Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đề cương chi tiết môn Công chứng Luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.92 KB, 30 trang )

PHẦN 1: CÔNG CHỨNG
1. Công chứng
1.1 Sơ lược về sự ra đời, phát triển thể chế công chứng
1.1.1 Sơ lược về sự ra đời, phát triển thể chế công chứng trên thế giới
- Thể chế công chứng trên thế giới phát triển khá sớm, khoảng thế kỷ XI, XII khi kinh tế hàng
hóa và các quan hệ giao dịch phát triển.
- Về thuật ngữ, công chứng có nguồn gốc từ tiếng Latin là “Notarius” có nghĩa là ghi chép,
viết.
- Hoạt động công chứng trên thế giới hiện nay rất đa dạng. Căn cứ vào một số đặc điểm nhất
định, có thể chia thành hai hệ thống công chứng lớn: hệ thống công chứng La tin (Châu Âu lục
địa) và hệ thống công chứng của các nước theo hệ thống thông luật (Common Law).
- Mô hình công chứng Latin có một số đặc điểm:
+ Các nguyên tắc cơ bản về công chứng được xác lập bởi liên minh quốc tế các công chứng
viên Latin (UINL).
+ Công chứng viên là người hành nghề luật được chứng thực tính xác thực của hành vi và hợp
đồng mà mình soạn thảo.
+ Tư vấn cho các bên về pháp lý, giúp đỡ các bên để đạt được sự lựa chọn, hòa giải ở mức độ
có thể.
+ Công chứng viên chịu trách nhiệm nếu do lỗi của mình và gây thiệt hại cho khách hàng.
+ Văn phòng công chứng là văn phòng công (public office), nơi công chứng viên thực hiện
công việc của mình một cách độc lập, vô tư.
+ Văn bản công chứng được coi là hợp pháp và đúng, có giá trị chứng cứ, trừ khi bị Tòa án
tuyên vô hiệu.
+ Văn bản công chứng có giá trị thi hành (như bản án hay quyết định của Tòa án).
- Mô hình công chứng tại các nước theo truyền thống thông luật:
+ Xác nhận chữ ký và thông tin cá nhân cho các bên.
+ Sao tài liệu và chứng nhân chúng là đúng và hoàn chỉnh (theo nghĩa hình thức)
+ Không có thẩm quyền tư vấn về các vấn đề vế pháp lý.
+ Văn bản tư được các công chứng nhân không có giá trị cứ như mô hình công chứng La tin.
1.1.2 Một vài nét về sự ra đời, phát triển thể chế công chứng ở Việt Nam
- Thể chế công chứng ở Việt Nam được hình thành từ thời kỳ pháp thuộc (gọi là chưởng khế).


- Ngay từ những ngày đầu khi mới ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã ban hành
những văn bản mang tính chất công chứng.
- Nghị định 45/HĐBT ngày 27/02/1991, Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996, Nghị
định75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000, Luật công chứng ngày 29/11/ 2006 là những văn bản
quan trọng đánh dấu những giai đoạn phát triển của thể chế công chứng ở Việt Nam.
1.2 Khái quát về công chứng
1
1.1.2. Khái niệm công chứng
- Như trên đã nói, thuật ngữ Notariat có gốc Latin Notarius có nghĩa là viết, ghi chép.
- Năm 1945, chúng ta dịch thuật nghĩa Notariat là công chứng, thuật ngữ “Notaire” (tiếng
Pháp), chúng ta dịch là công chứng viên, năm 1954, Chính quyền Sài Gòn dịch là chưởng
khế…
- Hiểu thống nhất nội dung của thuật ngữ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định chế
thể chế công chứng. Nội dung của thuật ngữ này nêu trong 3 Nghị định và trong Luật công
chứng ở nước ta có sự khác nhau, song có sự giống nhau cơ bản, đó là: công chứng là việc xác
nhận tính xác thực của hợp đồng, giao dịch.
- Điều 2, Luật công chứng qui định: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính
xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch)
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng”. Như vậy, theo qui định của Luật công chứng hiện hành, cần chú
ý một số đặc điểm của khái niệm công chứng :
+ Công chứng phải do công chứng viên thực hiện.
+ Là việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch.
+ Hình thức văn bản công chứng là văn bản.
- Mục đích, ý nghĩa của công chứng :
+ Quản lý thống nhất, chặt chẽ các hợp đồng, giao dịch .
+ Tạo hành lang pháp lý an toàn trong quan hệ giao dịch.
+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch.
+ Tư vấn pháp lý cho cá nhân, tổ chức khi tham gia quan hệ hợp đồng và các giao dịch khác.
+ Hạn chế, ngăn ngừa các vi phạm, tranh chấp xảy ra trong giao lưu dân sự.

+ Giúp cho việc giải quyết các tranh chấp có căn cứ, có cơ sở.
1.2.1. Nguyên tắc hành nghề công chứng
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
- Khách quan, trung thực.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng.
- Tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
1.2.2. Hình thức văn bản công chứng
- Hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng theo quy định của Luật này gọi là
văn bản công chứng
- Văn bản công chứng bao gồm các nội dung sau đây:a) Hợp đồng, giao dịch; b) Lời chứng
của công chứng viên.
- Tiếng nói và chữ viết dùng trong công chứng là tiếng Việt.
1.3. Tổ chức hành nghề công chứng :
- Phòng công chứng.
2
- Văn phòng công chứng.
- Quyền của tổ chức hành nghề công chứng :
+ Thuê nhân viên làm việc cho tổ chức hành nghề công chứng.
+ Thu phí công chứng, thù lao công chứng, chi phí khác.
+ Các quyền khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan.
- Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng:
+ Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, phí công chứng, thù lao công chứng, nội quy
tiếp người yêu cầu công chứng tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.
+ Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước.
+ Chấp hành các quy định của pháp luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê.
+ Chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra,
thanh tra.
+ Bồi thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng gây ra
cho người yêu cầu công chứng.

+ Lưu trữ hồ sơ công chứng.
+ Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng
viên của tổ chức mình.
+ Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan.
1.4. Công chứng viên
- Tiêu chuẩn công chứng viên :
- Đào tạo nghề công chứng:
- Tập sự hành nghề công chứng.:
- Khi hết thời gian tập sự, người tập sự hành nghề công chứng phải báo cáo kết quả tập sự
bằng văn bản có nhận xét của công chứng viên hướng dẫn về năng lực chuyên môn, tư cách
- Công chứng viên có các quyền sau đây:
+ Được lựa chọn nơi để hành nghề công chứng, trừ công chứng viên của Phòng công chứng;
+ Đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện việc
công chứng;
+ Các quyền khác quy định tại Luật công chứng .
+ Công chứng viên có các nghĩa vụ sau đây:
+ Tuân thủ nguyên tắc hành nghề công chứng;
+ Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng;
+ Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý
bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;
3
+ Hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng.
1.5. Trình tự, thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch
1.5.1. Thủ tục chung Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn :
- Người yêu cầu công chứng nộp một bộ hồ sơ yêu cầu công chứng, gồm các giấy tờ sau đây:
+ Phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch theo mẫu;
+ Dự thảo hợp đồng, giao dịch;
+ Bản sao giấy tờ tuỳ thân;
+ Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được

pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử
dụng, trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó;
+ Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có.
+ Bản sao là bản chụp, bản in, bản đánh máy hoặc bản đánh máy vi tính nhưng phải có nội
dung đầy đủ, chính xác như bản chính và không phải có chứng thực.
+ Khi nộp bản sao thì người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản chính để đối chiếu.
+ Công chứng viên tiếp nhận hồ sơ và kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng.
Trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật thì thụ lý,
ghi vào sổ công chứng.
+ Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ,
việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe doạ, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực
hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc có sự nghi ngờ đối tượng của hợp đồng,
giao dịch là không có thật thì công chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc
theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu
giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng.
+ Công chứng viên kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch; nếu trong dự thảo hợp đồng, giao
dịch có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch
không phù hợp với thực tế thì công chứng viên phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng để
sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không sửa chữa thì công chứng viên có
quyền từ chối công chứng.
+ Người yêu cầu công chứng tự đọc lại dự thảo hợp đồng, giao dịch hoặc công chứng viên đọc
cho người yêu cầu công chứng nghe. Trường hợp người yêu cầu công chứng đồng ý toàn bộ
nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch.
Công chứng viên ghi lời chứng; ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch.
- Công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo theo đề nghị của người yêu
cầu công chứng:
+ Người yêu cầu công chứng nộp một bộ hồ sơ theo quy định tại các điểm a, c, d và đ khoản 1
Điều 35 của Luật này và nêu nội dung, ý định giao kết hợp đồng, giao dịch.
+ Công chứng viên thực hiện các việc quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 35 của Luật này.
+ Trường hợp nội dung, ý định giao kết hợp đồng, giao dịch là xác thực, không vi phạm pháp

luật, không trái đạo đức xã hội thì công chứng viên soạn thảo hợp đồng, giao dịch.
4
+ Người yêu cầu công chứng tự đọc dự thảo hợp đồng, giao dịch hoặc công chứng viên đọc
cho người yêu cầu công chứng nghe. Trường hợp người yêu cầu công chứng đồng ý toàn bộ
nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch.
Công chứng viên ghi lời chứng; ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch.
+ Thẩm quyền công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản:
+ Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng có thẩm quyền công chứng các hợp
đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ
chức hành nghề công chứng đặt trụ sở .
+ Công chứng viên của các tổ chức hành nghề công chứng có thẩm quyền công chứng di chúc,
văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản.
- Địa điểm công chứng :
+ Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
+ Việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng
trong trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu không thể đi lại được, người
đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể
đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.
- Chữ viết trong văn bản công chứng
+ Chữ viết trong văn bản công chứng phải rõ ràng, dễ đọc, không được viết tắt hoặc viết bằng
ký hiệu, không được viết xen dòng, viết đè dòng, không được tẩy xoá, không được để trống,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
+ Thời điểm công chứng phải được ghi cả ngày, tháng, năm; có thể ghi giờ, phút nếu người
yêu cầu công chứng đề nghị hoặc công chứng viên thấy cần thiết. Các con số phải được ghi cả
bằng số và chữ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng:
+ Người yêu cầu công chứng, người làm chứng phải ký vào văn bản công chứng trước mặt
công chứng viên.
+ Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh

nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể ký
trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký
mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.
+ Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong văn bản công chứng trong các trường hợp người
yêu cầu công chứng, người làm chứng không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi
điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm
chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ
bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón
nào, của bàn tay nào.
+ Việc điểm chỉ cũng có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các trường hợp sau đây:
Công chứng di chúc; Theo đề nghị của người yêu cầu công chứng; Công chứng viên thấy cần
thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng.
5
- Việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng:
+ Văn bản công chứng có từ hai trang trở lên thì từng trang phải được đánh số thứ tự.
+ Văn bản công chứng có từ hai tờ trở lên phải được đóng dấu giáp lai giữa các tờ.
- Sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng
+ Lỗi kỹ thuật là lỗi do sai sót trong khi ghi chép, đánh máy, in ấn trong văn bản công chứng
mà việc sửa lỗi đó không làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người tham gia hợp đồng,
giao dịch.
+ Người thực hiện việc sửa lỗi kỹ thuật văn bản công chứng phải là công chứng viên của tổ
chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng đó. Trường hợp tổ chức hành nghề
công chứng đã thực hiện việc công chứng chấm dứt hoạt động hoặc giải thể thì công chứng
viên thuộc tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thực hiện việc sửa lỗi
kỹ thuật.
+ Khi sửa lỗi kỹ thuật văn bản công chứng, công chứng viên có trách nhiệm đối chiếu từng lỗi
cần sửa với các giấy tờ trong hồ sơ công chứng, gạch chân chỗ cần sửa, sau đó ghi chữ, dấu
hoặc con số đã được sửa vào bên lề kèm theo chữ ký của mình và đóng dấu của tổ chức hành
nghề công chứng. Công chứng viên có trách nhiệm thông báo việc sửa lỗi kỹ thuật đó cho
người tham gia hợp đồng, giao dịch.

- Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch
+ Việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện
khi có sự thoả thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao
dịch đó và phải được công chứng.
+ Người thực hiện việc công chứng sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch phải là công
chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng đó. Trường hợp
tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng chấm dứt hoạt động hoặc giải thể
thì công chứng viên thuộc tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thực
hiện việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch.
+ Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hợp đồng, giao dịch được thực hiện theo thủ tục
công chứng hợp đồng, giao dịch lần đầu.
- Người được đề nghị Toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu: Công chứng viên, người yêu
cầu công chứng, người làm chứng, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền có quyền đề nghị Toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho
rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật.
1.5.2 Trình tự, thủ tục công chứng trong các trường hợp cụ thể
- Công chứng hợp đồng thế chấp bất động sản:
+ Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng hợp đồng thế
chấp bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có bất động sản, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 37( khoản 2 qui định: Công chứng viên của các tổ chức
hành nghề công chứng có thẩm quyền công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất
động sản)
6
+ Nhiều bất động sản thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau cùng được
thế chấp để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc công chứng hợp đồng thế chấp đó do
công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng có trụ sở đặt tại tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi có một trong số bất động sản thực hiện.
+ Một bất động sản đã được thế chấp để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ và hợp đồng thế
chấp đã được công chứng mà sau đó được tiếp tục thế chấp để bảo đảm cho một nghĩa vụ khác
trong phạm vi pháp luật cho phép thì các hợp đồng thế chấp tiếp theo phải do công chứng viên

đã công chứng hợp đồng thế chấp lần đầu thực hiện công chứng. Trường hợp công chứng viên
công chứng hợp đồng thế chấp lần đầu chuyển sang tổ chức hành nghề công chứng khác,
không còn hành nghề công chứng hoặc không thể thực hiện việc công chứng thì công chứng
viên thuộc tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hợp đồng thế chấp công chứng hợp
đồng đó.
- Công chứng di chúc:
+ Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc; không ủy quyền cho người
khác yêu cầu công chứng di chúc.
+ Trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc có căn cứ cho rằng việc
lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì công chứng viên từ chối công
chứng di chúc đó hoặc theo đề nghị của người lập di chúc tiến hành xác minh hoặc yêu cầu
giám định.
+ Trong trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe doạ thì người yêu cầu công chứng
không phải xuất trình đầy đủ giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật này nhưng phải
ghi rõ trong văn bản công chứng.
+ Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửa đổi, bổ sung, thay
thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất kỳ công chứng viên nào công
chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó. Trong trường hợp di chúc trước đó đang
được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công chứng thì người lập di chúc phải thông báo cho
tổ chức hành nghề công chứng đó biết việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc.
- Công chứng văn bản thoả thuận phân chia di sản:
+ Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ
phần di sản được hưởng của từng người thì họ có quyền yêu cầu công chứng văn bản thoả
thuận phân chia di sản.
+ Trong văn bản thoả thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ
hoặc một phần quyền hưởng di sản của mình cho người thừa kế khác.
+ Trong trường hợp di sản là quyền sử dụng đất hoặc tài sản pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu thì người yêu cầu công chứng phải xuất trình giấy tờ để chứng minh quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu tài sản của người để lại di sản đó.

+ Trong trường hợp thừa kế theo pháp luật, người yêu cầu công chứng còn phải xuất trình
giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định
của pháp luật về thừa kế.Trong trường hợp thừa kế theo di chúc, người yêu cầu công chứng
còn phải xuất trình di chúc.
7
+ Công chứng viên phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu tài sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng
di sản; nếu thấy chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không
đúng pháp luật thì từ chối yêu cầu công chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công
chứng, công chứng viên tiến hành xác minh.
+ Văn bản thoả thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các căn cứ để cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản
cho người được hưởng di sản.
- Công chứng văn bản khai nhận di sản :
+ Người duy nhất được hưởng di sản theo pháp luật hoặc những người cùng được hưởng di
sản theo pháp luật nhưng thỏa thuận không phân chia di sản đó có quyền yêu cầu công chứng
văn bản khai nhận di sản.
+ Việc công chứng văn bản khai nhận di sản được thực hiện theo quy định tại các khoản 2, 3
và 4 Điều 49 của Luật này.
- Công chứng văn bản từ chối nhận di sản: Người thừa kế có thể yêu cầu công chứng văn bản
từ chối nhận di sản. Khi yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản, người yêu cầu công
chứng phải xuất trình giấy tờ tuỳ thân.
- Nhận lưu giữ di chúc:
+ Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nhận lưu giữ di chúc của
mình. Khi nhận lưu giữ di chúc, công chứng viên phải niêm phong bản di chúc trước mặt
người lập di chúc, ghi giấy nhận lưu giữ và giao cho người lập di chúc.
+ Đối với di chúc đã được tổ chức hành nghề công chứng nhận lưu giữ nhưng sau đó giải thể
hoặc chấm dứt hoạt động thì trước khi giải thể hoặc chấm dứt hoạt động, tổ chức hành nghề
công chứng phải thoả thuận với người lập di chúc về việc chuyển cho tổ chức hành nghề công
chứng khác lưu giữ di chúc. Trường hợp không thoả thuận được thì phải trả lại di chúc và phí

lưu giữ di chúc cho người lập di chúc.
+ Việc công bố di chúc lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng được thực hiện theo quy
định của pháp luật về dân sự.
1.6. Một số vấn đề khác
- Lưu trữ hồ sơ công chứng
- Phí công chứng, thù lao công chứng
PHẦN 2 : LUẬT SƯ
2. Luật sư
2.1.Khái lược sự ra đời, phát triển nghề luật sư
2.1.1.Nghề luật sư trên thế giới
- Mầm mồng nghề luật sư có từ phương Tây từ rất sớm(TKV trước CN), ra đời trong Nhà
nước La mã cổ đại (Khoảng 150 TCN)
- Thời kỳ đầu, luật sư là nghề không được trả thù lao, mang tính nghĩa hiệp.
- Trong xã hội tư bản, nghề luật sư phát triển rất mạnh.
8
- Ở một số nước, luật sư được chia làm hai loại là luật sư biện hộ và luật sư tư vấn (Anh,
Úc ,).
- Đa số các nước hiện nay (nhất là các nước theo hệ thống luật thanh văn), luật sư là nghề tư
do.
2.1.2.Nghề luật sư ở Việt Nam
- Ra đời trong thời kỳ Pháp thuộc (Thế kỷ XIX).
- Ngay từ ngày đầu mới ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã rất chú trọng công
tác bào chữa và chế định luật sư.
- Tất cả các bản Hiến pháp nước ta đều qui định về quyền bào chữa của công dân. Đặc biệt,
từ Hiến pháp 1980 (Điều 133), Hiến pháp 1992( Điều 132) đã chỉ rõ tổ chức luật sư được
thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và bảo vệ
pháp chế XHCN.
- Sau khi Hiến pháp 1980 qui định như trên, năm 1987, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp
lệnh tổ chức luật sư – đây là văn bản pháp luật mang tính toàn diện đầu tiên định chế tổ chức
và họat động của tổ chức luật sư ở nước ta. Pháp lệnh luật sư năm 2001 sau đó đã thay thế

pháp lệnh 1987. Do sự thay đổi mạnh mẽ của đời sống xã hội nói chung, cũng như yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp và trong điều kiện hội nhập quốc tế, ngày 29/6/2006, Quốc hội đã
ban hành Luật luật sư. Ngày 20/11/2012, Luật sửa đổi một số điều của Luật luật sư ra đời.
2.2.Vai trò của luật sư:
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân
chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh. Điều này được thể hiện trên các mặt sau đây:
2.2.1.Vai trò của luật sư trong việc bào chữa đối với bị can, bị cáo
- Nhằm bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, tránh oan sai cho bị can, bị
cáo.
- Hạn chế sự lạm quyền từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là cơ quan điều tra.
- Góp phần giải quyết vụ án mang tính khách quan, toàn diện.
- Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa
2.2.2.Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho các đương sự
- Bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong việc giải quyết các vụ án dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính
- Bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong việc giải quyết khiếu nại.
2.2.3.Vai trò của luật sư trong việc tư vấn pháp luật
- Tư vấn cho các doanh nghiệp trong các quan hệ thương mại
- Tư vấn cho cơ quan, tổ chức trong tổ chức, họat động.
- Tư vấn cho cá nhân trong công việc và đời sống.
2.2.4.Vai trò của luật sư trong hoạt động xây dựng pháp luật
9
- Là những chuyên gia trong các lĩnh vực luật pháp
- Qua công tác thực tiễn, luật sư là những người có nhiều kinh nghiệm. Do đó những ý kiến
của luật sư rất đáng quan tâm, kể cả về nội dung và hình thức của pháp luật
- Trong xu thế dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, vai trò của luật sư trong lại càng quan trọng
2.2.5.Vai trò của luật sư trong quá trình toàn cầu hóa, qúa trình hội nhập kinh tế quốc

tế
- Tư vấn cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong xử lý các vấn đề quốc tế.
- Kiến nghị với Nhà nước về đường lối, chính sách, về hoàn thiện hệ thống pháp luật .
- Tư vấn cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong việc giao thương quốc tế.
- Bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân trong các mối quan hệ quốc tế
2.3.Luật sư
- Tiêu chuẩn luật sư: công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã
qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở
thành luật sư.
- Luật sư có các quyền sau đây:
+ Hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật sư và hình thức tổ chức hành nghề
luật sư theo quy định của Luật này;
+ Hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam;
+ Hành nghề luật sư ở nước ngoài;
+ Các quyền khác theo quy định của Luật này.
+ Luật sư có các nghĩa vụ sau đây:
+ Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật sư;
+ Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng;
+ Tham gia tố tụng trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu;
+ Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí;
+ Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.
- Nghiêm cấm luật sư thực hiện các hành vi sau đây:
+ Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án
hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật
(sau đây gọi chung là vụ, việc);
+ Cố ý cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật;
xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng
khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật;
+ Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ

trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;
10
+ Sách nhiễu, lừa dối khách hàng;
+ Nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản
thù lao và chi phí đã thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý;
+ Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công
chức, viên chức khác để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ, việc;
+ Lợi dụng việc hành nghề luật sư, danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
+ Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho các
khách hàng thuộc đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật; từ chối
vụ, việc đã đảm nhận theo yêu cầu của tổ chức trợ giúp pháp lý, của các cơ quan tiến hành
tố tụng, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc theo quy định của pháp luật;
+ Có lời lẽ, hành vi xúc phạm cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng;
+ Tự mình hoặc giúp khách hàng thực hiện những hành vi trái pháp luật nhằm trì hoãn,
kéo dài thời gian hoặc gây khó khăn, cản trở hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và các
cơ quan nhà nước khác.
- Dịch vụ pháp lý của luật sư gồm:
+ Tham gia tố tụng;
+ Tư vấn pháp luật;
+ Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác
- Phạm vi hành nghề luật sư
- Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là
người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
- Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy

định của pháp luật.
- Thực hiện tư vấn pháp luật.
- Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp
luật.
- Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này
- Hình thức hành nghề của luật sư:
Luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây:
- Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư:Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư
được thực hiện bằng việc thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm
việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư.
- Hành nghề với tư cách cá nhân.
11
- Luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này để hành nghề.
2.4.Tổ chức hành nghề luật sư
2.4.1.Hình thức tổ chức hành nghề luật sư
- Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm: Văn phòng luật sư; Công ty luật.
- Tổ chức hành nghề luật sư được tổ chức, hoạt động theo quy định của Luật luật sư và quy
định khác của pháp luật có liên quan.
- Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một tổ chức hành nghề luật sư tại
địa phương nơi có Đoàn luật sư mà luật sư đó là thành viên. Trong trường hợp luật sư ở các
Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập một công ty luật thì có thể lựa chọn thành lập
và đăng ký hoạt động tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành
viên.
2.4.2.Văn phòng luật sư
- Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh
nghiệp tư nhân. Luật sư thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng. Trưởng văn phòng là
người đại diện theo pháp luật của văn phòng.
- Tên của văn phòng luật sư do luật sư lựa chọn và theo quy định của Luật doanh nghiệp

nhưng phải bao gồm cụm từ "văn phòng luật sư", không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên
của tổ chức hành nghề luật sư khác đã được đăng ký hoạt động, không được sử dụng từ ngữ,
ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
- Văn phòng luật sư có con dấu, tài khoản theo quy định của pháp luật.
2.4.3.Công ty luật
- Công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Thành
viên của công ty luật phải là luật sư.
- Công ty luật hợp danh do ít nhất hai luật sư thành lập. Công ty luật hợp danh không có
thành viên góp vốn.
- Công ty luật trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên và công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên do ít nhất hai luật sư thành lập. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do một luật sư thành lập và làm chủ sở hữu.
- Các thành viên công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên thoả thuận cử một thành viên làm Giám đốc công ty. Luật sư làm chủ sở hữu công ty luật
trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Giám đốc công ty.
- Tên của công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do
các thành viên thoả thuận lựa chọn, tên của công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên
do chủ sở hữu lựa chọn và theo quy định của Luật doanh nghiệp nhưng phải bao gồm cụm từ
"công ty luật hợp danh" hoặc "công ty luật trách nhiệm hữu hạn", không được trùng hoặc gây
nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề luật sư khác đã được đăng ký hoạt động, không được
12
sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục
của dân tộc.
2.4.4.Quyền của tổ chức hành nghề luật sư
- Thực hiện dịch vụ pháp lý.
- Nhận thù lao từ khách hàng.
- Thuê luật sư Việt Nam, luật sư nước ngoài và nhân viên làm việc cho tổ chức hành nghề
luật sư.
- Hợp tác với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài.

- Thành lập chi nhánh, văn phòng giao dịch trong nước.
- Đặt cơ sở hành nghề ở nước ngoài.
- Các quyền khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.4.5. Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư
- Hoạt động theo đúng lĩnh vực hành nghề ghi trong Giấy đăng ký hoạt động.
- Thực hiện đúng những nội dung đã giao kết với khách hàng.
- Cử luật sư của tổ chức mình tham gia tố tụng theo phân công của Đoàn luật sư.
- Tạo điều kiện cho luật sư của tổ chức mình thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí.
- Bồi thường thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức mình gây ra cho khách hàng trong khi
thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, dịch vụ pháp lý khác.
- Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư của tổ chức mình theo quy định của
pháp luật về kinh doanh bảo hiểm
- Chấp hành quy định của pháp luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê.
- Chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra,
thanh tra.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.5. Hành nghề Luật sư với tư cách cá nhân.
2.5.1. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân
- Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân là việc luật sư tự mình nhận vụ, việc, cung cấp dịch
vụ pháp lý cho khách hàng, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động
hành nghề và hoạt động theo loại hình hộ kinh doanh cá thể. Luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân chỉ được đăng ký một địa điểm giao dịch và không có con dấu.
- Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân bằng việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng
theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, làm việc cho cơ quan, tổ chức theo hợp đồng lao động.
2.5.2. Quyền, nghĩa vụ của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý
- Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý có các quyền sau
đây:a) Thực hiện dịch vụ pháp lý;b) Nhận thù lao từ khách hàng;c) Các quyền khác theo quy
định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
13
- Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý có các nghĩa vụ sau

đây:a) Hoạt động theo đúng lĩnh vực hành nghề ghi trong Giấy đăng ký hành nghề luật sư;b)
Thực hiện đúng những nội dung đã giao kết với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý;c)
Bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp
luật, đại diện ngoài tố tụng, dịch vụ pháp lý khác;d) Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm;đ) Chấp hành quy định của pháp luật về
thuế, tài chính, thống kê;e) Chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra;g) Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và quy định
khác của pháp luật có liên quan.
2.5.3. Quyền, nghĩa vụ của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động
- Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động được thực hiện dịch vụ pháp
lý theo nội dung hợp đồng lao động đã giao kết với cơ quan, tổ chức.
- Quyền, nghĩa vụ của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao
động, của cơ quan, tổ chức thuê luật sư được thực hiện theo quy định của pháp luật về lao
động, Luật luật sư và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.6. Thù lao, chi phí; tiền lương theo hợp đồng lao động
2.6.1. Thù lao luật sư:
Khách hàng phải trả thù lao khi sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư.Việc nhận thù lao
được thực hiện theo quy định của Luật luật sư và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Mức thù lao được tính dựa trên các căn cứ sau đây:a) Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp
lý;b) Thời gian và công sức của luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý;c) Kinh nghiệm
và uy tín của luật sư.
- Thù lao được tính theo các phương thức sau đây:a) Giờ làm việc của luật sư;b) Vụ, việc với
mức thù lao trọn gói;c) Vụ, việc với mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm của giá ngạch vụ
kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự án;d) Hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố định.
- Mức thù lao được thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; đối với vụ án hình sự mà luật
sư tham gia tố tụng thì mức thù lao không được vượt quá mức trần thù lao do Chính phủ quy
định. Tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện dịch vụ pháp lý do các
bên thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
- Thù lao, chi phí trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng :Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành

tố tụng được nhận thù lao và được thanh toán chi phí theo quy định của Chính phủ.
2.6.2. Tiền lương theo hợp đồng lao động của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân
- Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc cho cơ quan, tổ chức theo hợp đồng lao
động được nhận tiền lương theo thoả thuận trong hợp đồng lao động.
- Việc thoả thuận, chi trả tiền lương được thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động.
2.6.3.Giải quyết tranh chấp về thù lao, chi phí, tiền lương theo hợp đồng lao động
- Việc giải quyết tranh chấp có liên quan đến thù lao và chi phí của luật sư được thực hiện
theo quy định của pháp luật về dân sự.
14
- Việc giải quyết tranh chấp về tiền lương của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc
cho cơ quan, tổ chức theo hợp đồng lao động được thực hiện theo quy định của pháp luật về
lao động.
2.7. Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư
2.7.1.Đoàn luật sư
- Đoàn luật sư là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, tổ chức và hoạt động theo Luật này và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Đoàn
luật sư có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự trang
trải bằng nguồn thu từ phí thành viên, các khoản đóng góp của thành viên và các nguồn thu
hợp pháp khác.
- Tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có từ ba người có Chứng chỉ hành nghề luật
sư trở lên thì được thành lập Đoàn luật sư. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương cho phép thành lập Đoàn luật sư sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
- Đoàn luật sư không được ban hành nghị quyết, quyết định, nội quy, quy định về phí, khoản
thu và các quy định khác trái với quy định của pháp luật và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt
Nam.
- Thành viên của Đoàn luật sư là các luật sư.
- Quyền và nghĩa vụ của thành viên Đoàn luật sư do Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam
quy định.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư ( Điều 61Luật sửa đổi bổ sung Luật Luật sư 2012)
- Điều lệ Đoàn luật sư ( Điều 63 Luật Luật sư hiện hành)

2.7.2.Liên đoàn luật sư Việt Nam
- Liên đoàn luật sư Việt Nam là tổ chức xã hội – nghề nghiệp thống nhất trong toàn quốc của
các luật sư Việt Nam; tập hợp, đoàn kết, đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật
sư và các Đoàn luật sư là thành viên của Liên đoàn; thực hiện chế độ tự quản của tổ chức xã
hội – nghề nghiệp luật sư theo qui định của Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ của Liên đoàn
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn luật sư Việt Nam ( Điều 65 Luật sửa đổi bổ sung Luật
Luật sư 2012)
- Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam (Điều 67 Luật sửa đổi bổ sung Luật Luật sư 2012)
2.8.Hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, của luật sư nước ngoài
tại Việt Nam
2.8.1.Hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam
- Điều kiện hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài : 1. Cam kết và bảo đảm
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;2. Cam kết và
bảo đảm có ít nhất hai luật sư nước ngoài, kể cả Trưởng chi nhánh, Giám đốc công ty luật
nước ngoài có mặt và hành nghề tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong khoảng thời gian liên
tục mười hai tháng;3. Trưởng chi nhánh, Giám đốc công ty luật nước ngoài tại Việt Nam phải
có ít nhất hai năm liên tục hành nghề luật sư.”
15
- Hình thức hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài :Tổ chức hành nghề luật
sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam dưới các hình thức sau đây: a) Chi nhánh của tổ chức
hành nghề luật sư nước ngoài (sau đây gọi là chi nhánh);b) Công ty luật trách nhiệm hữu hạn
một trăm phần trăm vốn nước ngoài, công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên
doanh, công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và công ty luật hợp
danh Việt Nam (sau đây gọi chung là công ty luật nước ngoài).
- Chi nhánh, công ty luật nước ngoài được tổ chức, hoạt động theo quy định của Luật
này, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên
quan.
- Chính phủ quy định việc hợp nhất, sáp nhập các công ty luật nước ngoài cùng loại;
chuyển đổi chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài thành công ty luật trách nhiệm hữu

hạn một trăm phần trăm vốn nước ngoài; chuyển đổi công ty luật nước ngoài thành công ty
luật Việt Nam; tạm ngừng, chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài.”
- Phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài : Chi nhánh, công ty luật
nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý
khác, không được cử luật sư nước ngoài và luật sư Việt Nam trong tổ chức hành nghề của
mình tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam hoặc thực hiện các dịch vụ về giấy tờ
pháp lý và công chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam, được cử luật sư Việt Nam trong tổ
chức hành nghề của mình tư vấn pháp luật Việt Nam.
- Công ty luật nước ngoài: Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một trăm phần trăm vốn
nước ngoài là tổ chức hành nghề luật sư do một hoặc nhiều tổ chức hành nghềluật sư nước
ngoài thành lập tại Việt Nam. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh là tổ
chức hành nghề luật sư liên doanh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và tổ chức hành
nghề luật sư Việt Nam. Công ty luật hợp danh là tổ chức hành nghề luật sư hợp danh giữa tổ
chức hành nghề luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam. Giám đốc công ty luật
nước ngoài là luật sư nước ngoài hoặc luật sư Việt Nam
- Chi nhánh, công ty luật nước ngoài có các quyền sau đây:a) Thực hiện dịch vụ pháp lý về
các lĩnh vực ghi trong Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động;b) Nhận thù lao từ khách
hàng;c) Thuê luật sư nước ngoài, luật sư Việt Nam, lao động nước ngoài, lao động Việt
Nam;d) Nhận người tập sự hành nghề luật sư Việt Nam vào tập sự hành nghề luật sư;đ)
Chuyển thu nhập từ hoạt động hành nghề ra nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt
Nam;e) Các quyền khác theo quy định của Luật này, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về
đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Chi nhánh, công ty luật nước ngoài có các nghĩa vụ sau đây:a) Hoạt động theo đúng lĩnh
vực ghi trong Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động;b) Thực hiện đúng những nội dung
đã giao kết với khách hàng;c) Bồi thường thiệt hại vật chất do lỗi mà luật sư gây ra cho khách
hàng trong khi thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý
khác;d) Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các luật sư hành nghề tại Việt Nam theo
quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm;đ) Chấp hành quy định của pháp luật Việt
Nam về lao động, kế toán, thống kê và thực hiện nghĩa vụ thuế, tài chính;e) Nhập khẩu phương

tiện cần thiết cho hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam;g) Các nghĩa vụ khác theo
quy định của Luật này, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư và quy định khác của
pháp luật có liên quan.
16
2.8.2.Điều kiện hành nghề của luật sư nước ngoài
- Luật sư nước ngoài đáp ứng đủ các điều kiện sau đây thì được cấp Giấy phép hành nghề luật
sư tại Việt Nam: 1. Có Chứng chỉ hành nghề luật sư đang còn hiệu lực do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền của nước ngoài cấp;2. Có kinh nghiệm tư vấn pháp luật nước ngoài, pháp luật
quốc tế;3. Cam kết tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam;4. Được tổ chức hành nghề
luật sư nước ngoài cử vào hành nghề tại Việt Nam hoặc được chi nhánh, công ty luật nước
ngoài tại Việt Nam, tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam đồng ý tuyển dụng vào làm việc
tại các tổ chức đó.”
- Phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài : Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam
được tư vấn pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế, được thực hiện các dịch vụ pháp lý
khác liên quan đến pháp luật nước ngoài, được tư vấn pháp luật Việt Nam trong trường hợp có
Bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như đối với một luật
sư Việt Nam, không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam.”
- Luật sư nước ngoài có các quyền sau đây:a) Lựa chọn hình thức hành nghề tại Việt Nam
theo quy định tại Điều 75 của Luật này;b) Chuyển thu nhập từ hoạt động hành nghề ra nước
ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam;c) Các quyền khác theo quy định của Luật này và
quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Luật sư nước ngoài có các nghĩa vụ sau đây:a) Nộp thuế thu nhập cá nhân theo quy định
của pháp luật;b) Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật sư, nghĩa vụ của luật sư theo quy
định của Luật này; Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư;c) Có mặt thường xuyên tại
Việt Nam;d) Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có
liên quan.
17
PHẦN 2: LIỆT KÊ DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Văn bản pháp luật
1.Nghị định 45/HĐBT Ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về công chứng Nhà
nước;
2.Nghị định 31/CP Ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và họat động của công
chứng Nhà nước;
3.Nghị định 75/2000/NĐ-CP Ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực;
4.Luật công chứng ngày 29/11/2006.
5.Luật Luật sư 2006
6.Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012
II. Giáo trình và sách tham khảo
1.Bắt buộc:
Đề cương môn công chứng Luật sư của trường đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh
2. Không bắt buộc:
Sinh viên có thể đọc thêm những tài liệu khác có liên quan đến nội dung môn học:
- Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Hội thảo về dự án luật công chứng, Vũng tàu 13-14/9/2006;
- Những điều cần biết về công chứng, chứng thực, NXB tổng hợp Tp.Hồ Chí Minh, 2003;
- Nguyễn Văn Tuân, Luật sư và hành nghề luật sư, NXB đại học quốc gia Hà Nội, 2002;
- Bộ Tư pháp, Hỏi đáp luật sư, NXB Lao động, 2002;
II. Một số vụ việc thực tế
Vụ việc 1 ( Theo Báo Pháp Luật Tp.Hồ Chí Minh ngày 8/10/2009): không dễ hủy
hợp đồng đã công chứng
/>Tháng 4 – 2008, bà Nguyễn Thị H ( TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế) có làm hợp đồng
tặng cho nhà đất cho năm anh chị em ruột và hợp đồng này đã được Phòng Công chứng số 2
tỉnh Thừa Thiên Huế chứng nhận ngày 25-4-2008. Sau một thời gian công chứng, bà H và năm
anh chị em thống nhất hủy bỏ hợp đồng tặng cho nêu trên. Các bên đến Phòng công chứng số
2 của tỉnh để làm thủ tục. Tại đây, công chứng viên yêu cầu cả hai bên phải xuất trình bản
chính hợp đồng. Tuy nhiên, hai bên đã làm mất bản chính hợp đồng. Do đó, công chứng viên
đã từ chối giải quyết. Sau khi các bên nài nỉ, công chứng viên đồng ý chứng nhận cho hai bên
ký hủy bỏ hợp đồng. Sau khi bà H đóng phí công chứng, phòng công chứng số 2 vẫn không
giao lại bản hủy bỏ hợp đồng. Theo giải thích của công chứng viên, chỉ khi nào phía gia đình

bà H nộp thêm một bản chính của hợp đồng cũ thì mới được giao bản hủy bỏ này.
Theo anh( chị), giải thích của công chứng viên có đúng không? Tại sao? Anh ( chị) xử lý
như nào trong tình huống này?
18
Vụ việc 2: Vấn đề thế chấp tài sản hình thành trong tương lai theo tinh thần công
văn số 2057/BTP-HCTP ngày 09/05/2007 của Bộ tư pháp
( />BỘ TƯ PHÁP
Số: 2057/BTP-HCTP
V/v công chứng hợp đồng thế
chấp tài sản hình thành trong
tương lai
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 09 tháng 5 năm 2007
Kính gửi: Phòng công chứng
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Vừa qua, một số người dân và doanh nghiệp có phản ánh về việc công chứng hợp đồng
thế chấp tài sản hình thành trong tương lai còn gặp nhiều khó khăn. Về vấn đề này, Bộ Tư
pháp có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Điều 342 của Bộ luật dân sự thì tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản
hình thành trong tương lai. Khoản 1 Điều 41 của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng
12 năm 2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực cũng quy định: “Trong trường hợp
hợp đồng liên quan đến tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử
dụng thì người yêu cầu công chứng, chứng thực phải có đầy đủ giấy tờ để chứng minh quyền
sở hữu, quyền sử dụng đó”. Cụm từ “giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng” theo
quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP có nội dung tương đối rộng, không chỉ là giấy tờ
“chứng nhận” quyền sở hữu, quyền sử dụng. Trong trường hợp tài sản hình thành trong tương
lai là đất, tài sản gắn liền với đất thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà giấy tờ chứng minh quyền
sở hữu, quyền sử dụng có thể là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà nhưng
cũng có thể là hợp đồng góp vốn, quyết định giao thuê đất Các Phòng công chứng cần căn cứ

từng trường hợp cụ thể để chứng nhận các hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai
nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người dân và doanh nghiệp.
Trên đây là ý kiến chỉ đạo của Bộ Tư pháp, đề nghị các Phòng công chứng thực hiện./.
TL. BỘ TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG VỤ HÀNH CHÍNH TƯ PHÁP
Trần Thất
Vụ việc 3: Những vướng mắc khi công chứng, chứng thực Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ghi tên “Hộ gia đình” (09/01/2013)
( />Những vướng mắc khi công chứng, chứng thực Giấy chứng nhận quyền sử dụng
19
đất ghi tên “Hộ gia đình” (09/01/2013)
Trong các quy định của pháp luật hiện hành, “Hộ gia đình” là chủ thể của các giao dịch
dân sự. Theo qui định tại các Điều 106, Điều 108 và Điều 109 BLDS năm 2005, hộ gia đình
gồm các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung
trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do
pháp luật qui định. Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, tài sản do các
thành viên cùng nhau tạo lập “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có
giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ 15 tuổi trở lên đồng ý”. Cùng với đó,
trong các quy định của pháp luật đất đai cũng quy định về nội dung này, Điều 43 khoản 3
mục b của Nghị định 181 ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai qui định: “Trường hợp
hộ gia đình sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình thì giấy chứng nhận chỉ ghi tên
chủ hộ”.
Trước đây với nền sản xuất nông nghiệp, nhà nước thường giao đất cho các hộ gia đình
(chia đất khi hợp tác xã nông nghiệp tan rã), có lẽ cũng từ thói quen xem đất nông nghiệp là
tài sản chung của gia đình mà rất nhiều địa phương khi cấp đất dù đất do là cấp cho cá nhân
nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đát (QSDĐ) hay đất do người trong gia
đình khai hoang đều ghi trên giấy chứng nhận QSDĐ là "Hộ gia đình". Tuy nhiên, việc dựa
vào giấy tờ nào, hay xác định các thành viên hộ gia đình dựa vào tiêu chí nào thì pháp luật
lại chưa có quy định. Hộ gia đình là chủ thể tham gia giao dịch dân sự nêu tại Điều 106 ở
trên không thể đồng nghĩa hoàn toàn với hộ gia đình ghi trong sổ hộ khẩu gia đình, bởi vì sổ

hộ khẩu gia đình chỉ sử dụng cho mục đích đăng ký để quản lý nhân khẩu thường trú của hộ
gia đình. Bên cạnh đó, việc đăng ký hộ khẩu thường trú thường xuyên có biến động do
những người trong sổ hộ khẩu đó cắt đi, tách hộ, nhập hộ, thậm chí cho nhập nhờ hộ khẩu.
Khái niệm “Hộ gia đình” theo Bộ luật dân sự không có nghĩa là tất cả người cùng thường trú
trong sổ hộ khẩu, có những người cùng chung sổ hộ khẩu nhưng không có tài sản chung với
thành viên còn lại và cũng không cùng đóng góp công sức gì về hoạt động sản xuất chung
của các thành viên khác; ngược lại, có nhiều thành viên có hộ khẩu không cùng địa chỉ với
chủ hộ nhưng thoả mãn điều kiện quy định về hộ gia đình của Bộ Luật Dân sự.
Quả thật, việc dựa trên hộ khẩu để xác định thành viên hộ gia đình sử dụng đất cũng chỉ
là cách bất đắc dĩ vì không có cách nào khác. Nhưng cách làm này cũng đã nảy sinh nhiều
vấn đề rắc rối trong thực tế, trong đó có nhiều tình huống: " dở khóc dở cười". Khi người dân
đi công chứng, chứng thực Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất
của hộ gia đình, đa số các công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực đều dựa
vào sổ hộ khẩu tại thời điểm cấp đất để xem hộ gia đình đó có bao nhiêu thành viên và yêu
cầu các thành viên trong hộ phải thống nhất ký tên trong các giao dịch đó. Nhiều trường hợp
đã nảy sinh tranh chấp căng thẳng do cha mẹ cần bán nhà đất nhưng các con không cho mặc
dù đó là nhà đất của cha mẹ tạo lập, thậm chí có trường hợp anh chị em, cháu chắt cũng
không cho bán do có tên trong sổ hộ khẩu và vin vào những quy định này để tranh chấp tài
sản.
Nhiều trường hợp người dân nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng tiền riêng
của mình nhưng khi cấp giấy chứng nhận QSDĐ đất lại ghi hộ gia đình, khi muốn chuyển
nhượng thì những người cùng hộ khẩu trước đây mỗi người đi một nơi, có người xuất cảnh
đi nước ngoài, có người đã chết, có nhiều thành viên chỉ là con cháu ở nhờ trong hộ khẩu.
Nhiều trường hợp các thành viên cùng khai hoang, cùng nhận chuyển nhượng quyền đất
20
nhưng họ tách hộ khẩu đến địa chỉ khác khi cấp giấy chứng nhận chỉ ghi Hộ gia đình tại địa
chỉ cũ, chủ hộ đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà họ không được gì ngược lại những
người ở nhờ trong hộ lại được chia tiền vì có tên trong hộ khẩu.
Từ những thực tế trên, thiết nghĩ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng cho hộ gia đình thì cần phải cá thể hoá những người sử dụng đất

tức là xác định rõ quyền sử dụng đất đó là tài sản riêng của vợ chồng hay là tài sản chung của
tất cả các thành viên trong hộ đó. Chẳng hạn, Vợ chồng anh A chị B có 02 người con là C và
D, nhưng C mới chỉ 15 tuổi và D mới chỉ 10 tuổi, vì vậy khi vợ chồng anh A và chị B mua
một miếng đất thì tài sản này là của vợ chồng anh A chị B chứ C và D trong thời điểm này
chưa có tài sản nên không thể ghi là tài sản chung của hộ được.
Bên cạnh đó, cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải liệt kê trong giấy
chứng nhận đầy đủ các thành viên của hộ gia đình từ 15 tuổi trở lên. Vì nếu không có giấy tờ
làm căn cứ thì mỗi người sẽ xác định theo cách hiểu của mình, dễ dẫn đến không thống nhất
với nhau trong việc xác định các thành viên hộ gia đình đồng thời những trường hợp nào
quyền sử dụng đất do cá nhân nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho mà khi cấp giấy chứng
nhận ghi là Hộ gia đình nên điều chỉnh lại cho đúng khi người dân yêu cầu.
Thùy Phương- Phòng CC
Vụ việc 4: Bất cập trong công chứng uỷ quyền thế chấp tài sản (Theo Báo Pháp luật
Việt Nam số 124 (4.185) ngày 04/5/2010 và số 124 (4.186) ngày 05/5/2010)
CÔNG CHỨNG ỦY QUYỀN THẾ CHẤP TÀI SẢN,
LỢI BẤT CẬP HẠI
Bài viết này đã được đăng trên Báo Pháp luật Việt Nam số 124 (4.185) ngày 04/5/2010
và số 124 (4.186) ngày 05/5/2010
Vừa qua đã xảy ra sự việc đáng tiếc tại VPCC VT tại Hà Nội. Theo thông tin mà báo chí
cung cấp thì những vấn đề nổi cộm nhất của VP này đều có liên quan đến việc ủy quyền thế
chấp tài sản. Ở phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến những rủi ro khi công chứng hợp
đồng uỷ quyền thế chấp nhà ở và quyền sử dụng đất, tàu, thuyền, xe cộ (sau đây gọi chung là
tài sản).
Thực trạng: Qua thực tiễn giao dịch bảo đảm những năm qua chúng tôi thấy xuất hiện
nhiều hợp đồng thế chấp tài sản mà bên thế chấp không phải là người có quyền sở hữu tài sản.
Thông qua ủy quyền của chủ sở hữu, người được ủy quyền được thế chấp tài sản của bên ủy
quyền để đảm bảo nghĩa vụ không giới hạn của chính bên được ủy quyền chứ không phải là
nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản. Trên thực tế, có rất nhiều lý do để các bên chọn hình thức
công chứng uỷ quyền thế chấp tài sản, trong đó lý do phổ biến nhất là các tổ chức tín dụng có
quy định rất chặt chẽ đối với phương án sử dụng vốn và nguồn trả nợ, đây là trở ngại không dễ

vượt qua đối với bên vay là cá nhân. Nhiều khi chủ sở hữu tài sản (đặc biệt ở khu vực nông
thôn) chỉ cần vay một món tiền nhỏ để phục vụ nhu cầu tiêu dùng, sửa chữa nhà cửa, cho con
đi học giá trị tài sản bảo đảm thì rất lớn nhưng không được tổ chức tín dụng cho vay. Lợi
dụng "điểm yếu" này, nhiều người có khả năng đáp ứng được các điều kiện cho vay của một số
tổ chức tín dụng đã tiếp cận chủ sở hữu tài sản để hứa hẹn, thuyết phục chủ sở hữu đến cơ
quan công chứng lập hợp đồng uỷ quyền cho những người này "toàn quyền thế chấp, chuyển
21
nhượng…tài sản" của chủ sở hữu để vay vốn mà không hề biết là tổ chức tín dụng cho vay bao
nhiêu tiền. Từ đó dẫn đến thực trạng đáng lo ngại là nhiều chủ sở hữu chỉ nhận được một
khoản tiền nhỏ do người được ủy quyền "vay giúp" nhưng tài sản của họ vẫn bị xử lý để thu
hồi nợ vì những người được uỷ quyền thế chấp đã chiếm đoạt một lượng vốn vô cùng lớn do
các tổ chức tín dụng cho vay để sử dụng vào mục đích riêng của họ.
Những bất ổn: Vấn đề đặt ra là, công chứng uỷ quyền thế chấp tài sản có gì bất ổn trong
khi rất nhiều cán bộ tín dụng, khách hàng và có rất nhiều Công chứng viên cho rằng uỷ quyền
như vậy là đúng luật? Từ thực tiễn giải quyết những vụ tranh chấp có liên quan đến hoạt động
thế chấp, vay vốn trên địa bàn Hà Nội, cũng như những vụ "gom sổ đỏ" của hàng ngàn hộ sử
dụng đất tại một số tỉnh để đi thế chấp xảy ra trong thời gian qua và đặc biệt nghiêm trọng là
vụ việc gần đây tại một số VPCC, chúng tôi có quan điểm dứt khoát là không được công
chứng hợp đồng uỷ quyền cho người được uỷ quyền "toàn quyền thế chấp" tài sản của người
khác để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính người được ủy quyền. Quan điểm này được dẫn
chiếu từ các cơ sở pháp lý sau:
- Khoản 1 Điều 320 của Bộ luật Dân sự: Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải
thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch;
- Khoản 1 Điều 342 của Bộ luật Dân sự: Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là
bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối
với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp);
- Điều 369 của Bộ luật Dân sự: Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì
bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh;
- Điều 715 của Bộ luật Dân sự: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là sự thoả thuận

của các bên, theo đó bên sử dụng đất (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng quyền sử dụng đất của
mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên kia (bên nhận thế chấp);
- Khoản 1 Điều 4 của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm: Tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và thuộc sở hữu của bên có nghĩa
vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản đó để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền…
Với các quy định trên đây, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến một "thuộc tính" rất cơ bản của
tài sản thế chấp là thuộc sở hữu của bên thế chấp, nếu là quyền sử dụng đất thì cũng phải là
quyền sử dụng đất của bên thế chấp (tức là bên có nghĩa vụ). Nếu một người không có tài sản
để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình mà được người khác dùng tài sản thuộc
quyền sở hữu của người đó bảo đảm thì buộc phải tuân theo quy định về thế chấp tài sản thuộc
sở hữu của người thứ ba. Tức là "người này phải cam kết dùng tài sản đó để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền". Nếu công chứng văn bản ủy quyền "toàn
quyền thế chấp" như các Công chứng viên vẫn làm thì vô hình chung, chúng ta phủ nhận
"thuộc tính" trên đây của tài sản thế chấp, đồng thời phủ nhận luôn cả trách nhiệm của chủ sở
hữu phải cam kết với bên có quyền về việc dùng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ của bên có nghĩa vụ. Các Công chứng viên đều biết rằng quyền sở hữu tài sản không thể
chuyển giao từ người này sang người kia nếu thông qua một văn bản uỷ quyền. Nhưng khi
công chứng uỷ quyền thế chấp như vậy, dù không cố ý, Công chứng viên đã tạo điều kiện cho
các bên lách luật, giúp người được uỷ quyền (bên có nghĩa vụ) không phải ký hợp đồng mua
22
bán, chuyển nhượng và hoàn thành các nghĩa vụ thuế, hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng mà vẫn thực hiện được việc thế chấp tài sản mà mình không phải là chủ sở
hữu để vay vốn.
Một số đề xuất:
- Hai trường hợp được ủy quyền thế chấp tài sản:
+ Trường hợp thứ nhất: Chỉ công chứng uỷ quyền thế chấp tài sản khi chủ sở hữu tài
sản chính là người có nghĩa vụ (chính là bên vay trong quan hệ tín dụng). Tức là chủ sở hữu
phải tuyên bố cho Công chứng viên rõ mình là người có nhu cầu vay vốn hoặc là người đang
có nghĩa vụ dân sự cụ thể. Vì một lý do nào đó bên thế chấp không thể đến giao dịch tại bên có

quyền, tổ chức tín dụng, cơ quan công chứng, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm để hoàn tất
các thủ tục được thì có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình thực hiện các thủ tục, ký
các hợp đồng, giấy tờ theo quy định để đảm bảo chắc chắn rằng bên ủy quyền được sử dụng
tiền vay và có nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng. Xin nhấn mạnh rằng, quan hệ uỷ quyền
này không làm thay đổi địa vị pháp lý của chủ thể trong giao dịch bảo đảm, tức là bên thế chấp
chính là bên có nghiã vụ (bên vay) chứ không phải là người được ủy quyền. Nghĩa vụ gì,
khoản vay bao nhiêu, điều kiện về lãi suất, thời hạn vay, thời hạn thế chấp, phương thức xử lý
tài sản thế chấp là do chủ sở hữu tài sản thế chấp cùng với bên có quyền (tổ chức tín dụng)
thoả thuận và quyết định, người được uỷ quyền không có vai trò gì đối với những vấn đề này.
Ví dụ: Ông A là chủ sở hữu tài sản được ngân hàng đồng ý cho vay 100.000.000 đồng với các
điều kiện về thời hạn vay, thời hạn thế chấp, lãi suất…đã được ông A và ngân hàng thoả thuận.
Để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi của khoản vay nêu trên, ông A phải thế chấp tài sản
của mình cho ngân hàng. Trong trường hợp này, ông A có thể ủy quyền cho một người đại
diện cho mình thực hiện các thủ tục theo quy định để ký kết hợp đồng thế chấp và các giấy tờ
khác theo quy định của pháp luật, kể cả việc thay mặt ông A nhận khoản vay, thanh toán nợ
gốc, lãi…Điều đó có nghĩa là trong hợp đồng thế chấp, bên thế chấp (bên vay) vẫn là ông A
nhưng do người khác thực hiện thay theo đúng phạm vi ủy quyền đã được công chứng.
+ Trường hợp thứ hai: Đối với trường hợp ủy quyền thế chấp tài sản của bên thứ ba
(trước đây gọi là thế chấp để bảo lãnh) thì Công chứng viên phải luôn chú ý đến trách nhiệm
của chủ sở hữu cam kết dùng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa
vụ đối với bên có quyền. Việc cam kết này thể hiện sự tín nhiệm của chính chủ sở hữu đối với
bên có nghĩa vụ hoặc giữa họ phải có quan hệ tình cảm, huyết thống hoặc có ràng buộc nào đó
về trách nhiệm và lợi ích chứ chủ sở hữu không thể phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của người
được ủy quyền khi người này muốn đem tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình thế chấp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bất kỳ ai một cách vô hạn định như nhiều người vẫn nghĩ.
Trong trường hợp chủ sở hữu tài sản ủy quyền cho người khác thay mặt mình thực hiện
các thủ tục thế chấp tài sản của mình để bảo đảm thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ của cá
nhân, tổ chức nào, nghĩa vụ gì, hạn mức tín dụng tối đa là bao nhiêu, điều kiện về thời hạn vay,
thời hạn thế chấp ra sao thì trong Hợp đồng ủy quyền phải ghi rõ các thông tin đó. Nếu Công
chứng viên chấp nhận phạm vi ủy quyền rộng tới mức "toàn quyền thế chấp, bảo lãnh" tức là

tạo điều kiện cho bên ủy quyền "vượt rào", khi đó nhiệm vụ của một "Thẩm phán phòng ngừa"
đâu còn nữa?
- Đối với cơ quan quản lý công chứng:
23
Để chấm dứt tình trạng đổ vỡ tín dụng vì các văn bản ủy quyền thế chấp tài sản và giữ
gìn uy tín của chính các tổ chức hành nghề công chứng, đồng thời tạo được sự thống nhất
trong cách hiểu và áp dụng pháp luật giữa các Công chứng viên về ủy quyền thế chấp, chúng
tôi khẩn thiết đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản chính thức yêu cầu các Công chứng viên dừng
ngay việc công chứng ủy quyền có phạm vi ủy quyền cho bên được ủy quyền được "toàn
quyền thế chấp tài sản" của bên ủy quyền để đảm bảo cho nghĩa vụ của chính bên được ủy
quyền hoặc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên thứ ba mà bên ủy quyền không hề biết bên thứ
ba là ai, nghĩa vụ mà họ phải thực hiện thay là nghĩa vụ gì.
CÔNG CHỨNG VIÊN - TRƯỞNG VĂN PHÒNG
NGUYỄN THANH TÚ

24
PHẦN 3: CÂU HỎI LÝ THUYẾT VÀ BÀI TẬP
I.CÂU HỎI NHẬN ĐỊNH ĐÚNG – SAI. GIẢI THÍCH?
Câu 1
Tất cả các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất trên địa bàn tỉnh của hộ gia đình, cá nhân, được lựa chọn hình thức chứng thực tại
UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc công chứng tại các Phòng Công chứng của tỉnh.
Câu 2
Khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khách hàng cần chuẩn bị hồ
sơ gồm: Sổ hộ khẩu, dự thảo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
Câu 3
Giá trị pháp lý của di chúc được lập tại UBND xã và Phòng công chứng là như nhau.
Câu 4
Tất cả hợp đồng, văn bản về bất động sản mà bên có bất động sản là người Việt Nam

định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài phải được công chứng tại Phòng Công chứng.
Câu 5
UBND cấp xã (thuộc huyện chưa có Phòng Công chứng) có thẩm quyền chứng thực hợp
đồng mua bán, chuyển nhượng, tặng cho bất động sản của hộ gia đình, cá nhân cư trú tại xã đó.
Câu 6
Mọi giao dịch dân sự của người dưới 18 tuổi xác lập, thực hiện phải được sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật.
Câu 7
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì
có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật.
Câu 8
Tất cả UBND cấp xã nơi có bất động sản trên địa bàn tỉnh ta có thẩm quyền chứng thực
hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, tặng cho bất động sản của hộ gia đình, cá nhân.
Câu 9
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân chỉ được sử dụng vào mục đích đăng ký kết hôn.
Câu 10
Vợ hoặc chồng có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung do vợ, chồng
lập mà không cần phải có sự đồng ý của người kia.
Câu 11
Giảng viên luật được kiêm nhiệm vừa giảng dạy, vừa làm luật sư
Câu 12
25

×