Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

đánh giá hiện trạng hệ sinh thái đất ngập nước và đề xuất giải pháp bảo vệ các vùng sinh thái dễ bị tổn thương tại tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.79 MB, 128 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM










NGUYỄN VĂN MẠNH



ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG HỆ SINH THÁI ĐẤT NGẬP NƯỚC
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO VỆ CÁC VÙNG SINH THÁI
DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TẠI TỈNH BẮC GIANG




CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ: 60.64.03.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRỊNH QUANG HUY








HÀ NỘI – 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng
trong bất kỳ một nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn



Nguyễn Văn Mạnh
























Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng của bản thân tôi đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, bạn bè và người thân.
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trịnh Quang
Huy - Phó Trưởng khoa Môi trường – Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành bản
luận văn này.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Sở Tài nguyên và Môi trường;
Chi cục Bảo vệ môi trường tỉnh; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Phòng
Nông và PTNT, Phòng Kinh tế hạ tầng, Phòng Tài nguyên và MT các huyện, thành

phố, UBND các xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; Trung tâm Kỹ thuật tài nguyên đất
và môi trường – Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Bên cạnh đó tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả người thân, bạn
bè và đồng nghiệp, những người luôn bên cạnh động viên giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và thực hiện bản luận văn này.

Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn



Nguyễn Văn Mạnh






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

MỤC LỤC
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục ivii
Danh mục bảng vi
Danh mục hình vii
Danh mục viết tắt viii
MỞ ĐẦU 1


C
HƯƠNG 1
T

N
G

Q
UAN
T
À
I
L
I

U
4

1.1. Tóm tắt lịch sử nghiên cứu về đất ngập nước 4
1.1.1. Khái quát về đất ngập nước 4
1.1.2. Trên thế giới 5
1.1.3. Ở Việt Nam 8
1.2. Hiện trạng quản lý đất ngập nước ở Việt Nam 12
1.2.1. Quản lý đất ngập nước ở cấp trung ương 14
1.2.2. Quản lý đất ngập nước ở cấp tỉnh 15
1.1.3. Quản lý đất ngập nước ở tỉnh Bắc Giang 15
1.3. Một số tồn tại trong quản lý đất ngập nước hiện nay 15
1.3.1. Về văn bản luật pháp 15
1.3.2. Quản lý đất ngập nước 17

CHƯƠNG 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 19
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu: 19
2.1.2. Phạm vị nghiên cứu 19
2.2. Nội dung nghiên cứu 19
2.3. Phương pháp nghiên cứu 19
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 19
2.3.2. Phương pháp kế thừa 19
2.3.3. Phương pháp điều tra thực địa 20
2.3.4. Phương pháp khảo sát, lấy mẫu hiện trường 20
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

2.3.5. Phương pháp phân tích các thông số đối với nước mặt 21
2.3.6. Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu 22
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 23

3.1. Điều kiện kinh tế tự nhiên xã hội 23
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 23
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 25
3.2. Hiện trạng các vùng đất ngập nước trên địa bàn tỉnh 27
3.2.1. Phân bố hệ sinh thái đất ngập nước sông ngòi 28
3.2.2. Phân bố hệ sinh thái đất ngập nước dựa trên diện tích nuôi
trồng thủy sản và canh tác lúa 30
3.2.3. Phân bố hệ sinh thái đất ngập nước các hồ chứa 31
3.2.4. Hiện trạng đa dạng sinh học tại các vùng ngập nước trên địa
bàn tỉnh 37
3.3. Hiện trạng chất lượng nước, đa dạng sinh học phiêu sinh động vật tại
các hồ chứa 47

3.3.1. Hiện trạng chất lượng nước tại một số khu vực đất ngập nước
hồ chứa trên địa bản tỉnh 47
3.3.2. Đánh giá chỉ tiêu đa dạng sinh học chỉ thị cho chất lượng nước 52
3.4. Hiện trạng khai thác và áp lực tới các vùng đất ngập nước 57
3.5. Hiện trạng quản lý và bảo tồn các vùng đất ngập nước 59
3.6. Đề xuất giải pháp bảo vệ các vùng sinh thái đất ngập nước trên địa bàn tỉnh 61
3.6.1. Giải pháp kỹ thuật 61
3.6.2. Giải pháp về giáo dục, tuyên truyền 63
3.6.3. Giải pháp quản lý 64
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
PHỤ LỤC HÌNH

PHỤ LỤC TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHIẾU ĐIỀU TRA
PHỤ LỤC PHIẾU ĐIỀU TRA

PHỤ LỤC PHIẾU KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang
3.1. Diện tích đất trồng lúa và diện tích nuôi trồng thủy sản ở các huyện 31
3.2. Thống kê các hồ có dung tích lớn hơn 500,000 m3 36
3.3. Mật độ động vật nổi tại một số khu vực của tỉnh 38
3.4. Cấu trúc thành phần loài thực vật nổi vùng nghiên cứu 39
3.5. Các nhóm côn trùng tại các khu vực đất ngập nước tỉnh 40
3.6. So sánh số lượng chim của tỉnh Bắc Giang so với Việt Nam 41

3.7. Tổng hợp số lượng các họ, giống và loài ở các Bộ chim 42
3.8. Số lượng các nhóm Lưỡng cư, Bò sát ở Bắc Giang 44
3.9. Số lượng các loài Lưỡng cư, Bò sát theo khu vực đồng bằng, trung
du và miền núi ở tỉnh Bắc Giang 45
3.10. Số lượng loài trong các bộ Cá ở tỉnh Bắc Giang 46
3.11. Chất lượng nước tại một số hồ chứa 48
3.12. Chất lượng nước tại một số hồ chứa (Các chỉ tiêu kim loại nặng) 51
3.13. Chất lượng nước tại một số hồ chứa (Các chỉ tiêu khác) 52
3.14. Mật độ động vật nổi ở các hồ chứa 54
3.15. Thành phần loài động vật nổi ở 16 hồ, hồ chứa 55


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang
3.1. Sự phân bố các hồ chứa trên địa bàn tỉnh 32
3.2. Số lượng, phân bố các hồ địa bàn tỉnh (dung tích < 500,000 m3) 33
3.3. Số lượng, phân bố các hồ địa bàn tỉnh (dung tích >500,000 m3) 34
3.4. Hồ Cấm Sơn – Huyện Lục Ngạn 35
3.5. Hồ Khuôn Thần – Huyện Lục Ngạn 35
3.6. Phân bố các loài chim theo khu vực ở tỉnh Bắc Giang 42
3.7. Thông số TSS và PO43- tại các hồ giữa các huyện trên địa bàn tỉnh 49
3.8. Thành phần loài động vật phù du trong một số hồ 54
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BTVĐNN Bảo tồn vùng đất ngập nước
CTY TNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn
ĐDSH Đa dạng sinh học
ĐNN Đất ngập nước
HST Hệ sinh thái
KBT Khu bảo tồn
NĐ-CP Nghị định chính phủ
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
QĐ-TT Quyết định thủ tướng
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
TNMT Tài nguyên và môi trường
UBND Ủy ban nhân dân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Giang là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bộ, với diện tích tự
nhiên khoảng 3.849 km² chiếm 1,16% diện tích tự nhiên của cả nước. Địa hình
chủ yếu là đồi núi, chiếm hơn 72% diện tích của cả tỉnh. Bắc Giang có một khu
hệ sinh thái đất ngập nước rộng khắp với 3 con sông lớn chảy qua với tổng chiều
dài 347 km, lưu lượng lớn và có nước quanh năm cùng nhiều hồ chứa lớn với
tổng diện tích gần 5.000 ha (hồ Cấm Sơn, hồ Suối Nứa, hồ Hố Cao, hồ Cây
Đa và hồ Suối Mỡ) và hàng trăm các hồ, ao có dung tích nhỏ nằm rải rác khắp
các huyện. Các hồ chứa là một dạng đất ngập nước điển hình, tuy là dạng đất
ngập nước nhân tạo nhưng nó mang đầy đủ các chức năng của đất ngập nước như
kiểm soát lũ, giảm xói mòn, là nơi tích trữ các chất dinh dưỡng, nơi sinh sống
của đa dạng các loài động thực vật và còn là một hệ thống xử lý chất ô nhiễm

bằng sức chứa và khả năng tự làm sạch đặc trưng. Bên cạnh đó, ngoài việc đóng
vai trò là một mắt xích quan trọng trong vòng tuần hoàn dinh dưỡng, các hồ chứa
còn là một dạng môi trường có tính sản xuất cao, được tận dụng khai thác hiệu
quả cho canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt xung quanh
các hồ, hồ chứa tạo nên những rừng cây xanh tốt quanh năm là nơi chú ngụ của
nhiều loài chim, đa dạng về các loại động thực vật, với những chức năng môi
trường và sinh thái đặc trưng đem lại nhiều giá trị di sản.
Tuy vậy, trong những năm gần đây do việc đẩy nhanh các hoạt động phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh với nhiều chính sách phát triển các khu công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, việc chuyển đổi đất rừng và các vùng đất ngập nước thành
đất canh tác nông nghiệp… đã dẫn đến việc mất hay phá vỡ các hệ sinh thái và
các sinh cảnh tự nhiên, làm suy giảm đa dạng sinh học và đã gây ảnh hưởng đến
chất lượng môi trường trên địa bàn tỉnh. Những hoạt động đó sẽ tác động lên những
vùng đất ngập nước theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp, làm thay đổi tính chất thủy
văn, giảm chất lượng nước, đưa vào những thành phần nhiễm bẩn, làm mất đi hiện
trạng hệ sinh thái vốn có các loài động thực vật, gây ra một số những hiện tượng ô
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

nhiễm như phú dưỡng, ô nhiễm hữu cơ, mất cân bằng sinh thái và giảm đa dạng sinh
học Nếu không có những biện pháp ứng phó phù hợp, những áp lực tăng dần đối
với môi trường từ việc khai thác và sử dụng tài nguyên không hợp lý sẽ là một vấn
đề nan giải trong quy hoạch phát triển bền vững và gây suy giảm môi trường của địa
phương trong tương lai làm mất cân bằng hệ sinh thái.
Việc đánh giá các giải pháp thực hiện công tác quản lý, khai thác các vùng
đất ngập nước phân bố trên địa bàn tỉnh là thực sự cần thiết cho công tác quy
hoạch, quản lý môi trường và phát triển kinh tế của địa phương trong tương lai.
chính vì vậy tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiện trạng hệ sinh thái
đất ngập nước và đề xuất giải pháp bảo vệ các vùng sinh thái dễ bị tổn thương
tại tỉnh Bắc Giang”

2. Mục đích nghiên cứu
- Thống kê các hồ chứa trên địa bàn tỉnh
- Đánh giá hiện trạng chất lượng nước và đa dạng sinh học để xác định các
khu vực có nguy cơ bị tổn thương
- Hiện trạng quản lý đất ngập nước trên địa bàn tỉnh
- Hiện trạng khai thác và áp lực tới hệ sinh thái đất ngập nước
- Đề xuất giải pháp bảo vệ hệ sinh thái đất ngập nước dễ bị tổn thương về
môi trường trên địa bàn.
3. Yêu cầu của đề tài
- Việc thu thập các tài liệu, số liệu liên quan đến đề tài phải đảm bảo tính
tin cậy
- Thống kê, phân bố các hồ chứa có dung tích > 100.000 m
3
trên địa bàn tỉnh
- Việc xác định hàm lượng các chất pH, DO, COD, BOD5, (TSS), Pb,
Fe, Cu, Zn, Clorua, Colifrom và một số chỉ tiêu liên quan đến đa dạng sinh học
(thành phần và mật độ động vật nổi) theo QCVN
- Từ kết quả phân tích mẫu nước xác định các vùng hệ sinh thái có nguy
cơ dễ bị tổn thương về môi trường.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

- Đánh giá công tác quản lý, hiện trạng khai thác và áp lực tới hệ sinh thái
dựa trên kết quả tổng phiếu điều tra, phỏng vấn người dân và các tài liệu thứ cấp.
- Từ hiện trạng kết quả phân tích mẫu nước, quản lý, khai thác và áp lực
tới hệ sinh thái đề xuất giải pháp bảo vệ hệ sinh thái đất ngập nước phù hợp thực
tế của địa phương.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4

C
HƯƠNG 1

TỔ
N
G

Q
UAN

T
À
I

L
I

U


1.1. Tóm tắt lịch sử nghiên cứu về đất ngập nước
1.1.1. Khái quát về đất ngập nước
ĐNN rất đa dạng, có mặt khắp mọi nơi và là cấu thành quan trọng của
các cảnh quan trên mọi miền của thế giới. Hàng thế kỷ nay, con người và các
nền văn minh văn hóa nhân loại được hình thành và phát triển dọc theo các
triền sông hoặc ngay trên các vùng ĐNN. ĐNN đã và đang bị suy thoái và mất
đi ở mức báo động, mặc dù ngày nay người ta đã nhận biết được chức năng và
giá trị to lớn của chúng (Mitsch và Gosselink, (1986 & 1993); Dugan, (1990);

Keddy, 2000)).
Qua các nghiên cứu, các nhà khoa học về ĐNN đã được xác định được
những điểm chung của ĐNN thuộc các loại hình khác nhau, đó là chúng đều
có nước nông hoặc bão hòa nước, tồn trữ các chất hữu cơ thực vật phân hủy
chậm, và nuôi dưỡng rất nhiều loài động vật, thực vật thích ứng với điều kiện
bão hòa nước.
Tùy thuộc vào sự khác nhau về loại hình, phân bố cùng với những mục
đích sử dụng khác nhau mà người ta định nghĩa với ĐNN rất khác nhau
Trên thế giới hiện đã có trên 50 định nghĩa về ĐNN (Mitsch và Gosselink,
(1986 & 1993); Dugan, (1990)). Nhiều tài liệu ở các nước như Canada, Hoa Kỳ
và Úc (Zoltai, 1979), (33 CFR323.2(c);1984) (trong Hoàng Văn Thắng, (1995)),
Ủy ban ĐNN của Liên Hiệp Quốc (UN Committee on Characterization of
Wetlands, (1995) v.v đã định nghĩa về đất ngập nước theo nhiều mức độ và
mục đích khác nhau.
Định nghĩa về ĐNN của Công ước RAMSAR (Công ước về các vùng
ĐNN có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như nơi cư trú và các loài chim nước –
Convention on wetland of intrenational importance, especially as waterfol
habitat) có tầm khái quát và bao hàm nhất. Theo định nghĩa này, ĐNN là : “Các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước tự nhiên hay nhân tạo, có nước thường
xuyên hay tạm thời, nước đứng hay nước chảy, nước ngọt, nước lợ hay nước
mặn, kể cả các vùng nước ven biển có độ sâu không quá 6m khi thủy triều thấp
đều là các vùng đất ngập nước” (Điều 1.1. Công ước Ramar, (1971)).
Đất ngập nước có vai trò quan trọng đối với đời sống của các cộng đồng
dân cư. Hiện nay, khoảng 70% dân số thế giới sống ở các vùng ven cửa sông ven
biển và xung quanh các thủy vực nước ngọt nội địa (Dugan, (1990)). Đất ngập
nước còn là nơi sinh sống của một số lượng lớn các loài động vật và thực vật,
trong đó có nhiều loài quý hiếm.

Ở Việt nam, ĐNN rất đa dạng với diện tích xấp xỉ 5.810.000 ha, chiếm
khoảng 8% toàn bộ các vùng ĐNN của Châu Á (Lê Diên Dực, (1989a), (1989b).
Scott, (1989)). Trong đó ĐNN nước ngọt chiếm khoảng 10% diện tích của các
vùng ĐNN toàn quốc. Trong đó số các vùng ĐNN của Việt Nam thì 68 vùng
(khoảng 341.833 ha) là có tầm quan trọng về đa dạng sinh học và môi trường
thuộc nhiều loại hình ĐNN khác nhau, phân bố khắp trong cả nước (Bộ Khoa
hoc, Công nghệ và Môi trường, (2001)). Hiện nay, ở Việt Nam cũng như trên
Thế giới, ĐNN đang bị giảm diện tích và suy thoái ở mức độ nghiêm trọng.
Năm 1989, Việt Nam đã tham gia công ước quốc tế Ramsar về bảo tồn
ĐNN như là nơi sinh sống quan trọng của các loài chim nước. Thêm vào đó, Việt
Nam cũng đã có những cố gắng trong công tác nghiên cứu, quản lý và bảo tồn
ĐNN như: “Chương trình bảo tồn đất ngập nước quốc gia”; Nghị định
109/2003/NĐ-CP về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng ĐNN; “Chiến lược
quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010” (số
192/2003/QĐ-TTg),v.v
1.1.2. Trên thế giới
ĐNN được cấu thành từ nhiều hợp phần, nhiều cảnh quan (của sông, bờ
biển, đồng bằng ngập nước, bãi biển đảo…) nên các công trình nghiên cứu về đất
ngập nước cũng rất đa dạng, bao gồm các nghiên cứu mang tính tổng hợp hay đề
cập đến một số khía cạnh, hợp phần của đất ngập nước: đất, nước, thực vật, địa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

hình – địa mạo… hoặc một số quá trình diễn ra trong vùng đất ngập nước như
cân bằng nước, diễn thế thảm thực vật, địa hóa đất ngập nước
Những nghiên cứu có tính hàn lâm về đất ngập nước được khởi đầu bởi
các nhà nghiên cứu Châu Âu. Những nghiên cứu này tập trung vào: quần xã
thực vật tại các đầm lầy; động lực của đới ven bờ và cổ thực vật nhằm cung
cấp dữ liệu tiến trình phát triển và thay đổi của cảnh quan, văn hóa các vùng
đất ngập nước.

Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã thống nhất chia lịch sử nghiên cứu đất
ngập nước ra làm 3 giai đoạn: trước năm 1950; 1950 – 1970 và giai đoạn sau
năm 1970:
Các công trình ở giai đoạn thứ nhất (trước năm 1950) là nghiên cứu về
quần xã thực vật tại các đầm lầy, địa mạo, thuỷ văn, nghiên cứu động lực của đới
ven bờ. Tiếp đến là các nghiên cứu về cổ thực vật nhằm giải thích sự thay đổi của
chế độ khí hậu và mực nước biển trong quá khứ. Góp phần vào đó là các nhà
nghiên cứu và sưu tầm cổ vật. Các nghiên cứu này cung cấp các dữ liệu về tiến
trình phát triển và thay đổi của cảnh quan, văn hoá các vùng đất ngập nước. Các
công trình ở giai đoạn này thường chỉ nhấn mạnh đến việc mô tả đơn ngành như
các nghiên cứu về bãi triều của các nhà khoa học Đức, Hà Lan từ giữa thế kỷ 19,
các nghiên cứu quần xã thực vật và sinh thái tại các đầm lầy, đầm lầy than bùn
hay động lực của sông được tiến hành từ thế kỷ 19. Ngoài ra còn hàng loạt các
công trình nghiên cứu về cổ thực vật nhằm xác định sự thay đổi của khí hậu, mực
nước biển, điều kiện cổ khí hậu. Cùng trong thời gian này (đầu thế kỷ 20), các
nhà khoa học Bắc Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu về đất ngập nước nội địa thông qua
việc nghiên cứu tổng hợp giữa vị trí địa lý, thuỷ văn, diễn thế sinh thái thực vật,
địa tầng. Các hoạt động này đã đem lại những hiểu biết cao hơn về các vùng đất
ngập nước cho cộng đồng, đặc biệt là các kiến thức về tự nhiên. Điều đó đã dẫn
đến sự công nhận những giá trị của đất ngập nước đối với việc quản lý chất
lượng nước và đánh giá cao các giá trị văn hoá, du lịch của đất ngập nước, thúc
đẩy việc bảo vệ các vùng đất ngập nước của Chính phủ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

Giai đoạn thứ 2 (1950 - 1970) sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và tài liệu
thực nghiệm đã giúp các nhà nghiên cứu theo dõi sự thay đổi của ĐNN vào cuối
Đệ tứ, từ đó có những hiểu biết cụ thể hơn về sự biến đổi các vùng ĐNN. Các
lĩnh vực như sinh thái học ĐNN, hoá học nước đã được chú ý. Tuy nhiên, tính
liên ngành của các nghiên cứu này còn hạn chế.

Giai đoạn 3 (sau năm 1970) nghiên cứu các vùng ĐNN không chỉ là công
việc của các nhà khoa học mà còn trở thành mối quan tâm của các quốc gia, khu
vực. Với những tiến bộ về khoa học công nghệ, đặc biệt là những thay đổi trong
nhận thức về tầm quan trọng của các vùng ĐNN làm cho các công trình nghiên
cứu ngày càng có tính tập trung cao hơn và tính liên ngành cũng phát triển. Số
lượng những nghiên cứu về hiện trạng, biến động và dự báo xu thế thay đổi
của đất ngập nước về diện tích, cấu trúc, đa dạng sinh học do khai thác và sử
dụng, cũng như phân tích ảnh hưởng của nước thải, xây dựng, giao thông đến
xu thế chuyển hoá của ĐNN thông qua đó có được nhiều hơn những chính
sách hợp lý trong quy hoạch và bảo vệ các vùng ĐNN. Năm 1977, tổng thống
G. Carter (Mỹ) đã ký ban hành sắc lệnh thực thi số 11988 và 11990 về quản lý
lũ lụt và bảo vệ đất ngập nước. Sắc lệnh này quy định nhiều điều về ĐNN và
coi việc bảo vệ đất ngập nước là một trong những chính sách mang tính quốc
gia của chính phủ Liên bang.
Trong vài thập kỷ gần đây chúng ta đã chứng kiến sự biến đổi sâu sắc
trong nhận thức về đất ngập nước, đặc biệt là sự thay đổi trong cách nhìn của các
cá nhân và tổ chức có liên quan đến đất ngập nước, vùng đất mà mới chỉ trước
những năm 60 của thế kỷ 20 người ta còn coi đó là những vùng đất không có giá
trị, nơi chứa chất thải, nơi lưu giữ các mầm bệnh và các loài côn trùng có hại.
Trong cuốn "Các chức năng và giá trị của đất ngập nước: thực trạng hiểu biết của
chúng ta" của Oreeson và cộng sự xuất bản năm 1979 đã cho thấy 84% tổng số
các trích dẫn là của các công trình nghiên cứu trong thập kỷ 70, 14% của các
công trình thập kỷ 60 và chỉ có 2% là trích dẫn từ các công trình trước năm 1960.
Như vậy, từ thực trạng không chú ý hoặc lảng tránh các vấn đề có liên quan đến
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

đất ngập nước trước những năm 60 chuyển sang thời kỳ mới đặc trưng bởi sự gia
tăng mạnh mẽ các kiến thức về đất ngập nước tạo ra một bước đột phá trong hoạt
động khoa học tại các trung tâm và viện nghiên cứu có liên quan.

Châu Á và Đông Nam Á là khu vực có diện tích ĐNN lớn của thế giới. Do
mật độ dân cư cao (chiếm 60% số dân toàn thế giới) dẫn đến sự phụ thuộc có tính
lịch sử và lâu dài của các cộng đồng dân cư tại đây vào tài nguyên ĐNN. ĐNN
của khu vực này đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái nghiêm trọng và một
số vùng ĐNN có nguy cơ xoá sổ. Các nghiên cứu hiện nay về ĐNN tại châu Á
chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sau: Xác định loại hình ĐNN và sự phân bố
của chúng; Nghiên cứu các mối đe doạ hiện tại và yêu cầu về bảo vệ ĐNN, đa
dạng sinh học của các vùng đất ngập nước.
Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu và bảo tồn các vùng ĐNN có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với các quốc gia trong khu vực, số các nước ký
công ước Ramsar ngày càng tăng. Công tác nghiên cứu ĐNN trên thế giới trong
những năm qua đã nhận được sự ủng hộ của nhiều tổ chức quốc tế như Hiệp hội
bảo tồn thiên nhiên thế giới (The World Conservation Union - IUCN), Chương
trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ động vật hoang dã thế giới
(WWF), các tổ chức phi chính phủ (NGO). Trong đó quan trọng nhất là vai trò
của IUCN vì đây là tổ chức trực tiếp hỗ trợ về tài chính và là cơ quan phối hợp
kết nối với các hoạt động với các tổ chức khác trong việc bảo vệ và nghiên cứu
ĐNN trên Thế giới.
1.1.3. Ở Việt Nam
ĐNN ở Việt Nam đã và đang thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác nhau (khoa học tự nhiên, xã hội, luật pháp,
quân sự). Các công trình nghiên cứu ĐNN ở Việt Nam tương đối phong phú, đề
cập đến nhiều vấn đề bức xúc như kiểm kê, phân loại các vùng ĐNN, phân tích
chức năng, giá trị của các hợp phần cấu thành vùng ĐNN, hoặc nghiên cứu tổng
hợp một vùng, một đối tượng cụ thể. Có thể khái quát các công trình này theo hai
khuynh hướng như sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

- Nghiên cứu tổng hợp theo từng vùng cụ thể hoặc toàn quốc, ví dụ đồng

bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, các vùng cửa sông, vùng biển ven
bờ đông bắc Việt Nam.
- Nghiên cứu theo từng hợp phần của ĐNN, ví dụ nghiên cứu hệ sinh thái
RNM, hệ sinh thái cửa sông, địa chất môi trường biển ven bờ, địa mạo, chế độ
thuỷ - hải văn
Một trong số những dự án đầu tiên có liên quan đến ĐNN ở Việt Nam là
"Dự án sông Mê Kông và đồng bằng sông Cửu Long" của Uỷ ban sông Mê Kông
(1957) do chính phủ 4 nước Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam thành lập.
Dự án này đã tiến hành điều tra về thuỷ văn sông Mê Kông, kinh tế - xã hội, địa
chất, khoáng sản và tiềm năng nông nghiệp vùng hạ lưu sông Mê Kông. Cũng
trong dự án này công tác điều tra về động vật hoang dã của lưu vực sông Mê
Kông được tiến hành, từ đó đưa ra những kiến nghị về hệ thống khu bảo tồn.
Tiếp theo là một loạt các đề tài, dự án, chương trình điều tra tổng hợp
cũng như nghiên cứu các hợp phần của ĐNN từ những năm 1980 cho đến nay.
Trong chương trình điều tra cơ bản tài nguyên thiên nhiên toàn quốc, một chương
trình cấp nhà nước do Uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà nước chủ trì 1984-1986 đã
bước đầu đề xuất tới việc bảo vệ thiên nhiên những vùng đất ngập nước và yêu
cầu được nghiên cứu nhưng cũng rất sơ bộ và chung chung. Trong giai đoạn thực
hiện chương trình này, chưa có một nội dung toàn diện nào về nghiên cứu khoa
học hệ sinh thái đất ngập nước ở Việt Nam.
Năm 1989, Việt Nam tham gia công ước Ramsar, đây cũng là thời điểm
chính thức hình thành những nội dung cương yếu về hoạt động khoa học và bảo
tồn thiên nhiên cho lĩnh vực đất ngập nước ở nước ta, do Vụ Điều tra Cơ bản
(tiền thân của Cục Môi trường, nay là Cục Bảo vệ Môi trường) thuộc Uỷ ban
Khoa học Kỹ thuật Nhà nước (sau là Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường,
nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) chủ trì. Trên cơ sở các văn bản Công ước,
các tài liệu khoa học trong nước và quốc tế về những vấn đề có liên quan đến
đất ngập nước đã được tổ chức tập hợp lại, xác định những nội dung chuyên đề
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10


và xúc tiến hoạt động “nghiên cứu về đất ngập nước” một cách chính thức ở
Việt Nam.
Các nhà Điểu học thuộc khoa Sinh học - Đại học Tổng hợp Hà Nội (Đại
học Quốc gia Hà Nội) là lực lượng nòng cốt của chương trình nghiên cứu về đất
ngập nước, trước 1989 họ đã tiến hành khảo sát nghiên cứu tập đoàn các loài
chim nước ở Việt Nam, và năm 1985 phát hiện Sếu đầu đỏ ở Tràm chim Đồng
Tháp Mười, viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu chim nước với
hệ sinh thái đất ngập nước. Trước những năm 1990, những nội dung nghiên cứu
khoa học chuyên ngành, có liên quan tới lĩnh vực tổng hợp về đất ngập nước có
thể kể đến như rừng ngập mặn, rừng Tràm ngập chua phèn, than bùn, hệ thuỷ
sinh học, hệ chim nước. Một số công trình nổi bật như: đề tài KT 03 - 02 về đầm
phá do Nguyễn Chu Hồi chủ nhiệm, KT 03 - 01 (chương trình 48B) về động lực
bãi bồi, tiềm năng nguồn lợi ven biển miền Bắc Việt Nam do Trần Đức Thạnh,
Nguyễn Đức Cự và Phí Kim Trung tiến hành.
Lĩnh vực nghiên cứu thứ 2 liên quan đến ĐNN tập trung vào làm rõ đặc
điểm sinh thái và đa dạng sinh học của các vùng ĐNN (cửa sông, đầm phá, ao
hồ ), điển hình là các công trình nghiên cứu về tài nguyên sinh thái và đa dạng
sinh học các vùng ĐNN của Vũ Trung Tạng (1994), Mai Đình Yên (2002), Đặng
Ngọc Thanh (1995 - 2000). Những công trình này đã thống kê, phân loại được
nhiều quần xã sinh vật và quan trọng là tìm hiểu được nhiều thành phần, nguồn
gốc và phân bố của chúng, trong đó đã nêu bật chức năng của vùng ĐNN như là
bãi đẻ, vùng di cư quan trọng của một số quần thể có ý nghĩa quốc gia và xuyên
quốc gia. Chương trình 64A (1982-1985) nghiên cứu hậu quả chiến tranh hoá
học của Mỹ lên rừng ngập mặn tỉnh Minh Hải (PGS. TS. Phan Nguyên Hồng chủ
nhiệm) đã nghiên cứu sự biến đổi của thảm thực vật rừng ngập mặn cũng như các
giá trị thoái hoá của đất do rừng bị huỷ diệt bởi các chất diệt cỏ và chất làm rụng
lá cây, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phục hồi rừng ngập mặn. Chương trình
64B (1986-1990) nghiên cứu hậu quả lâu dài của chiến tranh hoá học lên con
người và thiên nhiên, từ đó tìm biện pháp khắc phục.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

Lĩnh vực nghiên cứu thứ 3 là những nghiên cứu về địa mạo, địa lý, thuỷ
văn, địa chất môi trường, khoáng sản của các vùng đất ngập nước. Các nghiên
cứu này cũng trực tiếp hay gián tiếp góp phần nghiên cứu nhiều đặc điểm, chức
năng và giá trị của ĐNN cũng như các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát
triển của hệ sinh thái ĐNN (Nguyễn Địch Dĩ, Đinh Văn Thuận, Trần Đức Thạnh,
Nguyễn Đức Cự, Mai Trọng Nhuận ). Đề án “Điều tra địa chất, khoáng sản biển
nông (0-30m nước) do Trung tâm Địa chất khoáng sản biển tiến hành (1991-
2000) đã tổ chức nghiên cứu các đặc trưng vật lý, hoá học, tài nguyên ĐNN ven
biển và đo vẽ bản đồ ĐNN ven biển Việt Nam tỷ lệ 1: 500.000 (Mai Trọng
Nhuận, Đào Mạnh Tiến, Nguyễn Biểu và nnk, (2001)). Từ năm 2001 – 2005,
Liên đoàn Địa chất Khoáng sản biển thực hiện dự án “Điều tra địa chất, khoáng
sản và địa chất môi trường và tai biến địa chất vùng biển ven bờ (0-30m) Nam
Trung Bộ tỷ lệ 1: 100.000”, trong đó có nghiên cứu các đặc trưng vật lý, hoá học,
tài nguyên và mức độ tổn thương ĐNN ven biển.
Viễn thám và GIS cũng được đưa vào sử dụng như một công cụ cho việc
quản lý, kiểm kê và nghiên cứu biến động các vùng đất ngập nước. Bằng các
công nghệ này việc thành lập các bản đồ hiện trạng, biến động ĐNN cũng trở
nên dễ dàng hơn. Một hướng nghiên cứu thu hút được nhiều nhà khoa học là
quản lý và sử dụng, bảo vệ ĐNN trên cơ sở phân tích điều kiện tự nhiên, đặc
trưng sinh thái khu vực nhằm đưa ra các biện pháp sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên quý giá này.
Một cuộc hội thảo quốc tế về Sếu đầu đỏ và đất ngập nước được tổ chức
tại Việt Nam (khu Tràm Chim, nay là Vườn Quốc Gia Tràm Chim) từ ngày 11
đến 17 tháng 01 năm 1990. Đây là hội thảo quốc tế lần đầu tiên tổ chức ở Việt
Nam với chủ đề hoàn toàn mới không chỉ về lĩnh vực môi trường sinh thái nói
chung mà thực sự mới về vấn đề đất ngập nước, với những hệ sinh thái vùng
ngập nước và sinh cảnh của nó đối với những loài động vật hoang dã, mà loài sếu

đầu đỏ được lựa chọn là loài đặc trưng cho chương trình nghiên cứu. Trong hội
thảo này các đại biểu từ nhiều trường đại học hoặc viện khoa học (ở các nước Úc,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Nhật, Canada, Hoa Kỳ, Ấn Độ, nhiều nước Châu Âu, Phi, Á ) đã đem tới cho
Việt Nam những tư liệu khoa học có tính thực tiễn cao về đất ngập nước, hệ sinh
thái đất ngập nước, phân loại đất ngập nước, tổ chức quản lý và sử dụng bền
vững đất ngập nước. Hội thảo khoa học quốc tế nói trên được xác định là mốc
lịch sử của chương trình nghiên cứu về đất ngập nước ở Việt Nam.
Chương trình khoa học bảo vệ đất ngập nước toàn cầu do WWF và IUCN
đồng chủ trì và hỗ trợ thực hiện năm 1985-1987 đã có ảnh hưởng tới sự khởi
động nhận thức về lĩnh vực đất ngập nước ở nước ta. Cơ quan quản lý và chỉ đạo
cấp Nhà nước trong các chương trình nghiên cứu về ĐNN là Cục Bảo vệ môi
trường thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực sự tạo nên những định hướng
và giải pháp phát triển nghiên cứu, chương trình hành động quản lý và bảo vệ
những vùng đất ngập nước của Việt Nam.
1.2. Hiện trạng quản lý đất ngập nước ở Việt Nam
Từ năm 1976 đến nay, Việt Nam đã có hơn 500 văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan đến bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên, những văn bản
này đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ đất ngập nước. Mặt khác kể từ khi
Việt Nam chính thức tham gia Công ước Ramsar, Chính phủ đã quan tâm rất
nhiều đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, vừa tạo cơ sở cho việc
quản lý đất ngập nước bằng pháp luật, vừa tạo điều kiện cho việc hội nhập quốc
tế trong việc bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước ở Việt Nam.
Tuy nhiên trong số đó chỉ có khoảng hơn 10 văn bản có những quy định
trực tiếp về đất ngập nước. Trong các văn bản còn lại, việc bảo tồn và sử dụng
hợp lý đất ngập nước chỉ được quy định gián tiếp thông qua việc bảo vệ các
thành phần trong hệ sinh thái đất ngập nước như bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ
động thực vật hoang dã. Theo Luật đất đai (2003) không có danh mục về “đất

ngập nước” mà đất ngập nước được hiểu là “đất trồng lúa nước”, “đất làm muối”,
“đất nuôi trồng thuỷ sản”, “đất vườn đặc dụng là các vườn quốc gia và khu bảo
tồn thiên nhiên đất ngập nước”, “đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước
chuyên dùng”.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

Bên cạnh đó Nhà nước đã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hành
động liên quan đến bảo tồn và phát triển bền vững đất ngập nước, trong đó có
một số văn bản chính sau:
- Chiến lược quy hoạch sử dụng và bảo vệ hợp lý tài nguyên nước Việt Nam;
- Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm
2010 (2003);
- Nghị định 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển bền
vững các vùng đất ngập nước; và Thông tư 18/2004/TT-BTNMT ngày 23/8/2004
về hướng dẫn thực hiện Nghị định 109/2003/NĐ-CP;
- Quyết định 04/2004/QĐ-BTNMT ngày 5/4/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường phê duyệt Kế hoạch Hành động về Bảo tồn và phát triển
bền vững các vùng đất ngập nước giai đoạn 2004-2010;
- Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam (1995). Hiện đang
trình Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch hành động về ĐDSH của Việt Nam đến
2015 và định hướng đến 2020”;
- Dự thảo: Kế hoạch hành động quốc gia nhằm ngăn ngừa các xu hướng
suy thoái môi trường Biển Đông và Vịnh Thái Lan đến năm 2010 trong khuôn
khổ của Dự án UNEP/GEF “Ngăn ngừa các xu hướng suy thoái môi trường biển
Đông và Vịnh Thái Lan”, bao gồm Kế hoạch của các hợp phần: rừng ngập mặn,
Cỏ biển, Rạn san hô, đất ngập nước ven biển, Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và
chống ô nhiễm từ đất liền.
Ngoài ra còn có nhiều văn bản pháp luật liên quan đến quản lý và bảo tồn
đất ngập nước Việt Nam được thể hiện trong danh mục tài liệu về ĐNN.

Các công ước quốc tế liên quan đến quản lý ĐNN mà Việt Nam tham gia
Bên cạnh việc ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật về sử
dụng, quản lý và bảo vệ đất ngập nước, Chính phủ Việt Nam đã tham gia các
Công ước quốc tế có liên quan đến đất ngập nước như: Công ước Ramsar về đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

ngập nước, Công ước Đa dạng sinh học, Công ước quốc tế về buôn bán các loài
động thực vật hoang dã nguy cấp, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển,
Hiệp định hợp tác và phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông (hiệp định sông
Mêkông) và Nghị định thư Kyoto. Việc cam kết thực hiện các Công ước là nhằm
trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm của các nước về quản lý, bảo tồn và
phát triển các vùng đất ngập nước. Đây cũng là những nguồn tài liệu quan trọng
cho việc nghiên cứu và quản lý ĐNN ở Việt Nam.
1.2.1. Quản lý đất ngập nước ở cấp trung ương
Cho đến hiện nay, ở Việt Nam không có cơ quan nào chịu trách nhiệm
duy nhất về quản lý ĐNN ở cấp Trung ương. Mỗi Bộ, Ngành tùy thuộc theo chức
năng được Chính phủ phân công sẽ thực hiện việc quản lý theo lĩnh vực từng
ngành bao gồm cả đối tượng ĐNN.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm về ĐNN trong
phạm vi đất canh tác lúa nước, các khu rừng là vườn quốc gia hay khu bảo tồn
thiên nhiên ĐNN, các công trình thủy lợi, các hồ chứa.
- Bộ Thủy sản chịu trách nhiệm về ĐNN trong phạm vi diện tích mặt nước
nuôi trồng thủy sản và vùng ven bờ biển.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm về ĐNN, nhất là các hoạt
động liên quan đến Công ước Ramsar. Các cơ quan khác liên quan đến sử dụng
ĐNN như giao thông thủy, du lịch, thủy điện
Một đặc điểm cơ bản là các vùng ĐNN ở Việt Nam là nơi sinh sống của
các cộng đồng dân cư từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã hình thành những giá trị
văn hóa, tập quán canh tác đặc thù, vì vậy mà việc quản lý ĐNN không thể tách

biệt chuyên ngành với việc phát triển cộng đồng. Tuy vậy, vấn đề tồn tại là sự
thiếu đồng bộ trong quy hoạch phát triển một vùng ĐNN, thiếu sự phối hợp giữa
các ngành trong quản lý tổng hợp ĐNN. Việc quản lý và sử dụng khôn khéo đòi
hỏi phải có chính sách và biện pháp đồng bộ và tổng hợp.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

1.2.2. Quản lý đất ngập nước ở cấp tỉnh
Tình hình quản lý ĐNN ở cấp tỉnh cũng tương tự như ở cấp Trung ương,
nghĩa là các Sở, Ngành sẽ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực của
mình trong đó có vấn đề liên quan ĐNN theo quy định của pháp luật và sự phân
công của Ủy ban nhân dân tỉnh, cụ thể, Nghị định 109/2003/NĐ-CP đã quy định:
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức quản
lý các khu bảo tồn ĐNN không thuộc trách nhiệm quản lý của các Bộ và thuộc
địa bàn của tỉnh, thành phố mình.
- Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ
trì điều tra, nghiên cứu, lập quy hoạch bảo tồn và khai thác bền vững các ĐNN
có tầm quan trọng thuộc địa phương mình
1.1.3. Quản lý đất ngập nước ở tỉnh Bắc Giang
Ngày 28/12/2011 Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang mới ban hành Quyết
định số 1905/QĐ-UBND về việc phê duyệt Kế hoạch hành động bảo vệ đa dạng
sinh học và quản lý an toàn sinh học trên địa bàn Tỉnh Bắc Giang năm 2011 và
gần đây nhất ngày 13/6/2014 UBND tỉnh Bắc Giang có Quyết định số 345/QĐ –
UBND về việc Ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08/NQ-
CP ngày 23/01/2014 của Chính phủ và Kế hoạch số 50-KH/TU ngày 01/8/2013
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở 2
quyết định trên việc quản lý và bảo tồn các vùng ĐNN chưa được chú trọng,

quan tâm thực hiện và mới chỉ giao cho Sở Tài nguyên môi trường chủ yếu thực
hiện, thiếu sự phối hợp của nhiều đơn vị liên quan.

1.3. Một số tồn tại trong quản lý đất ngập nước hiện nay
1.3.1. Về văn bản luật pháp
Việt Nam chưa có luật riêng về ĐNN, còn thiếu các quy định, pháp luật về
quản lý, bảo tồn, sử dụng khôn khéo và phát triển bền vững ĐNN; thiếu những
quy định cụ thể và rõ ràng về hệ thống quản lý nhà nước; thiếu sự thống nhất về
cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành địa phương trong các hoạt động liên quan đến
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

ĐNN và thiếu các chế tài để thi hành. Những quy định điều chỉnh trực tiếp hoạt
động quản lý và bảo tồn ĐNN chủ yếu do Bộ và các địa phương ban hành, còn
thiếu các văn bản mang tính pháp lý cao như nghị định của Chính phủ. Hiện nay,
mới chỉ có Nghị định 109/2003/NĐ-CP
Các văn bản do Ủy ban nhân dân các địa phương ban hành còn nặng nề về
biện pháp hành chính, thiếu các chế tài huy động sự tham gia của cộng đồng
trong khai thác ĐNN. Do đó các văn bản quy định chưa đáp ứng được yêu cầu
bảo tồn và phát triển bền vững các vùng ĐNN.
Hệ thống chính sách và pháp luật để quản lý ĐNN còn thiếu đồng bộ và
chưa hoàn thiện. Các điều khoản quy định pháp lý có liên quan đến ĐNN bị phân
tán, chồng chéo trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, thiếu cụ thể,
chưa đảm bảo được tính khoa học và đồng bộ, chưa tính hết được các yếu tố kinh
tế - xã hội nên rất khó thực thi hoặc thực thi kém hiệu quả.
Nhiều thuật ngữ và khái niệm liên quan đến ĐNN đã không được quy định
thống nhất và giải thích rõ ràng trong các văn bản pháp luật và chính sách của
Việt Nam. Các văn bản pháp luật liên quan chưa bao quát toàn diện các vấn đề
đặt ra đối với vấn đề đặt ra đối với quản lý và bảo tồn ĐNN. Hiện nay chưa có
chính sách thống nhất rõ ràng vào việc bảo vệ, mở rộng hay thu hẹp các vùng

ĐNN cũng như thu hút cộng đồng vào quản lý ĐNN. Do chưa nhận thức đúng về
tầm quan trọng và giá trị ĐNN.
Hiện nay, sử hiểu biết về ĐNN ở các cơ quan cấp tỉnh còn rất hạn chế, vì
vậy tuyên truyền, giáo dục người dân địa phương về ĐNN cũng là một tồn tại
chưa thể khắc phục được.
Thời gian qua, nhà nước đã xây dựng và tổ chức thực hiện hàng loạt các
chiến lược, kế hoạch hành động về bảo tồn và phát triển ĐNN, trong đó một số
văn bản như: Chiến lược, quy hoạch sử dụng và bảo vệ hợp lý tài nguyên nước
Việt Nam; Chiến lược quản lý hệ thống khu BTTV Việt Nam đến năm 2010
(2003); Chiến lược quốc gia về bảo vệ và quản lý ĐNN (2004); Kế hoạch hành
động bảo vệ ĐDSH của Việt Nam (1995); Kế hoạch hành động bảo vệ, phục hồi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17

và phát triển hệ sinh thái ở biển Việt Nam đến năm 2010 (2003); Kế hoạch
hành động quốc gia về bảo tồn phát triển đất nước (2004); Nghị định
109/2003/NĐ-CP về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng ĐNN Việt Nam.
Quyết định năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt
Kế hoạch hành động về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập
nước giai đoạn 2004 – 2010.
1.3.2. Quản lý đất ngập nước
Một trong những thách thức rất lớn đối với quản lý, bảo tồn và phát triển
bền vững ĐNN là sự gia tăng dân số, mật độ dân số ở nhiều vùng ĐNN rất cao,
tỷ lệ đô thị hóa cao mà không được kiểm soát hợp lý.
Các nhà quản lý và những người được thừa hưởng quyền lợi chưa hiểu
biết đầy đủ, thấu đáo về chức năng và giá trị của ĐNN đối với kinh tế, xã hội,
sinh thái, tầm quan trọng của quản lý, bảo tồn dẫn đến việc sử dụng và ra quyết
định liên quan trực tiếp đến ĐNN còn thiếu tính thực tiến và tính khả thi.
Hiện nay, quản lý ở ĐNN ở Việt Nam còn mang tính đơn ngành, chồng
chéo, thiếu phối hợp, thiếu tập trung, chức năng quản lý ĐNN chưa được phân

định rõ ràng.
Thiếu quy hoạch tổng thể quản lý ĐNN, các quy hoạch cụ thể hoặc còn
thiếu không phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng vùng. Điều
đó gây ra xung đột môi trường trong việc sử dụng ĐNN, làm suy thoái tài
nguyên. Các quy hoạch quản lý lãnh thổ phát triển kinh tế, giao thông xây dựng,
hồ đập sẽ làm thay đổi hoặc gây cản trở cho việc quản lý ĐNN
Các vùng ĐNN có giá trị cao vẫn chưa được quy hoạch bảo tồn và quản lý
có hiệu quả, nhiều vùng ĐNN chưa có chính sách quản lý và bảo tồn phù hợp.
Đầu tư nguồn lực cho việc bảo tồn và phát triển bền vững ĐNN chưa tương xứng
và giá trị của nó. Nguồn vốn đầu tư cho đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học,
xây dựng các mô hình phát triển bền vững ĐNN, cho việc bảo tồn, bảo vệ môi
trường và tài nguyên đất ngập nước còn ở mức thấp, không hợp lý thiếu cân đối.

×