định nghĩa là sự “ngang hàng
nhau về địa vị, về quyền lợi”.
Trong hệ thống pháp lý, “bình đẳng” được ghi nhận là nguyên tắc cơ bản
được thể hiện thông qua quyền bình đẳng trước pháp luật. Đây là một trong các
quyền của con người, và là quyền được xác lập tư cách con người trước pháp luật;
không bị pháp luật phân biệt đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và
11
được pháp luật bảo vệ như nhau. Quyền này được xem xét ở các cấp độ khác nhau.
Trước hết, quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một chủ
thể tự nhiên với tư cách là một con người buộc phải có và cần phải có. Thứ hai,
quyền bình đẳng trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Thứ ba, người
ta thực hiện quyền bình đẳng đó bằng công cụ pháp luật thông qua việc thể chế hóa
và tạo ra cơ chế bảo vệ khi quyền này bị xâm phạm [10].
Quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi trong Tuyên ngôn Quốc tế về
nhân quyền 1948. Điều 7, Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất cứ sự
phân biệt nào” [10].
Quyền bình đẳng trước pháp luật đã được đưa vào Công ước về quyền dân
sự, chính trị 1966 với tư cách là một văn bản quy phạm pháp luật quốc tế có giá trị
ràng buộc pháp lý với các quốc gia tham gia và được cụ thể hóa hơn so với Tuyên
ngôn nhân quyền 1948. Không những vậy, đây còn là nguyên tắc của luật nhân
quyền quốc tế được thể hiện ở nhiều công ước quốc tế khác nhau về các quyền con
người. Không chỉ khẳng định và chi tiết hóa, Công ước quyền con người 1966 còn
tạo ra cơ chế để bảo vệ quyền con người. Điều 26, 27 Công ước này quy định:
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và được pháp luật bảo
vệ bình đẳng không kỳ thị. Trên phương diện này, luật pháp cấm mọi kỳ
thị và bảo đảm cho tất cả mọi người quyền được bảo vệ một cách bình
đẳng và hữu hiệu chống mọi kỳ thị về chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn
ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội,
tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào [10].
Ý thức được tầm quan trọng của Nguyên tắc bình đẳng các cơ quan lập pháp
đã thể hiện nội dung của Nguyên tắc này một cách xuyên suốt trong hệ thống pháp
lý của Việt Nam từ văn bản pháp lý cao nhất là Hiến pháp đến các văn bản pháp
luật như Luật Dân sự, Hình sự v.v…Cụ thể, theo Điều 16, Hiến pháp 2013 quy
định: "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội" [10]. Bình đẳng cũng
đồng thời được quy định là một trong mười nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự:
12
Điều 5: Nguyên tắc bình đẳng “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình
đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn
cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không
bình đẳng với nhau” [10].
Như vậy, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật phản ánh những nội dung căn
bản như sau:
Thứ nhất, tất cả mọi người đều có vị thế ngang nhau trước pháp luật và có
quyền không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật. Quyền bình đẳng trước
pháp luật được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, nhất là quyền bình đẳng trong lĩnh
vực pháp lý. Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi giới tính, dân
tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giàu nghèo, thành phần xã hội, địa vị xã hội… Trong cùng
một điều kiện như nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư
cách pháp lý như nhau.
Thứ hai, pháp luật là thước đo chuẩn mực của bình đẳng, là công cụ để bảo
đảm sự bình đẳng giữa con người với con người. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp
luật đều bị xử lí bằng các chế tài theo quy định của pháp luật.
1.3.1.2. Nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong công ty niêm yết
Trong hoạt động QTCT, nguyên tắc bình đẳng cũng là nền tảng cơ bản giúp
cho hoạt động quản trị đạt hiệu quả tốt nhất, tạo ra sự liên kết chặt chẽ, bền vững
giữa cổ đông và công ty cũng như các mối quan hệ khác trong công ty.
Chính vì vậy, Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các cổ đông trong QTCT
đã được quy định là một trong sáu nguyên tắc cơ bản theo Điểm a Khoản 1 Điều 2
Quy chế QTCT áp dụng cho các công ty niêm yết ban hành kèm theo Quyết định
số: 12/2007/QĐ-BTC về việc ban hành quy chế QTCT áp dụng cho các công ty
niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán/ trung tâm giao dịch chứng khoán, sáu
nguyên tắc bao gồm:
….
- Đảm bảo một cơ cấu quản trị hiệu quả;
- Đảm bảo quyền lợi của cổ đông;
13
- Đối xử công bằng giữa các cổ đông;
- Đảm bảo vai trò của những người có quyền lợi liên quan đến
công ty;
- Minh bạch trong hoạt động của công ty;
- HĐQT và BKS lãnh đạo và kiểm soát công ty có hiệu quả [2, Điều 2].
Trong khuôn khổ QTCT, nguyên tắc bình đẳng đòi hỏi phải bảo vệ quyền lợi
của các cổ đông và đảm bảo sự đối xử bình đẳng đối với mọi cổ đông, kể cả các cổ
đông nhỏ lẻ và các cổ đông nước ngoài. Tất cả các cổ đông đều phải được đảm bảo
cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình nếu quyền lợi của họ bị xâm phạm.
Cũng như nguyên tắc đối xử bình đẳng nói chung, Nguyên tắc đối xử bình
đẳng với các cổ đông trong công ty niêm yết trước hết được thể trong các quy phạm
pháp luật trong các văn bản pháp luật nói chung và chủ yếu trong các văn bản pháp
luật chuyên ngành: Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng
dẫn thông qua các điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ của các cổ đông của
BGĐ, HĐQT, BKS…, kèm theo đó là các quy định liên quan đến cơ chế giám sát
và thực thi để các cổ đông thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đặc
thù của QTCT, ngoài việc chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật, các mối
quan hệ trong công ty còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản quy chế quản trị nội
bộ với giá trị pháp lý của các thỏa thuận, quy chế nội bộ trong công ty được pháp
luật thừa nhận một cách hợp pháp, có giá trị như các văn bản pháp luật đối với bản
thân doanh nghiệp đó. Chính vì vậy, khi xem xét nguyên tắc đối xử bình đẳng với
các cổ đông trong công ty niêm yết, ngoài việc xem xét đến các quy định của pháp
luật còn phải xem xét nội dung các quy chế, thỏa thuận nội bộ của công ty để thấy
được thực trạng và vai trò của nguyên tắc này trong hoạt động quản trị công ty nói
chung và đối với mỗi công ty nói riêng.
1.3.2. Vai trò nguyên tắc đối xử bình đẳng với cổ đông trong công ty niêm yết
Với tư cách là người sở hữu cổ phần, dù là cá nhân hay tổ chức, nhà đầu tư
ngày càng đòi hỏi được có tiếng nói trong hoạt động QTCT. Mặc dù cá nhân từng
cổ đông thường chưa cố gắng thực hiện quyền quản trị của mình, nhưng họ thể hiện
14
sự quan tâm tới việc nắm quyền kiểm soát của một số cổ đông chủ chốt và ban lãnh
đạo, cũng như việc đối xử bình đẳng đối với các cổ đông. Nguyên tắc này giúp duy
trì niềm tin của các cổ đông với công ty, tạo ra sự gắn bó lâu dài của cổ đông với
doanh nghiệp. Nhờ đó, công ty có nền tảng ổn định hơn, có thể phát triển các kế
hoạch, mục tiêu chiến lược lâu dài trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt
đối với các công ty niêm yết, việc sở hữu cổ phần không tập trung vào một số cổ
đông nhất định mà được phân tán trong hàng trăm cổ đông đơn lẻ, thì điều này càng
trở nên quan trọng. Đối với các công ty này, việc để mất niềm tin của các cổ đông
sẽ dẫn đến sự rút lui của các dòng vốn bằng việc các cổ đông sẽ tìm cách chuyển
nhượng cổ phần cho các cổ đông khác hoặc yêu cầu chính công ty mua lại cổ phần
của mình theo quy định của pháp luật. Nếu điều này xảy ra, có thể dễ dàng hình
dung thấy công ty sẽ rơi vào hoàn cảnh khó khăn cả trong hoạt động QTCT cũng
như trong các hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp.
Việc tạo ra môi trường bình đẳng với các cổ đông không chỉ giúp các công
ty niêm yết duy trì sự tin tưởng của các cổ đông hiện hữu, mà còn giúp công ty tiếp
cận với các cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng khác. Đây là một cách tiếp cận nguồn
vốn giá rẻ hiệu quả cho các công ty, khi hiện nay nguồn vốn thông qua kênh tín
dụng truyền thống như ngân hàng, vay mượn không dễ tiếp cận, kèm theo đó chi
phí vốn của doanh nghiệp cũng giảm đáng kể, tạo động lực cho các công ty hoạt
động sản xuấ kinh doanh hiệu quả hơn.
Trong xu thế chung của nền kinh tế khu vực cũng như trên thế giới trong
việc phát triển thị trường kinh tế mở, một mặt các công ty đang đứng trước cơ hội
rất lớn để tiếp cận thị trường vốn toàn cầu, mặt khác cũng không tránh được việc
các nhà đầu tư nước ngoài muốn xâm nhập doanh nghiệp thông qua việc nắm giữ cổ
phần. Bảng 1.1 sau cho thấy thống kê của sàn chứng khoán HOSE về giao dịch của
các nhà đầu tư nước ngoài trong 3 năm kể từ 2012 đến năm 2014:
15
Bảng 1.1: Giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài trong 3 năm từ 2012 – 2014
Năm
Mua/bán
(1000
vnđ)
Khớp lệnh
Thỏa thuận
Toàn Thị trường
Nhà đầu tư
nước ngoài
Tỷ lệ
%
Toàn Thị
trường
Nhà đầu tư
nước ngoài
Tỷ lệ
%
2014
Mua
288.169.091.949
28.509.383.739
9,89
41.316.882.759
17.323.465.724
41,93
Bán
24.214.473.707
8,40
16.001.777.685
38,73
2013
Mua
219.596.388.036
24.280.952.658
11,06
46.209.980.549
20.212.431.554
43,74
Bán
21.678.394.040
9,87
17.305.048.349
37,45
2012
Mua
162.633.523.710
20.322.228.982
12,50
57.074.902.384
12.028.874.776
21,08
Bán
15.751.011.148
9,68
13.278.845.144
23,27
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ Báo cáo của HOSE)
Qua bảng thống kê trên, có thể thấy tỷ lệ giao dịch của các nhà đầu tư nước
ngoài chiếm một phần không nhỏ trên thị trường chứng khoán. Nếu tính giá trị giao
dịch thỏa thuận, giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài có lúc đã đạt mức chiếm
43,74% toàn thị trường (2013), trong đó giao dịch khớp lệnh cũng đạt tỷ lệ cao nhất
ở mức 12,5% (2012). Những con số trên phản ánh mối quan tâm của các nhà đầu tư
nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam mà cụ thể hơn là các công ty niêm yết trên
hai sàn chứng khoán HOSE VÀ HNX. Điều này đặt ra cơ hội cũng như thách thức
rất lớn cho chính phủ cũng như các công ty niêm yết nếu muốn tận dụng được
những nguồn vốn bên ngoài này. Đối với chính phủ, cần hoàn thiện hệ thống pháp
lý nhằm tạo sự bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia vào thị trường
Việt Nam. Đối với các công ty niêm yết, phải xây dựng quy trình QTCT kết hợp
giữa việc tuân thủ pháp luật với việc học tập các thông lệ quản trị tốt nhằm tạo được
niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài rằng họ sẽ được đối xử bình đẳng như các
cổ đông khác của công ty.
Thông qua việc tạo dựng niềm tin của các cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng
sẽ góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Đây là một tài sản vô hình, góp
phần quan trọng làm nên giá trị thương hiệu của một công ty. Những công ty có
uy tín không chỉ tạo thiện cảm với các nhà đầu tư mà còn đối với người tiêu
dùng, qua đó gián tiếp nâng cao hiệu kinh doanh của công ty. Đây là một lợi thế
16
cạnh tranh đáng kể, trong thời buổi kinh tế thị trường, các công ty có sự cạnh
tranh quyết liệt với nhau.
1.3.3. Những điểm đặc thù của Nguyên tắc đối xử bình đẳng trong Công
ty niêm yết
1.3.3.1. Số lượng cổ đông
Theo quy định hiện nay các công ty niêm yết có số lượng cổ đông rất lớn, tối
thiểu đối với các công ty niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Hà Nội: 100 cổ
đông, Số lượng này tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là 300
cổ đông. Những cổ đông này khi đầu tư vào công ty đều mong muốn công ty hoạt
động hiệu quả và đem lại lợi nhuận cao tương ứng số cổ phần đã đầu tư. Điều này
làm cho Nguyên tắc đối xử bình đẳng càng có vai trò vô cùng quan trọng để đảm
bảo rằng các cổ đông sở hữu cùng loại cổ phần đều được đối xử bình đẳng như
nhau, Nguyên tắc này có vai trò trung tâm trong việc tạo ra sự ổn định của công ty
và xây dựng niềm tin của cổ đông. Trong những công ty không niêm yết chủ yếu là
các công ty vừa và nhỏ, các công ty gia đình hoặc các công ty nhà nước cổ phần
hóa, mối quan hệ giữa các nhà đầu tư, cổ đông trong các công ty này có đặc thù
nhất định như: anh chị em, bạn bè, hoặc quan hệ cấp trên cấp dưới theo mệnh lệnh
hành chính. Vì vậy Nguyên tắc đối xử bình đẳng chưa được xem xét và đánh giá
đúng vai trò.
1.3.3.2. Cơ cấu tổ chức của công ty niêm yết
Các công ty niêm yết có cơ cấu tổ chức chặt chẽ với nhiều hệ thống quản lý
hơn so với các công ty không niêm yết, bao gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT, BGĐ, GKS.
Nguyên tắc đối xử bình đẳng không chỉ áp dụng trong phạm vi các cổ đông mà còn
đối với cả bộ máy hoạt động nắm quyền kiểm soát công ty. Những nội dung của
Nguyên tắc đối xử bình đẳng đòi hỏi phải có sự rõ ràng, đồng thời cũng đảm bảo sự
hài hòa linh hoạt, đảm bảo cho bộ máy vận hành thông suốt.
1.3.3.3. Hệ thống văn bản pháp luật và cơ quan giám sát
Trong công ty niêm yết ngoài việc chịu sự điều chỉnh chung của Luật doanh
17
nghiệp còn chịu sự điều chỉnh riêng của các Luật chuyên ngành là Luật chứng
khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành, cá biệt có những nội dung được quy
định trong Luật dân sự hoặc hình sự. Do tính chất hoạt động và quy mô công ty.
Các quy định của pháp luật áp dụng cho các công ty niêm yết nói chung và cho
Nguyên tắc đối xử bình đẳng nói riêng được quy định chặt chẽ với nhiều điều khoản
hơn so với các công ty không niêm yết.
1.3.3.4. Quy mô giao dịch và lĩnh vực hoạt động
Do đặc thù về quy mô cũng như khả năng giao dịch trên sàn chứng khoán,
việc giao dịch mua bán cổ phần của các công ty niêm yết được thực hiện liên tục
nhiều khi với số lượng rất lớn, ngoài ra trong các hoạt động kinh doanh các công ty
niêm yết cũng thường ký kết các hợp đồng với giá trị lớn. Những điều này tạo ra rất
nhiều rủi ro nếu những bên liên quan muốn thực hiện các hành vi vi phạm nhằm tìm
kiếm lợi ích cá nhân. Dẫn đến việc các quy định liên quan đến giao dịch của các bên
liên quan như: HĐQT, BGĐ, BKS… phải đảm bảo hết sức chặt chẽ, đồng thời có
chế tài nghiêm khắc, giúp các giao dịch được thực hiện minh bạch, đảm bảo nguyền
lợi công bằng cho tất cả các cổ đông của công ty và cả quyền lợi của công ty.
Những quy định về giao dịch nội gián hay công bố thông tin về giao dịch của các
bên liên quan thường ít đặt ra với các công ty không niêm yết, nhưng lại vô cùng
quan trọng và là phần không thể thiếu trong nội dung Nguyên tắc đối xử bình đẳng
với các cổ đông trong công ty niêm yết.
1.4. Thông lệ quốc tế về nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông
Xét về mặt lịch sử, nền tảng khoa học của nước ta về QTCT nói chung và về
Nguyên tắc đối xử bình đẳng với các cổ đông trong công ty niêm yết nói riêng còn
nhiều hạn chế, chủ yếu chỉ được hình thành từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp
2005 và chỉ thực sự được các công ty quan tâm nhiều hơn từ sau khủng hoảng kinh
tế 2008. Những tri thức này không thể so sánh với các nước có nền kinh tế phát
triển và có nền tảng khoa học pháp lý về QTCT từ rất lâu đời. Thêm vào đó, các lý
thuyết về hoạt động quản trị doanh nghiệp cũng đã được ứng dụng lâu dài trong