Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

giải pháp chống buôn bán hàng giả tại thị xã từ sơn, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.76 KB, 118 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN VĂN HOÀNG


GIẢI PHÁP CHỐNG BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
TẠI THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH







LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ




HÀ NỘI - 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





NGUYỄN VĂN HOÀNG


GIẢI PHÁP CHỐNG BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
TẠI THỊ XÃ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH



CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.34.04.10



Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN VĂN ĐỨC


HÀ NỘI - 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng:
Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực
và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các

thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn


Nguyễn Văn Hoàng














Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ Quản lý Kinh tế của mình, ngoài sự nỗ lực
cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân
và tập thể.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ, chỉ bảo
tận tình của các thầy, cô giáo khoa Kinh tế và PTNT; Ban quản lý Đào tạo - Học

viên Nông nghiệp Việt Nam; đặc biệt là sự quan tâm, chỉ dẫn tận tình của thầy
giáo TS. Trần Văn Đức đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Chi Cục Quản lý Thị trường
tỉnh Bắc Ninh, Đội Quản lý Thị trường và người dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thu thập tài liệu
phục vụ cho luận văn.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình và bạn bè đã
giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.










Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn iii
Mục lục iii
Danh mục viết tắt vi
Danh mục bảng vii
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục Tiêu nghiên cứu 2
1.2.1 Mục tiêu chung 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 2
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 2
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 3
2.1 Cơ sở lý luận 3
2.1.1 Một số khái niệm 3
2.1.2 Bản chất, phương thức và đối tượng buôn bán hàng giả 9
2.1.3 Đặc điểm của hàng giả và hoạt động buôn bán hàng giả 13
2.1.4 Các nhân tố tác động đến hoạt động buôn bán hàng giả 15
2.1.5 Tác hại của hoạt động buôn bán hàng giả 18
2.1.6 Nội dung các biện pháp chống buôn bán hàng giả 23
2.2 Cở sở thực tiễn 33
2.2.1 Kính nghiệm chống hàng giả của một số nước trên thế giới 33
2.2.2 Kinh nghiệm chống hàng giả ở Việt Nam 38
2.2.3 Kinh nghiệm chống hàng giả ở một số địa phương 42
2.2.4 Các bài học kinh nghiệm rút ra từ cơ sở lý luận và thực tiễn 45
2.2.5 Những bài học kinh nghiệm cho việc chống buôn bán hàng giả tại cơ
quan Quản lý thị trường thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh 46
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

2.3 Tổng quan một số công trình liên quan đến đề tài 48
PHẦN III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 50
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 50
3.2 Phương pháp nghiên cứu 51
3.2.1 Phương pháp chọn địa bàn nghiên cứu. 51

3.2.2 Phương pháp thu thập số liệu 52
3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu 52
3.2.4 Phương pháp phân tích số liệu 52
3.2.5 Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo. 53
3.3 Hệ thống các chỉ tiêu trong nghiên cứu 53
PHẦN 4. KẾT QUẢ ĐẠT NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 54
4.1 Thực trạng hàng giả tại thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh 54
4.1.1 Thực trạng hàng giả 54
4.1.2 Tình hình buôn bán hàng giả 57
4.2 Thực trạng công tác chống buôn bán hàng giả tại thị xã Từ Sơn 61
4.2.1 Quan điểm của ngành Quản lý thị trường thị xã Từ Sơn về công tác
chống buôn bán hàng giả. 61
4.2.2 Công tác tuyên truyền 62
4.2.3 Công tác đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ chống hàng giả 67
4.2.4 Công tác kiểm tra kiểm soát và xử lý vi phạm. 70
4.2.5 Công tác phối hợp trong đấu tranh phòng chống hàng giả 75
4.2.6 Cơ sở vật chất và cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác chống hàng giả 77
4.3. Đánh giá công tác đấu tranh phòng chống hàng giả tại thị xã Bắc Ninh 82
4.3.1 Những thuận lợi và những mặt đã đạt được 82
4.3.2 Những khó khăn tồn tại 83
4.4. Một số giải pháp hoàn thiện công tác đấu tranh chống buôn bán hàng giả tại
thị xã Từ Sơn 89
4.4.1 Giải pháp về hoàn thiện cơ cấu tổ chức 89
4.4.2 Giải pháp về tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức 89
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

4.4.3 Giải pháp về xây dựng cơ sở dữ liệu về hàng giả 91
4.4.4 Giải pháp về công tác tuyên truyền. 93
4.4.5 Giải pháp về tăng cường sự phối hợp và hợp tác của doanh nghiệp với

các cơ quan chức năng trong công tác đấu tranh phòng chống hàng giả. 95
4.4.6 Giải pháp về công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm. 96
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 99
5.1 Kết luận 99
5.2 Kiến nghị 100
5.2.1 Với chính phủ, các bộ ngành trung ương. 100
5.2.2 Đối với UBND tỉnh Bắc Ninh 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
PHỤ LỤC

















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi





DANH MỤC VIẾT TẮT

DN : Doanh nghiệp
EU : Liên minh Châu Âu
QLTT : Quản lý thị trường
SHTT : Sở hữu trí tuệ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC BẢNG


Số bảng Tên bảng Trang



Sơ đồ 2.1: Quy trình kiểm tra, xử lý hàng giả 28
Bảng 2.1 Kết quả công tác chống hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ 41
Bảng 3.1 Phân bổ mẫu điều tra 52
Bảng 4.1 Số hộ kinh doanh hàng giả tại thị xã Từ Sơn giai đoạn 2012 - 2014 58
Bảng 4.2 Số hàng giả các hộ đang kinh doanh tại thị xã Từ Sơn giai đoạn 2012
- 2014 60
Bảng 4.3 Số lớp tập huấn phổ biến kiến thức hàng thật - hàng giả giai đoạn
2010-2014 65
Bảng 4.4 Công tác tuyên truyền, ký cam kết không kinh doanh hàng giả giai
đoạn 2010-2014 66

Bảng 4.5 Kết quả khảo sát công tác tuyên truyền 67
Bảng 4.6 Kết quả khảo sát công tác đào tạo, bồi dưỡng 69
Bảng 4.7 Kết quả xử lý các hành vi vi phạm về hàng giả theo loại hình vi phạm
giai đoạn 2012- 2014 70
Bảng 4.8 Kết quả xử lý các hành vi vi phạm về hàng giả theo đơn vị giai đoạn
2012- 2014 71
Bảng 4.9 Một số mặt hàng vi phạm chủ yếu bị tịch thu tiêu huỷ trong giai đoạn
2012-2014 72
Bảng 4.10 Kết quả khảo sát công tác phối hợp trong đấu tranh chống hàng giả 77
Bảng 4.11 Cơ cấu lao động theo giới tính, trình độ, độ tuổi 78
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nhìn nhận một cách tổng thể khi xã hội ngày càng phát triển lúc đó người
tiêu dùng ngày càng được thỏa mãn các nhu cầu của mình. Ở Việt Nam, thành
quả gần 30 năm sự nghiệp đổi mới của Đảng đã chứng minh điều đó. Với sự
chung sức của toàn thể nhân dân cả nước thì đất nước Việt Nam ngày càng thay
đổi rõ rệt: kinh tế phát triển, hệ thống cơ sở hạ tầng khang trang, hành lang pháp
luật thông thoáng… tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu, vận chuyển hàng hóa
từ đó góp phần làm đa dạng, phong phú các mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của
mọi tầng lớp dân cư.
Bên cạnh mặt tích cực đã thể hiện không ít những mặt trái của nền kinh tế
cũng được bộc lộ ra. Người tiêu dùng đã và đang phải đối mặt với các thách thức
của nạn hàng giả, hàng kém chất lượng…với hình thức lừa đảo tinh vi và thủ
đoạn hung hăng bất chấp pháp luật, thậm chí liều cả tính mạng để chống đối lại
cơ quan thẩm quyền chức năng. Đề giải quyết vấn nạn này cần phải có sự chung

tay phối hợp của nhiều cơ quan ban ngành, với chức năng kiểm tra, kiểm soát
hàng hóa lưu thông trên thị trường, lực lượng Quản lý thị trường tỉnh Bắc Ninh
phối hợp với các cơ quan chức năng liên ngành khác như: Công an, Sở khoa học
và công nghệ, Sở Công thương, Sở y tế… nhằm chống tệ nạn buôn bán lậu, sản
xuất và buôn bán hàng giả, chống gian lận thương mại, vi phạm sở hữu trí tuệ, vệ
sinh an toàn thực phẩm … và các hành vi khác trong hoạt động thương mại, dịch
vụ. Hoạt động của lực lượng quản lý thị trường liên quan mật thiết đến việc bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà sản xuất kinh doanh chân chính.
Với sự làm việc tận tâm để làm tròn trách nhiệm với Đảng, Nhà nước và
toàn thể nhân dân, các cán bộ, kiểm soát viên Quản lý thị trường thị xã Từ Sơn
đã không ngừng cố gắng chống lại các hành vi gian lận trên nhắm bảo vệ người
tiêu dùng là một nhiệm vụ cấp thiết. Tuy nhiên hoạt động này chưa đạt được kết
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

quả cao, hàng giả vẫn còn được bầy bán trên thị trường vào những dịp lễ tết, thực
phẩm không đảm bảo vệ sinh vẫn được lưu hành…
Xuất phát từ thực tế trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp chống
buôn bán hàng giả tại thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh”.
1.2 Mục Tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng buôn bán hàng giả tại thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh từ đó đề xuất giải pháp chống buôn bán hàng giả tại thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về hàng giả và buôn bán hảng
giả, giảm thiểu hàng giả và các giải pháp chống buôn bán hàng giả.
- Phân tích thực trạng hàng giả và biện pháp chống buôn bán hàng giả tại
thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2010 - 20014.

- Đề xuất các giải pháp chống buôn bán hàng giả tại thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng buôn bán hàng giả trên địa
bàn thị xã Từ Sơn và công tác chống buôn bán hàng giả tại cơ quan Quản lý thị
trường thị xã Từ Sơn trong giai đoạn 2011 - 2014.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian
+ Số liệu thông tin thứ cấp được thu thập từ năm 2011 đến năm 2014
+ Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 3/2013 đến tháng 3/2014
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện trên địa thị xã Từ Sơn.
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu giải pháp chống buôn
bán hàng giả của cơ quan quản lý thị trường thị xã Từ Sơn, trong đó chú trọng
nghiên cứu hoạt động kiểm tra, kiểm soát đối với hàng giả.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm hàng hoá
Hàng hóa: là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản
xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính
(Phạm Văn Dũng, 2012).
* Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả
mãn nhu cầu nào đó của con người Vật phẩm nào cũng có một số công dụng

nhất định. Công dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định.
Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính
mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới. Giá trị
sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất của của
cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn (Phạm Văn Dũng, 2012).
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không
phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử
dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế
hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
* Giá trị hàng hoá: Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá
trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử
dụng khác (Phạm Văn Dũng, 2012).
Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động
của người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao
động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau,
những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau.
Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của
mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội
giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với
nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là
thuộc tính xã hội của hàng hoá (Phạm Duy Nghĩa, 1998).
Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và

giá trị, nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng
hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử
dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị
mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải
trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng
phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ không thực
hiện được giá trị sử dụng (Phạm Duy Nghĩa, 1998).
2.1.1.2 Khái niệm hàng giả
Hàng giả là một thuật ngữ dùng để phân biệt và so sánh với hàng thật.
Thuật ngữ “hàng giả” không được định nghĩa trong từ điển tiếng Việt. Ở các
nước trên thế giới cũng chưa có định nghĩa tổng quát về hàng giả.
Theo Mác-Lênin, hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người, được sản xuất ra để trao đổi, mua bán trên thị trường.
Hàng hóa bao giờ cũng có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và giá trị. Một sản
phẩm chỉ trở thành hàng hóa khi nó thỏa mãn hai thuộc tính vừa nêu.
Theo từ điển tiếng Việt: Giả có nghĩa là không phải thật mà được làm ra
với bề ngoài giống như thật, thường để đánh lừa.
Theo Viện Sở hữu trí tuệ - Liên bang Thụy sĩ: Không có định nghĩa được
công nhận của hàng giả. Định nghĩa về giả của Hiệp định TRIPS (hiệp định Bảo
Vệ Quyền Sở Hữu Trí Tuệ liên quan đến thương mại của Tổ Chức Thương Mại
Thế Giới (WTO)) cũng như Quy chế vi phạm bản quyền sản phẩm của Liên minh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

châu Âu (EU): Giả là xâm phạm quyền sở hữu độc quyền về bằng sáng chế, kiểu
dáng, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý với mục đích bắt chước các sản phẩm gốc.
Ở Việt Nam có nhiều văn bản đề cập đến thuật ngữ hàng giả, nhưng hiện
nay chưa có sự thống nhất về khái niệm hàng giả.
Hàng giả là những sản phẩm, hàng hóa được sản xuất ra trái pháp luật có

hình dáng giống như sản phẩm hàng hóa được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập
khẩu và tiêu thụ trên thị trường; hoặc những sản phẩm, hàng hóa không có giá trị
sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó
(Chính phủ, 1991).
Trong quá trình thực hiện những quy định này đã cho thấy hàng giả được
quy định tại Nghị định số 140/HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
chưa thể hiện rõ các dấu hiệu về mặt bản chất của hàng giả; khái niệm về hàng
giả còn được đề cập chung chung dưới dạng liệt kê. Hoạt động của thực tiễn đòi
hỏi phải có sự phân định rõ ràng hơn về hàng giả giúp cho công tác đấu tranh
ngăn ngừa, chống hàng giả tránh được những khó khăn trong xử lý các hành vi vi
phạm. Đến nay, Nghị định này đã hết hiệu lực thi hành.
Qua thực tế đấu tranh chống hàng giả, các vi phạm về sản xuất, buôn bán
hàng giả và các văn bản quy định của nhà nước về đấu tranh chống sản xuất và
buôn bán hàng giả qui định hàng hóa có một trong các dấu hiệu sau đây được coi
là hàng giả:
a- Hàng giả chất lượng hoặc công dụng
- Hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng như
bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.
- Hàng hóa đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng làm
thay đổi chất lượng; không có hoặc có ít dược chất, có chứa dược chất khác với
tên dược chất ghi trên nhãn hoặc bao bì; không có hoặc không đủ hoạt chất, chất
hữu hiệu không đủ gây nên công dụng; có hoạt chất, chất hữu hiệu khác với tên
hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì.
- Hàng hóa không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng những
nguyên liệu, phụ tùng khác không đảm bảo chất lượng so vớI tiêu chuẩn chất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

lượng hàng hóa đã công bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người,
động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.

- Hàng hóa thuộc danh mục Tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực
hiện gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khỏe người, động vật, thực vật hoặc
môi sinh, môi trường.
- Hàng hóa chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà sử dụng giấy
chứng nhận hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hóa bắt buộc)
(Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an và Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường, 2000).
b- Giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ
hàng hóa:
- Hàng hóa có nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với
nhãn hiệu hàng hóa của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hóa kể
cả nhãn hiệu hàng hóa đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia, mà không được phép của chủ nhãn hiệu.
- Hàng hóa có dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự
gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng hóa
được bảo hộ
- Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu
dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng
công nghiệp.
- Hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa
gây hiểu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa (Bộ
Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an và Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường, 2000).
c- Giả về nhãn hàng hóa
- Hàng hóa có nhãn hàng hóa giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng hóa
của cơ sở khác đã công bố
- Những chi tiêu ghi trên nhãn hàng hóa không phù hợp với chất lượng
hàng hóa nhằm lừa dối người tiêu dùng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7


- Nội dung ghi trên nhãn bị cạo, tẩy xóa, sửa đổi, ghi không đúng thời hạn
sử dụng để lừa dối khách hàng
d- Các loại ấn phẩm đã in sử dụng vào việc sản xuất, tiêu thụ hàng giả:
- Các loại đề can, tem sản xuất, nhãn hàng hóa, mẫu nhãn hiệu hàng hóa,
bao bì sản phẩm có dấu hiệu vi phạm như: trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với
nhãn hàng hóa cùng loại, với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi
xuất xứ hàng hóa được bảo hộ.
- Các loại hóa đơn, chứng từ, chứng chỉ, tem, vé, tiền, ấn phẩm có giá trị
như tiền, ấn phẩm và sản phẩm văn hóa giả mạo khác.
Theo Thông tư liên tịch này thì hàng giả có hai loại: giả về chất lượng,
công dụng và giả về hình thức. Hàng giả về chất lượng, công dụng thường là những
hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng với tên gọi, công
dụng của nó, không đảm bảo tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật đã được quy định. Còn
hàng giả về hình thức có nghĩa là giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp,
nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, nhãn hàng hóa (Chính phủ, 1999)
Căn cứ vào quy định về xử phạt vi phạm hành chính tronghoạt động
thương mại quy định hàng giả bao gồm:
- Hàng giả chất lượng và công dụng: Hàng hoá không có giá trị sử dụng
hoặc giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và
công dụng hàng hoá;
- Giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa: hàng hóa giả mạo tên, địa chỉ
của thương nhân khác trên nhãn hoặc bao bì cùng loại hàng hóa; hàng hóa giả
mạo chỉ dẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp trên
nhãn hoặc bao bì hàng hóa;
- Giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ
bao gồm hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không
được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý;
hàng hóa là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể quyền tác giả

hoặc quyền liên quan;
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

- Các loại đề can, nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa, tem chất lượng, tem
chống giả, phiếu bảo hành, niêm màng co hàng hóa có nội dung giả mạo tên, địa
chỉ thương nhân, nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa
(sau đây gọi tắt là tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả);
- Đối với hàng hóa thuộc diện quản lý chuyên ngành nếu pháp luật có quy
định riêng thì áp dụng các quy định đó để xác định hàng giả.
Tóm lại, hàng giả là hàng bất hợp pháp so với hàng thật được pháp luật
thừa nhận và bảo hộ.
Từ cơ sở thực tiễn và những phân tích trên, có thể khái quát về hàng giả
như sau: Hàng giả là những sản phẩm hàng hóa được sản xuất ra trái pháp luật có
hình dáng giống như những sản phẩm hàng hóa được Nhà nước cho phép sản
xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường hoặc những sản phẩm hàng hóa không
có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng
của nó, là loại sản phẩm hàng hóa mang nhãn hiệu hàng hóa giống hệt hoặc
tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với sản phẩm hàng hóa
thật mà cơ sở sản xuất kinh doanh đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp hoặc được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Việt Nam có tham gia
(Chính phủ, 2008).
2.1.1.3 Quyền sở hữu trí tuệ và hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT)
- Theo Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005: "Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng".
Một số khái niệm cụ thể:
+ Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình
sáng tạo ra hoặc sở hữu.

+ Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

+ Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
+ Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được
hưởng quyền sở hữu.
Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ
Các loại hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ được quy định tại điều 213
Luật sở hữu trí tuệ như sau:
1. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm
hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá
giả mạo nhãn hiệu) quy định tại khoản 2 Điều này và hàng hoá sao chép lậu quy
định tại khoản 3 Điều này.
2. Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn
nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang
được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu
nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.
3. Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép
của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan”
2.1.2 Bản chất, phương thức và đối tượng buôn bán hàng giả
2.1.2.1 Bản chất của việc buôn bán hàng giả
Bản chất của việc buôn bán hàng giả là hành vi cướp đoạt giá trị vật chất

và tinh thần của người khác, lừa dối người tiêu dùng để thu lợi bất chính. Các đối
tượng kinh doanh hàng giả thường tập trung vào kinh doanh một số hàng hoá có
thương hiệu, được thị trường tín nhiệm và người tiêu dùng ưa chuộng nhằm dễ
tiêu thụ sản phẩm của mình với khối lượng lớn, bán hàng nhanh và thu lợi nhuận
cao, thậm chí siêu lợi nhuận thông qua việc sử dụng nguyên liệu cấp thấp, công
nghệ sản xuất thủ công, trốn tránh được các khoản thuế,…nhằm tiết kiệm tối đa
chi phí bỏ ra cho sản phẩm hàng hóa của họ. Chính vì vậy số tiền mà người tiêu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

dùng bỏ ra để có được loại sản phẩm hàng hóa đó và giá trị sử dụng của hàng hóa
là không tương xứng với nhau (Lê Anh Tuấn, 2008).
Buôn bán hàng giả là một hoạt động kinh doanh mang nhiều lợi nhuận nên
có sức hấp dẫn lớn nên nhiều người và nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt
động này bao gồm cả những công ty chính thức, lẫn các doanh nghiệp nhỏ và cá
nhân gia đình. Cũng vì lợi nhuận đạt được trước mắt mà nhiều doanh nghiệp, cá
nhân đã từ bỏ hoạt động đầu tư vốn, đầu tư máy móc thiết bị, khoa học công nghệ
tiên tiến, nghiên cứu sáng tạo hay nâng cao chất lượng, tạo uy tín thương hiệu mà
chỉ tập trung vào làm hàng giả để kiếm lợi nhuận cao trước mắt (Nguyễn Như
Phát và Bùi Nguyên Khánh, 2010).
Ở những nước, địa phương có trình độ phát triển kém (thu nhập thấp) có
xu hướng tham gia sản xuất hàng giả càng nhiều, một mặt do sức ép việc làm, thu
nhập dẫn đến việc sản xuất để có thu nhập; mặt khác do thu nhập trung bình chưa
cao nên nhiều người muốn mua hàng rẻ.
Buôn bán hàng giả là vi phạm nguyên tắc của nền kinh tế thị trường và nó
có nguy cơ phá hoại thị trường và gây nên trì trệ trong sản xuất, làm giảm tăng
trưởng và phát triển, làm triệt tiêu động lực kinh doanh của các doanh nghiệp
chân chính. Sản xuất và buôn bán hàng giả đã và đang trở thành một thảm hoạ
trong hệ thống mậu dịch trong nước và quốc tế. Nó gây thiệt hại lớn cho nhà sản
xuất và nhà đầu tư, họ là nạn nhân của sự cạnh tranh không lành mạnh, do không

thể thu hồi vốn và có được lợi nhuận từ quá trình đầu tư của mình. Hậu quả là họ
có thể bị nản chí và giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế hoặc số lượng công ăn việc
làm bị mất đi, thậm trí có thể dẫn đến bị phá sản
Buôn bán hàng giả là vi phạm luật pháp và phải sử dụng các biện pháp luật
pháp để quản lý chứ không thể dùng các biện pháp kinh tế (Nguyễn Như Phát và
Bùi Nguyên Khánh, 2010).
2.1.2.2 Phương thức buôn bán
Phương thức vận chuyển, giao nhận, mua bán hàng giả, xâm phạm SHTT
cũng rất tinh vi, tùy từng chủng loại hàng hóa mà đối tượng vi phạm chọn
phương thức vận chuyển phù hợp cả bằng đường không, đường bộ, đường thủy,
chuyển fax nhanh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

- Hàng giả có giá trị lớn, quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, thị trường
tiêu thụ rộng, thì việc sản xuất và tiêu thụ rất tinh vi: Hàng giả rất giống hàng
thật, thậm chí nhìn bề ngoài có khi đẹp hơn hàng thật nhưng chất lượng kém hơn
hàng thật, hoặc giả về sở hữu công nghiệp (nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công
nghiệp, chỉ dẫn thương mại )
Những loại hàng trên nhiều khi là hàng nhập khẩu, hàng cao cấp, người
tiêu dùng không am hiểu nhiều về nhãn mác, xuất xứ, cấu tạo, đó là một yếu tố
dẫn đến loại hàng giả này nhiều khi được sản xuất và tiêu thụ công khai.
Buôn bán loại hàng ở dạng vi phạm này nhiều khi công khai như nhiều
loại hàng hoá khác. Những hành vi vi phạm này đã bị phát hiện, kiểm tra, xử lý,
nhiều trường hợp bắt đầu từ khiếu nại, khiếu kiện của chính nhà sản xuất ra sản
phẩm hàng hoá đang bị làm giả (Trần Văn Trọng, 2014).
- Các loại hàng giả khác, phương thức tiêu thụ phổ biến ở các dạng sau:
+ Dùng nhiều hình thức, chiêu thức khuyến mại đánh vào tâm lý người
mua để tiêu thụ hàng giả, hàng nhái như: Giảm giá, mua hàng được tặng quà
+ Giá bán nhiều loại hàng giả rẻ hơn hàng thật để người mua tham rẻ mà

tiêu thụ là phổ biến nhưng cũng có loại để tránh người tiêu dùng nghi ngờ thì
hàng giả lại được bán với giá xấp xỉ hàng thật, thậm chí có loại người tiêu dùng
biết là hàng giả nhưng vẫn chấp nhận mua, vì giá rẻ.
+ Nhiều loại hàng hoá khi bán phải kèm theo phiếu bảo hành, nhưng đối
với hàng giả, hàng nhái thì không phiếu bảo hành hoặc có nhưng là phiếu bảo
hành giả mạo làm cho người tiêu dùng tin đó là hàng chính hiệu của hãng sản
xuất có bảo hành.
+ Lừa dối người tiêu dùng bằng cách quảng cáo sai, quảng cáo quá sự thật
về công dụng, chất lượng hàng hoá, xuất xứ , hàng chất lượng thấp nhưng quảng
cáo và bán với giá như hàng có chất lượng cao.
+ Lợi dụng người tiêu dùng hiểu biết còn hạn chế về mặt hàng, về chất
lượng, nhãn hiệu hàng hoá ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn để đưa hàng
giả đến tiêu thụ. Thậm chí có loại hàng, có trường hợp đưa cả hàng có công dụng
khác hàng thật nhưng giới thiệu, quảng cáo công dụng như hàng thật, tráo trộn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

hàng giả lẫn vào hàng thật để tiêu thụ. Phương thức tiêu thụ này không những
được thực hiện ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn mà ngay tại thành phố lớn,
thị xã cũng có nhiều lọai hàng hoá người tiêu dùng không am hiểu nhiều, thiếu
hiểu biết về công dụng, cách sử dụng, chất lượng, xuất xứ thì hàng giả cũng
được đưa ra tiêu thụ (thuốc chữa bệnh, mỹ phẩm )
+ Có một số mặt hàng giả, hình thức tiêu thụ đa dạng hơn như sắt thép giả,
xi măng giả đưa vào các hộ kinh doanh bán lẻ tiêu thụ; đưa vào chính đại lý của
nhà sản xuất ra hàng hoá chính hiệu để tiêu thụ; các chủ thầu, chủ công trình lớn
vì lợi nhuận đã lợi dụng hoặc móc ngoặc, thông đồng với cơ quan quản lý, giám
sát để tiêu thụ hàng giả (Hà Tú Cầu, 2012).
2.1.2.3 Đối tượng buôn bán hàng giả
Tham gia vào hoạt động buôn bán hàng giả có đủ loại tổ chức và cá nhân
thuộc tất cả các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài nhưng phần đông và phổ biến hơn cả là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ kinh doanh cá thể. Có những tổ chức, cá nhân
buôn bán hàng giả gần như mang tính chuyên nghiệp. Họ tổ chức hoạt động
thành những kênh, những đường dây khép kín, khá chặt chẽ trong việc sản xuất -
giao nhận - vận chuyển - buôn bán - tiêu thụ hàng giả; trong đó có những quan hệ
móc nối với các tổ chức, cá nhân người nước ngoài để buôn bán hàng giả đưa vào
tiêu thụ ở Việt Nam hoặc thậm chí được sản xuất ở trong nước rồi đưa qua biên
giới để sau đó tìm cách nhập trở lại vào nước ta với nhãn mác hàng ngoại để lừa
gạt người tiêu dùng. Cụ thể:
- Đối với các Doanh nghiệp trong nước: Buôn bán hàng nhái mẫu mã, kiểu
dáng công nghiệp, sử dụng thương hiệu hàng hoá của nước ngoài để tiêu thụ tại
Việt nam và thậm chí đã có trường hợp xuất khẩu hàng vi phạm nhãn hiệu ra
nước ngoài; bán giả hàng của những doanh nghiệp VN có sản phẩm chất lượng
tốt, thị trường rộng lớn và nhu cầu tiêu thụ cao: Rượu bia, nước giải khát, nước
mắm và nhập khẩu hàng hoá có yếu tố vi phạm về sở hữu công nghiệp.
- Các loại hình doanh nghiệp, tư nhân Việt Nam liên kết với doanh nghiệp,
tư nhân nước ngoài để sản xuất tại nước ngoài, sau đó nhập khẩu vào Việt Nam
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

tiêu thụ các loại hàng giả, hàng kém chất lượng, bao bì giả nhãn và giả nhãn hiệu
hàng hoá.
- Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng tiêu thụ
hàng giả. Việc sản xuất hàng giả của loại đối tượng này thường ở dạng vi
phạm quyền sở hữu công nghiệp dẫn đến tranh chấp nhãn hiệu hàng hoá, kiểu
dáng công nghiệp, sử dụng nhãn hiệu của người khác mà không có sự đồng ý
của chủ sở hữu
- Hộ kinh danh cá thể tiêu thụ hàng giả: Đối tượng này chủ yếu tiêu thụ
những mặt hàng tiêu dùng thông thường cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của
người tiêu dùng: Xà phòng, nước gội đầu, muối I ốt, bột canh

- Đặc biệt, trong những năm gần đây khi nền kinh tế nước ta mở cửa hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế, xuất hiện nhiều loại hàng giả được sản xuất ở
nước ngoài đưa vào thị trường Việt nam tiêu thụ, đồng thời xuất hiện doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam sản xuất nhái theo mẫu mã, kiểu
dáng, thương hiệu của các sản phẩm hàng hoá nước ngoài gây tranh chấp, khiếu
nại vi phạm sở hữu công nghiệp, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Công ty
nước ngoài sản xuất hàng giả đưa vào Việt Nam tiêu thụ: Chủ yếu là hàng cao
cấp, có giá trị lớn như đầu DVD, VCD, Ti vi, các loại đồng hồ đeo tay đủ các
nhãn mác, hàng mỹ phẩm cao cấp , gắn nhãn hiệu hàng hoá cùng loại của các
hãng nước ngoài có thương hiệu nổi tiếng, như hàng điện tử, điện lạnh mang
nhãn hiệu Panasonic, Sony đồng hồ gắn nhãn hiệu Longines, Omega nhưng
thực chất hàng không phải do hãng có thương hiệu nổi tiếng đó sản xuất. Tình
trạng này đang xảy ra khá phổ biến, loại hàng giả này đã và đang được bán công
khai trên thị trường nước ta mà chủ yếu là hàng Trung Quốc. Những hàng giả
trên xâm nhập thị trường Việt nam bằng các đường: Nhập lậu, nhập khẩu tiểu
ngạch, nhập khẩu chính ngạch, hàng hóa xách tay và trao đổi của cư dân biên giới
(Nguyễn Đình Chiến, 2012).
2.1.3 Đặc điểm của hàng giả và hoạt động buôn bán hàng giả
Ngày nay, cùng với sự phát triển của thị trường hàng hóa thì hàng giả
cũng ngày càng đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã với công nghệ sản
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

xuất ngày càng tinh vi, hiện đại. Từ những sản phẩm hàng hóa tiêu dùng thông
thường thì trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều các loại hàng giả được sản
xuất với công nghệ cao khó phân biệt với hàng thật. Tuy nhiên, ở thời kỳ nào thì
hàng giả vẫn có một số đặc điểm chủ yếu đó là:
Chất lượng mẫu mã kém hơn, sản phẩm trông kém hấp dẫn hơn: kiểu
dáng, đường may, tính hoàn thiện của sản phẩm không được chăm chút như hàng
thật (nhưng đôi khi một số hàng giả lại có vẻ ngoài đẹp hơn hàng thật).

Màu sắc có thể hơi khác. Hàng giả sử dụng chất liệu rẻ tiền hơn, nên có
chất lượng kém hơn (giả da, vải nhân tạo );
Các phụ liệu (lớp lót quần áo, quai túi, khóa) thuộc hàng thứ cấp.
Nhãn hiệu sản phẩm bị bỏ đi, bị thay đổi (thêm một tiền tố hoặc hậu tố vào
tên gốc), sao chép (hình dáng, chính tả ) (Trần Văn Trọng, 2014).
Do hàng giả chủ yếu là hàng chất lượng kém được sản xuất với giá thành
hạ nhưng lại ẩn náu dưới danh nghĩa hàng thật có nhãn hiệu của các nhà sản xuất
nổi tiếng được người tiêu dùng ưa chuộng nên hàng giả vẫn được tiêu thụ nhanh,
nhiều và mang lại siêu lợi nhuận đặc biệt là tại những quốc gia mà thu nhập bình
quân của người dân còn thấp.
Sản xuất và buôn bán hàng giả là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau và
có tính nguy hại như nhau. Đặc điểm của hoạt động buôn bán hàng giả phục thuộc
rất nhiều vào loại hàng hóa bị làm giả bởi đối với mỗi loại hàng hóa khác nhau thì
phương thức sản xuất, buôn bán hàng hóa khác nhau. Ví dụ: Đối với các loại hàng
hóa tiêu dùng thông thường như: Đường kính, Bột ngọt, diêm, bột giặt,…công
nghệ sản xuất đơn giản, có cả hàng xuất xứ từ trong nước, nước ngoài và thường
được bán ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; đối với các loại sản phẩm như:
Các mặt hàng điện tử, tin học, viễn thông, mỹ phẩm …thường là hàng do nước
ngoài sản xuất, được bày bán chủ yếu ở thành thị và một số địa bàn ở nông thôn.
Nhưng nhìn chung hoạt động buôn bán hàng giả có một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Hoạt động trái với quy định của pháp luật;
- Thường được thực hiện lén lút nhằm tránh sự quan sát của mọi người và
cơ quan chức năng;
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

- Thường hoạt động trong điều kiện thiếu thốn về không gian, không đảm
bảo các điều kiện về vệ sinh an toàn, kỹ thuật, môi trường…;
- Bất chấp mọi thủ đoạn để tiêu thụ hàng hóa và thu được lợi ích từ việc
buôn bán hàng hóa giả như: Sử dụng công nghệ sản xuất thô sơ, rẻ tiền, nguyên

liệu sản xuất không đảm bảo yêu cầu chất lượng, kỹ thuật, an toàn…;
- Tập trung nhiều ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi vì lợi
dụng ở những nơi này trình độ dân trí thấp, kém hiểu biết, lại có tâm lý thích
hàng ngoại, giá rẻ nên dễ lừa gạt; hơn nữa ở đây sự kiểm tra, kiểm soát của các
cơ quan chức năng thường chưa chặt chẽ, có nhiều sơ hở nên dễ trốn tránh
(Nguyễn Đình Chiến, 2012).
Có thể khẳng định rằng thủ đoạn buôn bán hàng giả ngày càng tinh vi, đa
dạng; đó là những hành vi gian dối, lừa đảo có tính phổ biến và nguy hại ở mức
cao đối với lợi ích của xã hội và người tiêu dùng và cũng có thể lên án các hành
vi đó vì nó không loại trừ việc thu lợi nhuận từ các hành vi xâm hại sức khoẻ và
tính mạng con người, như sản xuất thuốc chữa bệnh giả, thực phẩm có chứa các
độc tố nguy hiểm
2.1.4 Các nhân tố tác động đến hoạt động buôn bán hàng giả
- Nhân tố rất quan trọng thúc đẩy buôn bán hàng giả là cạnh tranh trên
toàn cầu và trong nước ngày càng gay gắt, quyết liệt mang tính sống còn, hệ quả
của nó là các doanh nghiệp, cá nhân không đủ điều kiện cạnh tranh theo pháp luật
nảy sinh ra các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi nhuận bằng
mọi giá, không chú trọng xây dựng văn hoá kinh doanh và đạo đức nghề
nghiệp… dẫn tới con đường buôn bán hàng giả.
- Hiểu biết của công chúng về bảo hộ sở hữu công nghiệp và chống hàng
giả: Một điểm bức xúc hiện nay là sự hiểu biết và quan tâm của doanh nghiệp,
nhất là ban lãnh đạo doanh nghiệp đối với quyền sở hữu công nghiệp chưa đầy
đủ. Một phần không nhỏ các doanh nghiệp chưa thật quan tâm đến việc xác lập
các quyền về nhãn hiệu hàng hoá và sở hữu công nghiệp của mình. Vì vậy, khi
hàng hoá mang nhãn hiệu thuộc quyền sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp bị
vi phạm thì doanh nghiệp đó không có cơ sở pháp lý để kiện tụng hoặc tố cáo.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16

Mặt khác do không quan tâm đến quyền sở hữu công nghiệp đã được xác lập của

người khác nên doanh nghiệp dễ vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của các
doanh nghiệp khác.
- Nước ta nằm cạnh trung tâm sản xuất, buôn bán hàng giả lớn nhất thế
giới là Trung Quốc, có tác động rất lớn đối với thị trường nội địa. Trung Quốc
đang đối mặt với vấn đề này nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn để hạn chế nó.
- Quan hệ giao lưu, trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng, không chỉ ở
trong nước mà còn phát triển với các nước trên thế giới và trong khu vực; thông
tin, khoa học công nghệ phát triển nhanh, bên cạnh phần tích cực của nó, thì
những kẻ sản xuất - kinh doanh hàng giả cũng triệt để lợi dụng khai thác lợi thế
này. Trong quá trình phát triển kinh tế, trình độ quản lý của các cơ quan quản lý
Nhà nước còn nhiều hạn chế và cuối cùng là hệ thống pháp luật của nước ta mặc
dù đã được sửa đổi, bổ sung nhưng chưa hoàn chỉnh.
- Việc mở cửa phát triển kinh tế đối ngoại thu hút mạnh người nước ngoài
và Việt kiều vào Việt Nam đầu tư, liên doanh, liên kết, tham quan du lịch, đồng
thời kéo theo hoạt động buôn bán hàng giả, hàng nhái sản phẩm của các cơ sở sản
xuất nổi tiếng trên thế giới và thông qua đó họ lợi dụng vận chuyển và sử dụng
séc chuyển tiền giả, thẻ Master card giả, tiền Việt Nam, ngoại tệ giả và các loại
giấy tờ giả khác.
- Thủ đoạn buôn bán hàng giả ngày càng tinh vi hơn do sự phát triển của
khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức, nhưng phổ biến nhất vẫn là các loại
hàng giả về chất lượng, công dụng, giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công
nghiệp, nguồn gốc xuất xứ
- Đối với đa số người tiêu dùng, các hiểu biết về bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá, sở hữu công nghiệp và chống hàng giả cũng chưa được phổ cập; vì vậy họ
thường dễ bị nhầm lẫn khi mua hàng và khi phát hiện ra hàng hoá xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp, hàng giả thì thường lúng túng không biết phải làm gì.
Trên đây là một số nét chung đang tác động mạnh đến hoạt động buôn bán
hàng giả ở nước ta. Dưới đây có thể hệ thống hoá bước đầu những nhân tố chủ
yêu thúc đẩy tình hình buôn bán hàng giả:

×