Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp đổi mới ở tỉnh cà mau hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.63 MB, 90 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ












LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành sư phạm giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204



VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY




GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: SINH VIÊN THỰC HIỆN:



TS. Đinh Ngọc Quyên Liêu Tuyết Như
MSSV: 6106640
LỚP: SP GDCD K36-01









Cần Thơ: 11/2013

LỜI CẢM ƠN

Thời gian trôi qua khá nhanh không chờ đợi bất cứ một ai, mới đây
thôi mà 4 năm Đại học gần kết thúc. Trong suốt quá trình vừa qua em
được sự dìu dắt, dạy bảo ân cần của quý thầy cô trường Đại học Cần Thơ
nói chung và thầy cô ở Khoa Khoa học chính trị nói riêng đã cung cấp
cho em những tri thức những kinh nghiệm quý báu trong Khóa học của
mình.
Trong suốt thời gian thực hiện luận văn em xin chân thành cảm ơn
Ban Giám Hiệu nhà trường, quý thầy cô của Trường và đặc biệt là thầy
cô Khoa khoa học chính trị đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn cho em và hơn
hết em xin gửi lời cảm ơn của mình đến thầy Đinh Ngọc Quyên thầy đã
hướng dẫn, giúp đỡ em để em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp của
mình.
Đồng thời em cũng xin được cảm ơn Trung tâm học liệu trường

Đại học Cần Thơ, thư viện khoa Khoa học chính trị, Ủy ban nhân dân
tỉnh Cà Mau, Cục thống kê tỉnh Cà Mau, Hội lao động thương binh xã hội
tỉnh Cà Mau, Sở công thương tỉnh Cà Mau cho em mượn tài liệu tham
khảo tạo điều kiện cho em thực hiện đề tài nghiên cứu cùng tập thể lớp sư
phạm GDCD 01-K36 đã động viên, góp ý, khích lệ em trong việc thực
hiện luận văn này.
Dù đã cố gắng nhưng do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên
luận văn không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp
quý báu của thầy cô và các bạn.
Em chân thành cảm ơn.




MỤC LỤC
Trang
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3
5.Kết cấu của luận văn 3
B.PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ
1.1 Khái niệm và kết cấu hình thái kinh tế - xã hội 4
1.1.1 Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội 4
1.1.2 Những yếu tố hình thành và quy luật vận động, phát triển
của hình thái kinh tế - xã hội 9
1.1.2.1 Lực lượng sản xuất 10

1.1.2.2 Quan hệ sản xuất 12
1.1.2.3 Kiến trúc thượng tầng 14
1.1.2.4 Quy luật vận động và phát triển của hình thái kinh
tế - xã hội 15
1.2 Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên 21
1.3 Ý nghĩa và giá trị bền vững của lý luận hình thái kinh tế
- xã hội 27
Chương 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ
HỘI VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY
2.1 Khái quát đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của
tỉnh Cà Mau thời kỳ đổi mới 37
2.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên 37

2.1.2 Đặc điểm về kinh tế - xã hội 38
2.2 Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào quá
trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau 48
2.2.1 Vận dụng đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào quá
trình đổi mới ở tỉnh Cà Mau 48
2.2.2 Vận dụng đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại ở tỉnh Cà Mau 53
2.2.3 Kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ
thống chính trị nhằm hòan thiện Kiến trúc thượng tầng xã hội
chủ nghĩa ở tỉnh Cà Mau 60
2.3 Những thành tựu và hạn chế trong việc vận dụng lý luận
hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Cà Mau
hiện nay 66
2.3.1 Thành tựu 66
2.3.2 Hạn chế 74

C.PHẦN KẾT LUẬN
Phần mục lục
Phần phụ lục






Trang 1
A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Phát kiến vĩ đại của Các Mác về triết học trong lĩnh vực xã hội là chủ nghĩa
duy vật lịch sử mà nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử là học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội. Từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời, nhận
thức xã hội được dựa trên một nền tảng thế giới quan duy vật biện chứng và thế
giới quan duy vật lịch sử. Nó không những khắc phục được các hiện tượng duy
tâm, siêu hình giải thích xã hội ở phương diện tư tưởng, ý chí, nguyện vọng của
con người mà còn có khả năng nhìn vào chiều sâu lịch sử quá khứ, đồng thời
cũng có cơ hội dự báo cho một xã hội tương lai.
Lý luận hình thái kinh tế – xã hội là lý luận cơ bản và giữ một vị trí hết
sức quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử do Các Mác xây dựng nên. Lý
luận hình thái kinh tế - xã hội đã được thừa nhận là lý luận khoa học và là
phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu đời sống xã hội. Nhờ có lý
luận hình thái kinh tế –xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học Các Mác đã
chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản
chất của từng chế độ xã hội. Như vậy, qua lý luận hình thái kinh tế – xã hội
giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã
hội trong mỗi giai đoạn nhất định.

Tuy nhiên sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào thoái trào thì các trào
lưu phê phán, xuyên tạc, bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó họ tập trung
vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Trước những sự kiện này, các nước xã
hội chủ nghĩa còn lại có sự hoang mang, dao động. Có những ý kiến tỏ ra
không còn tin tưởng vào sự đúng đắn của học thuyết, đề xuất xây dựng xã hội
phi mácxít thay cho chủ nghĩa xã hội mácxít và cho rằng làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa là sai lầm.
Trong bối cảnh ấy đến nay, Việt Nam vẫn vững bước đi lên con đường
xã hội chủ nghĩa và có những chuyển biến mới, những thành tựu mà Việt Nam
Trang 2
đã và đang phấn đấu đạt được đã góp phần chứng minh sự đúng đắn và giá trị
bền vững của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Góp phần vào quá trình đó, tỉnh Cà Mau cũng đang từng bước hòa mình
vào quá trình đi lên của đất nước, hòa mình vào nền kinh tế thị trường thế giới
nhưng vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó, tỉnh Cà
Mau cũng gặp không ít khó khăn, có những vấn đề nảy sinh và đòi hỏi sự vận
dụng sáng tạo, nhạy bén để tỉnh Cà Mau cùng cả nước vững bước trên con
đường xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin mà đặc biệt
là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Để thấy được sự đúng đắn của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đến
nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, được chứng minh qua sự phát triển và đổi mới
của cả nước nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng, đấu tranh với những sai lầm
về quan điểm, đồng thời bảo vệ những giá trị chân chính của chủ nghĩa Mác –
Lênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói riêng là một yêu
cầu chính trị của mỗi chúng ta trước sự biến động ngày càng lớn của thế giới,
đặc biệt là đối với những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu chủ nghĩa
Mác – Lênin, trong đó có sinh viên chuyên ngành Giáo dục công dân.
Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng đó, tôi đã chọn đề tài “Lý luận
hình thái kinh tế - xã hội với công cuộc đổi mới ở tỉnh Cà Mau hiện nay” làm

đề tài luận văn nghiệp cho mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:Luận văn phân tích làm rõ nội dung cơ bản, ý nghĩa và
giá trị bềnTừ góc độ Triết học, mục đích của luận văn này là tìm hiểu một cách
có hệ vững của lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Từ đó luận văn tập trung phân tích sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã
hội vào công cuộc đổi mới ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết
những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, phân tích rõ nội dung lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác – Lênin; khẳng định ý nghĩa và giá trị bền vững của học thuyết này
đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Trang 3
Hai là, phân tích sự vận dụng học thuyết Mác – Lênin về hình thái kinh
tế - xã hội vào sự nghiệp đổi mới của tỉnh Cà Mau hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: Luận văn nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế -
xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở đó, luận văn làm rõ sự vận dụng
lý luận này vào sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Cà Mau hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Tỉnh Cà Mau thời kì đổi mới hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ đã nêu trên của đề tài, tác giả dựa trên
cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu, trình bày luận văn của mình. Đồng
thời tác giả còn sử dụng hệ thống các phương pháp như: logic và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, gắn lý luận với thựv tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đề ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương 6 tiết.
















Trang 4
B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN, Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ
1.1 Khái niệm và kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội
1.1.1 Khái niệm về hình thái kinh tế - xã hội
Trong chủ nghĩa Mác, có hai thành tựu cực kỳ vĩ đại đó là: Học thuyết
“giá trị thặng dư” và học thuyết về “chủ nghĩa duy vật lịch sử” mà trong đó lý
luận về hình thái kinh tế - xã hội được coi là hòn đá tảng.
Có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử nói chung và lý luận
hình thái kinh tế - xã hội nói riêng là một trong những cống hiến vĩ đại của triết
học Mác và cũng là bước ngoặt cách mạng của lịch sử triết học. Từ đây, nhân
loại đã tìm thấy một lý luận vững chắc để nhận thức được bản chất của xã hội
cùng với các quy luật khách quan chi phối sự phát triển của lịch sử loài người.
Đọc thuyết của mình, Mác đã nghiên cứu, tiếp thu có phê phán tinh hoa

tư tưởng của nhân loại, gắn với thực tiễn xã hội. Nhờ vậy, Mác đã phát hiện vai
trò của thực tiễn, của hoạt động sống, hiện thực của con người. Vì vậy, khi tiếp
cận xã hội và đi tìm cơ sở tồn tại và quy luật chi phối sự vận động phát triển
của xã hội (khác với những người khác), Mác muốn tìm ra những mối liên hệ
nội tại của đời sống xã hội trong hoạt động hiện thực của con người. Có thể
nói, điểm xuất phát của mối liên hệ nội tại đó chính là: Để duy trì sự tồn tại và
phát triển của xã hội, con người cần phải sản xuất ra những tư liệu tiêu dùng
cần thiết.
Cho nên nghiên cứu mọi hiện tượng của đời sống xã hội phải gắn liền
với việc sản xuất ra của cải vật chất, tìm ra quy luật chi phối sự phát triển xã
hội phải gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất vật chất qua các giai đoạn
khác nhau. Từ cách tiếp cận nói trên Mác đi vào nghiên cứu cơ cấu bên trong
của xã hội, để tìm quy luật vận động của xã hội theo định hướng thế giới quan
duy vật bằng việc từng bước hình thành quan niệm về hình thái kinh tế - xã hội.
Trong tác phẩm triết học đầu tiên “Hệ tư tưởng Đức” viết năm 1845, C.Mác
mới bước đầu đề cập đến các yếu tố cơ bản cấu thành xã hội là lực lượng sản
Trang 5
xuất, quan hệ giao tiếp (sau này mới dùng khái niệm quan hệ sản xuất), kiến
trúc thượng tầng và cho rằng các yếu tố nói trên tạo nên “trạng thái xã hội”.
C.Mác quan niệm rằng các yếu tố trên tạo nên “trạng thái” của xã hội, đó là tư
tưởng bước đầu về hình thái kinh tế - xã hội. Ở đây C.Mác chưa thấy được hết
mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố hợp thành, tính quy luật cũng chưa thể
hiện rõ. Năm 1846 trong thư gửi AnenCôp, C.Mác đề cập đến xã hội, ông nêu
rõ: “Xã hội bất kỳ dưới hình thức nào - nó là sản phẩm của sự tác động lẫn
nhau giữa người với người”, “hình thức” của xã hội là do lực lượng sản xuất
quyết định. Năm 1847, với tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”. C.Mác nói
cụ thể hơn vai trò của lực lượng sản xuất đối với xã hội.
Ở đây tính kết dính giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và chế độ
xã hội được phân tích rõ hơn. Cuối năm 1847, trong tác phẩm “Lao động làm
thuê và tư bản”, tư tưởng về hình thái kinh tế - xã hội đã chín muồi hơn. Trong

quan niệm của C.Mác lúc này: Xã hội là một kết cấu nhất định. Xã hội là “tổng
hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan
hệ, là xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển
lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt”. Năm 1859 với
lời tựa tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, lần đầu tiên
C.Mác dùng khái niệm hình thái kinh tế - xã hội và nói rõ quan hệ sản xuất bao
giờ cũng tồn tại trên một cở sở nhất định của lực lượng sản xuất và có một hình
thức chính trị thích ứng. Ở đây C.Mác làm nổi bật lên mối quan hệ và sự tác
động qua lại của các yếu tố cấu thành xã hội. Năm 1867, “Bộ tư bản” ra đời
quan niệm hình thái kinh tế - xã hội được trình rõ ràng cả về khái niệm và nội
dung với luận điểm nổi tiếng: coi sự phát triển của những hình thái xã hội trong
lịch sử là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Đồng thời tư tưởng hình thái kinh tế -
xã hội được quán xuyến khi viết “bộ Tư bản”.
Trên đây là những mốc lớn trong sự phát triển tư tưởng của Mác về hình
thái kinh tế - xã hội gắn với thực tiễn, với quá trình vận động biến đổi của chủ
nghĩa tư bản ở Tây Âu. Chính chủ nghĩa tư bản cùng sự phát triển của nó đã
đưa tới phát hiện của Mác. Bởi chủ nghĩa tư bản phát triển đã làm cho quá trình
sản xuất có tính xã hội hóa, làm cho vai trò quyết định của sản xuất vật chất đối
Trang 6
với đời sống xã hội bộc lộ rõ hơn trước. Chủ nghĩa tư bản phát triển, hệ thống
tư bản chủ nghĩa ra đời, thị trường thế giới hình thành, đã lôi cuốn các nước
vào khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa. Sự “lặp lại đều đặn” của từng
nhóm nước theo xu hướng chung, từ đó lộ rõ những bậc thang của quá trình
vận động của lịch sử.
Quan niệm hình thái kinh tế - xã hội của Mác là sự phản ánh sống động
thực tiễn xã hội rút ra từ thực tiễn xã hội đồng thời trở thành công cụ để nhận
thức một cách khoa học đời sống xã hội. Để có được một khái niệm hình thái
kinh tế - xã hội, C.Mác đã bắt đầu bằng cách phân tích tất cả các mối quan hệ
trong đời sống hằng ngày: quan hệ giữa người với người, còn được gọi là quan
hệ xã hội, ông bắt đầu chọn lọc, làm nổi bật lên mối quan hệ trong sản xuất vật

chất giữa người với người. Ông coi đó là những quan hệ cơ bản, những quan hệ
ban đầu và quyết định cho nhiều quan hệ khác. Trong tác phẩm “Lao động Làm
thuê và Tư bản”, C.Mác viết: “Trong sản xuất người ta không chỉ quan hệ với
giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được với nhau kết hợp với nhau theo
một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi với nhau” [8; tr 552].
Vì vậy, khi nghiên cứu hình thái kinh tế xã hội của một xã hội cụ thể,
C.Mác bắt đầu đi sâu phân tích các quan hệ giữa người với người trong đời
sống hằng ngày và các quan hệ xã hội về vật chất mà trước hết là những quan
hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản quy định những quan hệ khác. V.I.Lênin
viết: “Mác đã xây dựng tư tưởng cơ bản đó bằng cách nào? Bằng cách là trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng những
lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội, ông đã làm nổi
bật riêng những quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, đầu tiên và
quyết định tất cả mọi quan hệ khác”. C.Mác đã không dừng lại ở lý luận chung
trừu tượng mà đi sâu nghiên cứu một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể là xã hội
tư bản chủ nghĩa. C.Mác tiếp tục phát hiện ra những quan hệ bản chất, quan hệ
độc lập trong xã hội. Ông lại bắt đầu tìm ra tính quy luật trong sự vận động,
phát triển xã hội. Sau đó, tổng hợp lại những quan hệ sản xuất cấu thành nên
những quan hệ xã hội. V.I. Lênin đã khẳng định: “Với sự ra đời của Bộ tư bản,
Các Mác đã thực hiện một kiểu mẫu về sự phân tích khoa học theo phương
Trang 7
pháp duy vật, một hình thái kinh tế - xã hội là một hình thái xã hội phức tạp
nhất - một kiểu mẫu đã được mọi người công nhận và không ai vượt nổi”.
C.Mác chỉ ra rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất là tiêu chuẩn quan trọng nhất, chỉ rõ tính chất các kiểu xã hội
nhau. Quan hệ sản xuất cũng là cái cơ bản quyết định tất cả quan hệ khác của
xã hội “Trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật
riêng những lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội, ông
đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản,
đầu tiên và quyết định tất cả mọi quan hệ khác”.

Ngoài ra, C.Mác còn biết được ở mỗi một xã hội đều mang tính chất
riêng tiêu biểu cho giai đoạn nhất định trong lịch sử nhân loạị, trong đó quan hệ
sản xuất là cở sở hình thành xã hội và các quy luật xã hội. Không có quan hệ
sản xuất thì không có xã hội và các quy luật xã hội. Mỗi xã hội đều có những
kiểu quan hệ sản xuất riêng của nó, nằm trong một phương thức sản xuất nhất
định, tiêu biểu cho chế độ kinh tế của xã hội đó. C.Mác viết: “Tổng hợp lại
những quan hệ sản xuất cấu thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội,
cái gọi là xã hội mà lại là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử
nhấtđịnh, một xã hội có tính chất độc đáo, riêng biệt.
Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản, đều là những thể tổng
hợp các quan hệ sản xuất theo loại đó, mà mỗi thể tổng hợp ấy đồng thời lại
tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại” [8; tr
553]. C.Mác cho rằng, quan hệ sản xuất chính là những quan hệ vật chất, là
hình thức xã hội của mọi quá trình sản xuất, do đó nó qui định mọi cấu trúc xã
hội. Nó là tiêu chuẩn khách quan và quan trọng nhất để phân biệt sự khác nhau
giữa các hình thái kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, C.Mác còn chỉ ra những quan điểm chính trị, đạo đức,
pháp lý, triết học cùng với những thể chế tương ứng được hình thành trên
những quan hệ sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này cấu thành cơ sở hạ
tầng tức là cơ sở hiện thực và cơ sở này sẽ xây dựng nên một kiến trúc thượng
tầng tương ứng với nó. Chính trên những cơ sở đó, C.Mác đã xây dựng nên
một phạm trù khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử - Phạm trù hình thái kinh
Trang 8
tế - xã hội. Cuối thế kỷ XIX, học thuyết kinh tế - xã hội của Mác được Lênin
tiếp tục kế thừa và phát triển. V.I.Lênin đã góp phần làm phong phú thêm lý
luận hình thái kinh tế - xã hội và nhấn mạnh tư tưởng của C.Mác về sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên và chỉ ra
những sai lầm của nhà xã hội học trước Mác là: không biết xuất phát từ các
quan hệ sản xuất mà đi thẳng vào nghiên cứu những hình thái chính trị, pháp
luật và hình thành những tri thức từ những tư tưởng khác nhau của loài người.

Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa dân túy, Lênin đã tiếp tục làm
rõ những luận điểm trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác vận
dụng nó vào việc vạch ra thực trạng xã hội Nga, với cơ cấu kinh tế và giai cấp
đang tồn tại, vào nấc thang nào của lịch sử.
Trong tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống
những người dân chủ xã hội ra sao”, Lênin đã nhấn mạnh một số khía cạnh:
trước hết, ông khẳng định tính định hướng của thế giới quan duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần trong đời
sống xã hội, về tính thứ nhất của các quan hệ vật chất và sự tác động trở lại của
các quan hệ tinh thần đối với các quan hệ vật chất.
Trong cơ cấu xã hội, Lênin coi quan hệ sản xuất với tư cách là kết cấu
kinh tế, đó là một kiểu tổ chức xã hội về kinh tế ở một giai đoạn lịch sử nhất
định nói lên bản chất của xã hội đó. Rằng đó mà C.Mác nhận thấy tính “lặp lại
đều đặn”, khái quát lại được khái niệm hình thái kinh tế - xã hội, cũng vì vậy
cho phép chuyển từ việc mô tả xã hội sang phân tích các hiện tượng xã hội một
cách khoa học. Về cơ chế vận động của xã hội như là quá trình lịch sử tự nhiên,
Lênin nhấn mạnh “đó là tư tưởng cơ bản của Mác khi viết bộ Tư bản”, là sự
vận động của xã hội tuân theo qui luật vốn có của nó, không phụ thuộc vào ý
chí, ý thức của con người. Vậy là một lần nữa quan niệm hình thái kinh tế - xã
hội được ứng dụng vào nhận thức hiện thực và hoạt động thực tiễn.
Tất cả những trình bày trên đây, cho thấy Mác - Ăngghen - Lênin muốn
tìm ra những mối liên hệ nội tại của đời sống xã hội, từ đó vạch ra những quy
luật vốn có của sự phát triển xã hội. Vì vậy, có thể nói rằng điểm cốt lõi trong
quan niệm mácxít về hình thái kinh - xã hội là coi sự vận động của xã hội là
Trang 9
quá trình lịch sử tự nhiên. Đây là nguyên lý xuất phát, nguyên lý trung tâm, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, mọi nguyên
lý đều có nhiệm vụ làm sáng tỏ nguyên lý này. Lênin giải thích rằng Mác
không đối lập tuyệt đối xã hội và tự nhiên, nhờ phát hiện được mối quan hệ
biện chứng giữa xã hội và tự nhiên, xã hội có nguồn gốc tự nhiên, là bộ phận

đặc biệt của tự nhiên nên phương thức, kết cấu, phương thức vận động cũng
giống tự nhiên. Chỉ có một khác biệt đó là xã hội, nơi con người hoạt động, có
nhu cầu và nhận thức, có mục đích và quyết tâm đeo đuổi những mục đích nhất
định Nghĩa là có vai trò chủ quan của con người trong quan hệ với tính tất
yếu khách quan.
Trên cơ sở đó, Mác đã phát hiện mối liên hệ phụ thuộc giữa các thành tố
và tìm được nguyên nhân cuối cùng trong sự vân động phát triển của xã hội là
lực lượng sản xuất. Đó là sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Sự tác động này trở thành động lực của sự phát triển xã hội, làm
cho xã hội vận động, phát triển. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của trí tuệ
nhân loại, đặc biệt là triết học cổ điển Đức, C.Mác đã khắc phục nhược điểm
của các nhà triết học trước Mác đưa ra quan điểm duy vật khoa học trong cách
nhận thức lịch sử bằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất ấy.
Như vậy, ta có thể thấy rằng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội là sự
thống nhất giữa quan hệ kinh tế và đời sống tinh thần xã hội. Mỗi chế độ xã hội
đều có một hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với nó. Tóm lại, học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội là nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
cũng là một trong những nội dung cơ bản của toàn bộ chủ nghĩa Mác. Học
thuyết đó vạch rõ những quy luật cơ bản của vận động xã hội, vạch ra phương
pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử.
Trang 10
1.1.2 Những yếu tố hình thành và quy luật vận động, phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội
Các Mác đã kế thừa có chọn lọc những thành quả về triết học của các
bậc tiền bối để xây dựng nên một học thuyết về kinh tế - xã hội hoàn chỉnh,

trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và có mối
quan hệ logic với nhau một cách biện chứng tạo nên chỉnh thể xã hội.
1.1.2.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất là tất cả những lực lượng
tham gia vào quá trình sản xuất, nó biểu hiện mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nói cách khác: Lực luợng sản xuất là tổng
hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới
tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục thiên nhiên
của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất là sự
kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện
năng lực thực tiễn của con người.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì người lao động đóng vai trò quyết
định. Theo V.I Lênin “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động” [19, tr 430]. Người lao động là chủ thể của quá
trình sản xuất với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, sử dụng tư
liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Sản xuất được tiến hành như thế nào,
trước hết tùy thuộc vào thể chất, tinh thần và trình độ của người lao động. Cùng
với quá trình phát triển của sản xuất vật chất, trình độ của người lao động
không ngừng được tăng lên, cơ cấu lực lượng lao động cũng được thay đổi một
cách tương ứng. Với tư cách đó, con người trở thành nhân tố quan trọng hàng
đầu của lực lượng sản xuất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất, công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất
trong lực lượng sản xuất. Công cụ lao động, theo Ph. Ăngghen là “khí quan của
bộ óc con người”, là sức mạnh tri thức đã được vật thể hóa”, có tác dụng “nối
Trang 11
dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Trình độ phát triển
của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người,

là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Mác viết: “Những thời
đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [10, tr 269].
Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất, theo Các Mác có sự tác động biện
chứng trong đó nổi bật là vai trò của con người với tư cách là chủ thể của quá
trình sản xuất.
Ngày nay, khi nói đến lực lượng sản xuất không thể không đề cập tới
yếu tố khoa học, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động đang
biến đổi theo xu hướng ngày càng trí tuệ hóa, lao động trí tuệ ngày càng đóng
vai trò chính yếu trong lực lượng lao động; hàm lượng chất xám trong sản
phẩm ngày càng tăng.
Khoa học đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn
trong sản xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Theo
C.Mác lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh
tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có lực lượng sản xuất khác nhau và
Mác đã chứng minh rằng, sự phát triển của xã hội loài người có nguồn gốc từ
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao
cũng có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển từ thấp đến cao của lực lượng sản
xuất.
Điều đó thể hiện trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” Các Mác
đã nêu lên tư tưởng của ông về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay
đổi các quan hệ xã hội. Các Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật
thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới,
loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương
thức sản xuất, cách kiếm sống của loài người thay đổi tất cả quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng
hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” [6, tr 187]. Các Mác dự
kiến rằng khoa học trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, và trở thành lực
lượng sản xuất độc lập”. Tư tưởng ấy của Mác có tác dụng định hướng tích cực
Trang 12

đối với hoạt động sản xuất và hoạt động khoa học. Lực lượng sản xuất là yếu tố
khách quan, năng động nhất, khi lực lượng sản xuất mà trước hết là tư liệu sản
xuất thay đổi và phát triển thì quan hệ sản xuất cũng tất yếu phải thay đổi và
phát triển theo. Trong tác phẩm “Lao động làm thuê và tư bản” Các Mác khẳng
định: “Khi những tư liệu sản xuất vật chất, những lực lượng sản xuất mà thay
đổi và phát triển thì những quan hệ sản xuất, trong đó cá nhân sản xuất tức là
những quan hệ sản xuất xã hội cũng thay đổi, biến đổi theo” [8, tr 553].
Tóm lại, lực lượng sản xuất là yếu tố khách quan, là cái cấu thành nền
tảng vật chất – kỹ thuật của một hình thái kinh tế - xã hội. Sự hình thành và
phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do lực lượng sản
xuất quyết định.
Vậy lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự
nhiên trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm:
Người lao động với kỹ năng lao động và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ
lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản
xuất.
1.1.2.2. Quan hệ sản xuất
Gắn liền với lực lượng sản xuất, đó là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản
xuất xã hội là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và
tái sản xuất xã hội.
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống
vật chất xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất được biểu hiện ở chỗ chúng
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Mỗi quan hệ sản xuất tiêu
biểu cho bản chất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm của
xã hội. Ba mặt này có mối quan hệ hữu cơ, không tách rời nhau, trong đó quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ
khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề

những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Trang 13
Trong lịch sử nhân loại đã có hai loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu tư
nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà tư liệu sản
xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có
rất ít tư liệu sản xuất. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất
thuộc về mọi thành viên trong mỗi cộng đồng. Những hình thức sở hữu đó là
quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi
quan hệ xã hội khác. Nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành nền tảng vật chất
của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế
của xã hội, là cơ sở thực hiện của hoạt động sản xuất tinh thần của con người,
của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những thiết chế tương ứng
trong xã hội. Các Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội, tức là các cơ sở hiện thực, trên đó dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định
tương ứng với cơ sở hiện thực đó” [8; tr15].
Nếu lực lượng sản xuất là một yếu tố khách quan thì quan hệ sản xuất
cũng là một yếu tố khách quan, được hình thành một cách không phụ thuộc vào
ý muốn chủ quan của con người, con người không thể tùy tiện lựa chọn hay
xóa bỏ nó. Các Mác viết: “Những quan hệ sản xuất mới, cao hơn không bao
giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật chất của quan hệ đó chưa chín
muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Nếu lực lượng sản xuất phát triển liên tục
và có tính cách mạng thì quan hệ sản xuất mang tính ổn định, tương đối trong
bản chất xã hội của nó và phát triển theo xu hướng phủ định lẫn nhau”.
Vì vậy xã hội sau có thể không kế thừa được quan hệ sản xuất của xã
hội trước. Vì thế Các Mác khẳng định: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản
xuất hợp thành cái mà người ta gọi là quan hệ xã hội, là xã hội mà hơn nữa hợp
thành một xã hội ở vào giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính
độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những

tổng thể những quan hệ sản xuất. Như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại là đại
biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại” [7; tr 553].
Trang 14
Các Mác đã lấy quan hệ sản xuất với tư cách là một tổng thể làm mục tiêu
chuẩn để trực tiếp phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội.
Vậy các quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một
phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị trong mỗi
hình thái kinh tế - xã hội quyết định tính chất và bộ mặt của hình thái kinh tế -
xã hội ấy. Khi xem xét tính chất của một hình thái kinh tế - xã hội thì không thể
chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà phải xét đến tính chất
của các quan hệ sản xuất. Như vậy, quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan
để phân biệt bản chất của các chế độ xã hội trong lịch sử nhân loại.
1.1.2.3. Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cùng với những thiết chế xã
hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội được
hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát
triển riêng nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn
nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song, không
phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ
sở hạ tầng của nó. Trái lại, một số bộ phận như các tổ chức chính trị, pháp luật
có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như: triết học, nghệ
thuật, tôn giáo thì ở xa cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ gián tiếp với nó.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm hệ tư
tưởng và thể chế chính trị của giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của
các xã hội trước để lại, quan điểm và tổ chức mới của giai cấp mới ra đời, quan
điểm và tư tưởng của các tổ chức, tầng lớp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của kiến trúc thượng tầng
trong một hình thái xã hội nhất định. Trong một xã hội có giai cấp đối kháng cơ

sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng
mang tính chất đối kháng, phản ánh những đối kháng của cơ sở hạ tầng biểu
hiện ở sự xung đột về quan điểm tư tưởng của những giai cấp đối kháng.
Trang 15
Bộ phận có quyền lực cao nhất của kiến trúc thượng tầng, của xã hội có
giai cấp đối kháng là nhà nước, công cụ cho giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế
độ xã hội về mặt pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp
thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội. Nhà nước không chỉ dựa
trên hệ tư tưởng mà còn những hình thức nhất định của việc kiểm soát xã hội,
sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất, quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà
tù, để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố vững chắc
địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Ph. Ăngghen viết: “Bạo lực (nghĩa là
quyền lực Nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế” [4; tr 604]. Các bộ phận
khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật
cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình thức khác
nhau, song thường những tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và
các thể chế tương ứng thì mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng
cũng như đối với toàn xã hội.
Tóm lại, mỗi hình thái kinh tế - xã hội được hình thành từ nhiều yếu tố,
nhiều mối quan hệ, những yếu tố cơ bản như: quan hệ sản xuất, lực lượng sản
xuất, kiến trúc thượng tầng hợp lại thành một hình thái kinh tế - xã hội, đã hình
thành nên những mối quan hệ có tính quy luật như: mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng (toàn bộ quan
hệ sản xuất) và kiến trúc thượng tầng. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất biểu hiện thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng với toàn bộ
quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) biểu hiện thành quy luật về quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ngoài những yếu tố cơ bản
của hình thái kinh tế - xã hội còn có những quan hệ khác như: quan hệ dân tộc,

giai cấp, gia đình và những quan hệ xã hội khác. Các yếu tố, các mối quan hệ
này luôn có mối quan hệ tác động lẫn nhau tạo thành động lực nội tại của sự
phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.


Trang 16
1.1.2.4 Quy luật vận động phát triển của hình thái kinh - tế xã hội
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác
động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thành quy luật sự phù hợp của
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản của phát triển xã hội loài người. Sự tác động của nó
trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình
thái kinh tế - xã hội cao hơn. Đó chính là quy luật vận động và phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo
chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó, bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng
sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Bởi vì, muốn phát triển sản xuất thì
con người phải cải tiến công cụ sản xuất nhằm tạo ra những công cụ sản xuất
mới. Quá trình đó làm cho kinh nghiệm sản xuất nâng lên, trình độ sản xuất
phát triển, năng lao động được nâng cao, làm cho lực lượng sản xuất là yếu tố
động nhất, cách mạng nhất, vận động phát triển không ngừng. Cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng được hình thành và biến
đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Trong khi lực lượng sản xuất vận động phát triển không ngừng còn
quan hệ sản xuất vận động với xu hướng chậm hơn, cho nên đến một lúc nào
đó khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới thì quan hệ sản xuất
không còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản

xuất trở thành vật cản, mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất. Sự phát triển
khách quan của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải phá vỡ quan hệ sản xuất cũ,
thiết lập quan hệ sản xuất mới.
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới
thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, cũng có nghĩa là sự diệt
vong của một phương thức sản xuất lỗi thời dẫn đến sự ra đời của phương thức
sản xuất mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng
Trang 17
sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của các cuộc đấu
tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất giúp chúng ta làm sáng tỏ động lự thực sự chân chính làm cho xã hội vận
động và phát triển là do mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình
độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực
lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh
nghiệm, kỹ thuật lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao
động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng
sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính
chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Tính chất của lực lượng sản xuất chính là
tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động. Khi sản xuất dựa trên công cụ
thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có
tính chất cá nhân.
Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội
phát triển thì lực lượng sản xuất có của tính chất xã hội hóa. Tính chất và trình
độ lực lượng sản xuất luôn luôn đòi hỏi một quan hệ sản xuất phù hợp. Sự vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó

quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng
sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa
bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu
giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở
để phát triển. Mặt khác, sự không phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất sẽ đưa đến xung đột xã hội gay gắt, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
Trang 18
và quan hệ sản xuất có tính lặp đi lặp lại theo quy luật trong quá trình sản xuất
vật chất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật xã hội phổ biến, nó được thực hiện thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Do đó việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phụ thuộc vào nhân tố chủ quan
của con người, con người phát hiện những yếu tố không phù hợp và giải quyết
mâu thuẫn này đem lại quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất mới này cũng sẽ trở thành không phù
hợp với lực lượng sản xuất; khi lực lượng sản xuất phát triển hơn nữa. Vì vậy
với sự phát triển tất yếu, khách quan của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản
xuất lỗi thời sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Mặc dù, lực lượng sản xuất là cái quyết định quan hệ sản xuất, nhưng
quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vì, quan hệ sản xuất quy định mục
đích sản xuất, quy định tổ chức phân công lao động xã hội. Do đó, nó tác động
đến thái độ của người trong lao động trong sản xuất, đến phát triển ứng dụng
khoa học và công nghệ.
Thông qua đó, nó tác động trở lại lực lượng sản xuất. Do đó, khi quan

hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở
thành động lực thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược
lại, khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời không còn phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất, khi đó nảy sinh mâu thuẫn gay gắt đòi hỏi một cuộc cách mạng xã hội
để thủ tiêu quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, thay vào đó một quan niệm sản xuất
mới phù hợp, dẫn đến sự ra đời của phương thức sản xuất mới.
Khi phương thức sản xuất mới ra đời dẫn đến sự biến đổi mọi mặt của
đời sống xã hội. C.Mác đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ
sản xuất hiện có trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát
Trang 19
triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan
hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội” [9; tr 15].
Khi quan hệ sản xuất mới ra đời thì cũng đồng thời hình thành cơ cấu
kinh tế mới, một guồng máy sản xuất mới cùng các quan hệ xã hội mới, trong
đó quan hệ sản xuất là cái cơ bản quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác,
trên đó hình thành kiến trúc thượng tầng pháp lí và chính trị và tương ứng với
cơ sở thực tại đó có những hình thái ý thức nhất định. Vì vậy, Mác coi quan hệ
sản xuất cũng như các cơ cấu kinh tế thuộc hạ tầng cơ sở, là cơ sở hình thành
nhà nước, luật pháp, những thể chế tương ứng, hình thành ý thức, tư tưởng
như vậy đến đây đã có một chế độ xã hội mới, tức là hình thái kinh tế - xã hội
được thay đổi.
Như vậy, quá trình phát triển không ngừng của sản xuất xã hội là do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, qua nhiều trình độ phát triển khác nhau làm
biến đổi các quan hệ sản xuất, đưa xã hội chuyển biến từ phương thức sản xuất
này đến phương thức sản xuất khác cao hơn. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã
hội, sự tác động trở lại đối với quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các
quy luật kinh tế, xã hội khác, đặc biệt là các quy luật kinh tế cơ bản. Quy luật

quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự
thay thế đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ công xã nguyên thủy đến
chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội
cộng sản tương lai là do tác động của hệ thống các quy luật xã hội.
Trong đó, luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Đây là quy luật vận động phát triển của
xã hội sự thay đổi kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất.
Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng tuần tự trải qua tất cả các phương
thức sản xuất mà loài người đã biết đến.
Sự vận động của hình thái kinh tế - xã hội không những bị chi phối bởi quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà
còn chi phối của quy luật về sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
Trang 20
trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành
của hình thái kinh tế - xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; song
kiến trúc thượng tầng cũng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng. Mỗi cơ sở
hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính
chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm
địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu
thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực
chính trị, tư tưởng. đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những
đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng
như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Mặt khác, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc
thượng tầng cũng thay đổi theo. Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng không
chỉ diễn ra trong giai đoạn thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái

kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra trong quá trình biến đổi của mỗi một hình
thái kinh tế - xã hội. Tuy sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm
thay đổi kiến trúc thượng tầng mà phải thông qua quan hệ sản xuất, tức là
thông qua cơ sở hạ tầng.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp làm thay đổi quan hệ
sản xuất, tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó là thay đổi
kiến trúc thượng tầng. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc
thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng,
có những yếu tố thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng
như chính trị, pháp quyền; nhưng cũng có những yếu tố thay đổi chậm như tôn
giáo, nghệ thuật…
Trong xã hội có giai cấp, thay đổi căn bản kiến trúc thượng tầng phải
thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. Tuy cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở
Trang 21
hạ tầng, nhưng kiến trúc thượng tầng lại có tính độc lập tương đối trong quá
trình vận động, phát triển và có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng, đều có tác động đến
cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách
thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác
động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của
giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng,
nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Sự tác động của các yếu tố kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
diễn ra nhiều xu hướng khác nhau. Trong đó, chức năng xã hội của kiến trúc
thượng tầng là xây dựng, củng cố, phát triển và bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra
nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một
giai cấp chỉ có giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng

cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo
hai chiều, nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu tác
động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm tiến bộ xã hội. Tuy
kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng
không làm thay đổi được trình phát triển khách quan của xã hội, xét đến cùng
nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến
trúc thượng tầng kìm hãm triển kinh tế, thì sớm hay muộn, bằng cách này hay
cách khác, kiến trúc thượng ntầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng
tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế triển.
Tóm lại, hình thái kinh tế - xã hội luôn luôn thay đổi theo sự vận động
và phát triển của xã hội. Sự thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình
thái kinh tế - xã hội khác bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất dẫn đến sự mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đương thời và hình thành cuộc
đấu tranh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thông qua một cuộc cách

×