Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT hiện nay trong dạy học môn giáo dục công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.08 KB, 135 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH THPT HIỆN NAY
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Thanh Thủy
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Phượng
Lớp: K61A
X B
Hà Nội – 2015
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình lịch sử của mỗi dân tộc, giá trị bao giờ cũng đóng
một vai trò chỉ đạo và định hướng cho xã hội theo những mục tiêu to lớn
được coi là có ý nghĩa cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc ấy. Tuy
nhiên, do sự phát triển nhanh chóng và nhiều mặt của thế giới ngày nay và
nền kinh tế thị trường đang tác động trực tiếp đến mọi quốc gia, đã và đang
dẫn tới nguy cơ làm xói mòn nhiều giá trị tinh thần nói chung và giá trị đạo
đức nói riêng, vốn được xem là truyền thống đạo đức của các dân tộc và
của toàn thể nhân loại.
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước,
quá trình đó đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, thương yêu con người, thương yêu đồng loại, có tinh thần
bất khuất, chịu đựng gian khổ, khó khăn… Những đức tính đó đã trở thành
truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế hệ con người Việt Nam đã
cùng nhau nâng niu và gìn giữ. Do quá trình toàn cầu hóa, một cơ hội mang
tính toàn cầu đem lại cho dân tộc ta là khuyến khích sự đa dạng và sự chia sẻ
các giá trị đạo đức. Điều đó có nghĩa là, giá trị truyền thống hoàn toàn có cơ
hội tìm được vị thế của mình trong hệ giá trị hiện đại của dân tộc, có cơ hội
được làm phong phú thêm bằng việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại. Nhưng cũng đồng thời với quá trình mở cửa hội nhập đó, sự xâm


nhập của văn hóa và lối sống ngoại lai đang từng ngày làm cho văn hóa
truyền thống có nguy cơ bị lãng quên. Trong đời sống xã hội, đã có những
biểu hiện coi nhẹ những giá trị truyền thống, chạy theo thị hiếu không lành
mạnh, nhất là trong giới trẻ.
Nhận thức được điều đó, tại Hội nghị Trung Ương bảy (khóa X), Đảng
ta đã khẳng định “Từ nay đến năm 2020, tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên
Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp
luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực và bản lĩnh trong hội nhập
quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong lao động tập thể, là những
công dân tốt của đất nước”. Để thực hiện được mục tiêu đó, việc giáo dục giá
trị sống cho thanh thiếu niên là một việc làm cần được quan tâm trong công
tác giáo dục ở nhà trường phổ thông.
Thanh niên là lứa tuổi đã có những biến đổi sâu sắc và hoàn thiện cả về
mặt cơ thể cũng như thế giới tâm lý, tình cảm. Trong khi đó, mặc dù hệ thống
những giá trị đạo đức, giá trị gia đình, cuộc sống… đã có nền móng từ bậc tiểu
học và cơ sở, nhưng chỉ đến giai đoạn lứa tuổi này, hệ thống những giá trị đó
mới được củng cố và phát triển. Bên cạnh đó, hệ thống giá trị sống của mỗi
người có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự hình thành nhân cách, lối sống và
có ảnh hưởng đến toàn bộ hành vi cá nhân. Nếu không có sự định hướng của
giáo dục nhà trường, gia đình, xã hội, hệ thống các giá trị này sẽ hình thành một
cách ngẫu nhiên, tự phát, có thể đưa các em đến những kiểu hình nhân cách lệch
chuẩn, không đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là xây dựng con người phát triển
toàn diện, nhưng việc giáo dục giá trị, định hướng giá trị nói chung và ý thức
về giá trị đích thực của cuộc sống trong một xã hội đang có sự vận động với
những thay đổi lớn lại chưa được quan tâm nhiều. Vì vậy việc giáo dục giá trị
sống và đưa ra một số phương pháp để thực hiện giáo dục giá trị sống cho học
sinh trong dạy học là rất cần thiết trong xã hội hiện nay. Với những lý do trên,
em xin chọn vấn đề “Giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT hiện nay

trong dạy học môn Giáo dục công dân” làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong bất cứ xã hội nào, thời đại nào cũng đều tồn tại các mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội. Việc giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ đó đòi hỏi phải có quá trình
giáo dục đạo đức, giáo dục giá trị. Ngày nay, Tâm lí học và Giáo dục học hiện
đại đã chỉ ra rằng, con người chỉ có đạo đức và thực hiện hành vi đạo đức khi
họ biết sống thực với những giá trị của mình và thể hiện những giá trị đó một
cách tích cực trong mối quan hệ với người khác, với xã hội. Do vậy, giáo dục
giá trị vừa là nền tảng, vừa là nội dung của quá trình giáo dục đạo đức cho
con người.
Ở Việt Nam, giáo dục giá trị sống còn là một vấn đề khá mới mẻ. Tuy
nhiên, việc đưa nội dung này vào giáo dục trong các trường phổ thông đã
bước đầu có sự quan tâm của Bộ Giáo dục và đào tạo cũng như các nhà
nghiên cứu tâm lý, giáo dục học và các lực lượng giáo dục trong toàn xã hội.
Trong số các công trình nghiên cứu về vấn đề này phải kể đến:
Công trình “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị”
thuộc đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX – 07 – 04, 1995 do GS.
Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm đã trình bày tương đối đầy đủ, toàn diện
về hệ thống thang bậc giá trị, sự hình thành định hướng giá trị nhân cách cũng
như quá trình giáo dục giá trị.
Hội nghị khoa học “Nghiên cứu con người, giáo dục phát triển và thế kỷ
XXI” tổ chức tháng 7 năm 1994 tại Hà Nội và chương trình khoa học cấp nhà
nước do GS.TSKH Phạm Minh Hạc chủ nhiệm đề tài KX – 07: “Con người
Việt Nam – Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” đã đề cập
đến vấn đề giá trị và định hướng giá trị của con người Việt Nam hiện nay.
Năm 1994 có đề tài KX – 07 – 10 của Viện khoa học giáo dục do
PGS.TSKH Thái Duy Tuyên làm chủ nhiệm nghiên cứu “Ảnh hưởng của kinh
tế thị trường đối với việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt
Nam”. Đề tài đã đề cập đến thực trạng định hướng giá trị của thanh niên Việt

Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và một số dự báo về sự biến đổi định
hướng giá trị của thanh niên trong tương lai.
Ngoài ra, vấn đề giá trị và giáo dục giá trị cũng là vấn đề được nhiều tác
giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu như:
- Tác giả Lê Đức Phúc: “Giá trị và định hướng giá trị”, tạp chí Nghiên
cứu giáo dục số 12, 1992.
- Tác giả Trần Trọng Thủy: “Giá trị, định hướng giá trị và nhân cách”,
tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7, 1993.
- Tác giả Phạm Lăng: “Giáo dục giá trị nhân văn ở trường THCS”, NXB
Giáo dục, 1997.
- Tác giả Hà Nhật Thăng: “Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn”,
NXB Giáo dục, 1998.
- Tác giả Huỳnh Khái Vinh (chủ biên) với cuốn: “Một số vấn đề về lối
sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
- Tác giả Đỗ Ngọc Hà với luận án tiến sĩ Tâm lý học “Định hướng giá trị
của thanh niên sinh viên hiện nay”, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002.
- Tác giả Đinh Thế Đinh: “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên”, tạp chí Giáo dục, số 1, 2005.
- Tác giả Ngô Công Hoàn: “Giá trị đạo đức và giáo dục giá trị cho trẻ
em lứa tuổi mầm non”, NXB Đại học Sư phạm, 2006.
- Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Thanh Huyền “Định hướng giá trị nhân
cách của sinh viên trường Đại học Hải Phòng”, trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, 2007.
- Tác giả Phạm Minh Hạc: “Giáo dục giá trị”, tạp chí Nghiên cứu con
người, số 37, 2008.
- Tác giả Văn Thị Hằng với luận văn thạc sĩ Giáo dục học “Biện pháp
giáo dục truyền thống hiếu học cho học sinh THCS thị xã Sầm Sơn – Thanh
Hóa”, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng giáo dục giá trị sống cho học sinh trong nhà trường,
từ đó đề xuất một số phương pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT
hiện nay trong dạy học môn GDCD.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
- Xây dựng một số phương pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh
THPT trong dạy học môn Giáo dục công dân hiện nay.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng giả thuyết khoa học của đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT trong dạy học
môn GDCD.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu một số phương pháp nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT trong dạy học môn GDCD.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, chủ trương chính sách của Nhà nước trong giáo dục; tư tưởng
Hồ Chí Minh về sự nghiệp giáo dục; nội dung chương trình môn GDCD ở
trường THPT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp xử lý kết quả thực nghiệm
- Phương pháp logic – lịch sử
- Phương pháp phân tích – tổng hợp

6. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ thực trạng giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT hiện nay.
- Đề xuất một số phương pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT
hiện nay trong dạy học môn GDCD.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục giá trị sống cho học
sinh THPT hiện nay
Chương 2. Thực nghiệm sư phạm
Chương 3. Quy trình và điều kiện thực hiện giáo dục giá trị sống cho học
sinh THPT hiện nay trong dạy học môn Giáo dục công dân
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIÁO DỤC GIÁ
TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH THPT HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT hiện nay
1.1.1.Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Giá trị
Lí luận về giá trị đã có từ thời xa xưa nhưng lại gắn liền với sự ra đời,
phát triển của triết học. Chỉ đến cuối thế kỷ XIX, giá trị học mới tách thành
một lĩnh vực khoa học độc lập và từ đây, thuật ngữ giá trị mới được sử dụng
với tư cách là một khái niệm khoa học.
Giá trị là khái niệm còn nhiều tranh cãi. Đã có rất nhiều quan điểm đưa
ra khi nói về giá trị:
Trong tiếng Anh có hai thuật ngữ tương đương với khái niệm giá trị là
“Value” và “Worth”. Trong đó, “Value” có nghĩa là giá trị, giá cả, ý nghĩa;
còn “Worth” vừa có nghĩa là giá trị, giá cả, ý nghĩa, vừa được dùng để chỉ
phẩm giá, phẩm chất của con người.
Theo Từ điển Hán – Việt do GS. Nguyễn Lân biên soạn, giá trị có ba
ý nghĩa:
+ Là phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hóa, biểu hiện số lao động trừu

tượng của xã hội đã hao phí vào việc sản xuất ra hàng hóa.
+ Phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hoặc con người.
+ Phẩm chất tốt đẹp, tác dụng lớn lao.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “giá trị” là:
1. Cái gì làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt
nào đó.
2. Tác dụng, hiệu lực.
3. Lao động xã hội, kết tinh trong sản phẩm hàng hóa.
4. Số đo của một đại lượng.
Bên cạnh đó, giá trị cũng là một thuật ngữ được nhiều ngành khoa học
nghiên cứu, trong đó phải kể đến Triết học, Xã hội học, Kinh tế học, Đạo đức
học, Tâm lý học… Mỗi ngành khoa học lại nghiên cứu về giá trị dưới góc độ
khác nhau và do đó, quan niệm về giá trị cũng chưa có sự thống nhất.
Trong Triết học có thể kể đến các quan điểm sau về giá trị:
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi giá trị là sự tồn tại của những bản
chất tiên nghiệm, những chuẩn mực, lý tưởng bên ngoài thế giới khách quan
mà không phụ thuộc vào nhu cầu, ý muốn của con người.
- Khác với chủ nghĩa duy tâm khách quan, các nhà Triết học theo
trường phái duy tâm chủ quan lại coi giá trị là hiện tượng của ý thức, là biểu
hiện của thái độ chủ quan của con người đối với sự vật, hiện tượng. Theo các
nhà Triết học này, mức độ giá trị của sự vật đến đâu là do ý muốn chủ quan
của người đang xem xét nó. Như vậy, cùng là một sự vật, hiện tượng nhưng
với người này là có giá trị còn với người khác thì không.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đưa ra quan điểm đúng đắn về giá trị. Theo
đó, giá trị là những hiện tượng xã hội đặc thù, mọi giá trị đều có nguồn gốc
từ quá trình lao động sáng tạo của quần chúng trong thực tiễn. Giá trị được
xác định không phải ở các thuộc tính của sự vật mà ở sự cuốn hút của các
thuộc tính ấy vào các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người, vào hứng
thú và nhu cầu của con người. Giá trị xuất hiện khi sự vật tham gia vào các
hoạt động của con người và biểu hiện cường độ của nó trong việc gây ra

những thái độ nhất định ở chủ thể hoạt động. Thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan của giá trị, đồng thời là cơ sở để xác định bản chất của giá trị.
Đạo đức học nghiên cứu khái niệm giá trị trong một khuôn khổ hẹp
hơn, đó là đời sống đạo đức của con người trong các mối quan hệ xã hội.
Theo quan điểm của các nhà Đạo đức học, phạm trù “đạo đức” chính là giá
trị và giá trị nào cũng được hình thành trong các mối quan hệ đạo đức. Giá
trị trong Đạo đức học luôn gắn liền với những khái niệm trung tâm như: cái
thiện, cái ác, công bằng, bình đẳng, bác ái.
Dưới góc độ của Giáo dục học, có thể hiểu giá trị là phẩm chất tốt hay
xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay của con người, là cái làm cho vật
được thừa nhận là có ích lợi, đáng quý, là tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực
của khách thể đối với con người, giai cấp, nhóm xã hội nói chung, là các
thuộc tính của vật chất và tinh thần có ý nghĩa đối với cuộc sống con người.
Nói ngắn gọn, giá trị là chỉ độ lớn hay nhỏ, nhiều hay ít cái hữu ích của một
sự vật hay hiện tượng đối với cuộc sống con người.
Như vậy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về giá trị tùy theo cách tiếp
cận và mục đích nghiên cứu của các tác giả. Qua nghiên cứu các quan điểm
đó, ta có thể thấy khái niệm giá trị có các đặc điểm cơ bản sau:
- Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị, dù đó là vật thể hay
tư tưởng, miễn là sự vật đó được con người thừa nhận, cần đến nó như một
nhu cầu hoặc cấp cho nó một vị trí quan trọng trong đời sống của họ.
- Cần phân biệt cái gọi là bản chất và quy luật của bản thân sự vật, hiện
tượng với cái gọi là giá trị của sự vật, hiện tượng. Bản chất và quy luật của sự
vật, hiện tượng tồn tại, không tồn tại vào xu hướng nói chung và nhu cầu nói
riêng của con người. Còn giá trị chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ với nhu
cầu của con người. Tùy theo việc con người có hay không có nhu cầu nào đó
mà một sự vật hay hiện tượng đối với con người là có hay không có giá trị.
- Giá trị luôn mang tính khách quan – nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại, mất
đi của giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức con người là chủ thể trong
mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mà nó phụ thuộc vào sự xuất hiện, tồn tại

hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người, không phải do ý thức mà do
yêu cầu của hoạt động, của thực tiễn, trong đó con người sống và hoạt động.
- Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và
yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá
trị, thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể.
- Được hiểu theo hai góc độ: vật chất và tinh thần. Giá trị vật chất là giá
trị đo được bằng tiền bạc dưới góc độ kinh tế, còn giá trị tinh thần tạo cho con
người khoái cảm, hứng thú và sảng khoái.
- Là một phạm trù lịch sử vì giá trị thay đổi theo thời gian, theo sự biến
động của xã hội, phụ thuộc vào tính dân tộc, tôn giáo và cộng đồng.
1.1.1.2.Giá trị sống và giáo dục giá trị sống
• Giá trị sống
Vấn đề giáo dục giá trị sống đã được một số nước chú ý từ vài thập kỷ
cuối của thế kỷ XIX. Đến đầu thế kỷ XX, một số tổ chức quốc tế và nhiều
quốc gia đã có chương trình, tổ chức chuyên trách về giáo dục giá trị sống.
Vào tháng 8 năm 1996, 20 nhà giáo dục trên khắp thế giới đã tập hợp tại trụ
sở của UNICEF ở thành phố New York để thảo luận về nhu cầu của trẻ em,
những trải nghiệm khi tiếp xúc với các giá trị của chúng và các nhà giáo dục
có thể kết hợp các giá trị này như thế nào để chuẩn bị cho tất cả mọi người
một cách tốt hơn cho sự học tập suốt đời. Từ đó, chương trình “Các giá trị
sống: Một sáng kiến giáo dục” (tên viết tắt tiếng Anh là LVEI) được ra đời.
Hưởng ứng hội thảo này, năm 1998, một số nhà giáo dục và các nhà Tâm
lý học thuộc một số bang của Mỹ đã tổ chức các hoạt động giáo dục giá trị
sống, tập trung vào bậc tiểu học và trung học cơ sở. Năm 2000, Mỹ lập ra một
chương trình và tổ chức phi lợi nhuận về vấn đề này gọi là “Chương trình
giáo dục các giá trị sống” (Living Values Education Program). Trên cơ sở đó,
khái niệm giá trị sống đã được quan niệm như sau:
Giá trị sống (living values) là những điều chúng ta cho là quý giá, là
quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người.
Giá trị sống trở thành động lực để người ta nỗ lực phấn đấu để có được

nó. Giá trị sống mang tính cá nhân, không phải giá trị sống của mọi người đều
giống nhau.
Có nhiều quan niệm khác nhau về giá trị sống:
- Một thứ gì đó có giá trị khi nó được nhận thức như là sự cần thiết, là
tốt, được mong đợi và có ảnh hưởng chi phối đến tình cảm, thái độ, hành vi
của một cá nhân trong cuộc sống.
- Giá trị sống là những thứ được cá nhân nhận thức là rất quan trọng, rất
cần thiết, rất có ý nghĩa, luôn mong đợi, chúng có khả năng chi phối thái độ,
xúc cảm, tình cảm, hành vi của một cá nhân trong cuộc sống hàng ngày.
- Không chỉ tài sản mà cả tri thức, sức khỏe, tình yêu thương, sự trung
thực, danh dự… cũng được coi là giá trị sống của một cá nhân.
Giá trị sống của mỗi cá nhân không thể tự nhiên mà có theo kiểu lập
trình đã được mã hóa trong gen. Giá trị sống được hình thành nhờ quá trình tự
nhận thức và sự trải nghiệm của mỗi người.
Trong luận văn này, tác giả đã sử dụng khái niệm Giá trị sống là một
hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác
trong các mối quan hệ của con người với con người. Giá trị sống về bản
chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được
hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Giá
trị sống là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời sống, và định hướng
cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với
chuẩn mực của xã hội.
Cách sống của mỗi người phản ánh các giá trị sống mà người đó theo
đuổi. Giáo dục giá trị sống cần được thực hiện rất sớm gắn liền với gieo trồng
những hành vi tích cực và thói quen tốt.
Giá trị sống được hình thành trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân,
bao gồm những giá trị sống cho trẻ từ 3 đến 7 tuổi; những giá trị sống cho trẻ
từ 8 đến 10 tuổi; những giá trị sống dành cho tuổi trẻ trong đó giai đoạn vị
thành niên (9 – 10 tuổi đến 17 – 18 tuổi) là giai đoạn có ý nghĩa nhất.
• Phân loại giá trị sống

Theo PGS.TS. Nguyễn Công Khanh đã đưa ra những giá trị sống có vai trò
rất quan trọng, không thể thiếu hụt ở lứa tuổi học sinh bao gồm 10 giá trị sống:
1. Giàu tình yêu thương
2. Trung thực
3. Biết quan tâm đến người khác
4. Ham học hỏi
5. Siêng năng
6. Sống tôn trọng luật pháp
7. Yêu hòa bình
8. Biết nhận lỗi và biết tha thứ
9. Sống chủ động, tự tin
10.Chấp nhận thử thách và luôn vượt khó
Theo nhà tâm lý học xã hội Rokeach.M đã phân chia hệ thống giá trị
sống bao gồm 36 giá trị:
1. Cuộc sống tiện nghi, thoải mái và thịnh vượng
2. Bình đẳng (có những cơ hội cho tất cả mọi người)
3. Cuộc sống đầy thú vị và năng động
4. Bình ổn trong gia đình (luôn quan tâm nhau và chăm sóc nhau trong
tình thương)
5. Tự do (không phụ thuộc vào ai, tự do lựa theo ý kiến của bản thân)
6. Sức khỏe (mạnh khỏe cả về mặt thể chất lẫn tinh thần)
7. Có một thế giới tâm hồn hài hòa (thoát ra khỏi những xung đột tâm lý)
8. Tình yêu trưởng thành (có sự gần gũi thân mật về thể xác và tinh thần)
9. An ninh quốc gia (bảo vệ trước những tấn công)
10. Hài lòng với cuộc sống (có một cuộc sống thú vị và nhàn nhã)
11. Sự bảo vệ (cuộc sống được bảo vệ)
12. Lòng tự trọng
13. Cảm giác mãn nguyện hoàn thành
14. Được xã hội công nhận
15.Tình bạn chân thành

16. Sự khôn ngoan (trưởng thành trong những hiểu biết của cuộc sống)
17.Thế giới hòa bình (thế giới không có chiến tranh và xung đột)
18. Thế giới tuyệt đẹp (đẹp bởi tài nguyên và nghệ thuật)
19. Nhiều hoài bão, khát vọng (làm việc chăm chỉ và có ước mơ)
20. Mở rộng tấm lòng
21. Có năng lực (có thẩm quyền và làm việc có hiệu quả)
22. Sạch sẽ (luôn gọn gàng và ngăn nắp)
23. Dũng cảm (luôn có niềm tin vững vàng)
24. Tha thứ (rộng lượng trước lỗi lầm của người khác)
25. Hữu ích (làm việc vì lợi ích của người khác)
26.Trung thực
27. Giàu trí tưởng tượng (tái tạo và sáng tạo)
28.Tự lập (tự lực cánh sinh và không phụ thuộc vào người khác)
29. Trí tuệ (thông minh và phản ứng nhanh)
30. Phù hợp, hợp lý
31.Tình yêu thương (tình cảm và dịu dàng)
32. Trung thành (luôn trung thành với bạn bè và nhóm của mình)
33. Lễ phép (hiếu thảo và tôn trọng)
34. Lịch sự
35. Có trách nhiệm (con người đáng tin cậy)
36. Tự kiểm soát (tự hạn chế và tự kỷ luật)
Theo những tài liệu về giáo dục giá trị sống của Liên Hợp Quốc, Diane
Tillman chia thành 12 giá trị sống cơ bản:
1. Giá trị hòa bình
2. Giá trị hợp tác
3. Giá trị hạnh phúc
4. Giá trị yêu thương
5. Giá trị khoan dung
6. Giá trị khiêm tốn
7. Giá trị trách nhiệm

8. Giá trị trung thực
9. Giá trị tự do
10.Giá trị tôn trọng
11. Giá trị giản dị
12.Giá trị đoàn kết
Với các quan điểm phân loại trên, tác giả đã sử dụng cách phân loại theo
những tài liệu về giáo dục giá trị sống của Liên Hợp Quốc, Diane Tillman về giá
trị sống để làm cơ sở cho lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu.
• Giáo dục giá trị sống
Hiện nay trên thế giới đều gặp một tình trạng chung: chương trình giáo
dục đã được cải tiến, điều kiện sống ngày một nâng cao nhưng nạn bạo lực,
lạm dụng, tệ nạn xã hội gia tăng và xâm nhập vào học đường. Đi tìm lời giải
đáp cho vấn đề này, các nhà giáo dục đã chỉ ra nhiều nguyên nhân, nhưng có
một nguyên nhân sâu xa, cơ bản nhất là người ta đã sống không đúng với giá
trị vốn có của mỗi người. Con người đáng tôn vinh nhiều nhất chính là giá trị
vốn có của mỗi người. Trẻ em trong quá trình phát triển nhân cách nếu được
sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có
một nhân cách phát triển toàn diện bền vững, có khả năng thích ứng và chống
chọi với mọi biến động trong xã hội.
Trong báo cáo “Learning: The treasure within” (tạm dịch “Học tập: kho
báu ở bên trong”) của UNESCO cũng nhận định: “Khi phải đối mặt với rất
nhiều thử thách của tương lai, nhân loại nhìn thấy trong giáo dục một tài sản
không tách rời, thiết yếu trong nỗ lực đạt tới những lý tưởng về hòa bình, tự
do và công bằng xã hội”. Như vậy, giáo dục không phải là phương thuốc thần
kỳ khiến cho lý tưởng của các nhà giáo dục trở thành hiện thực, song nó là
con đường cơ bản để thế hệ trẻ vừa có được cuộc sống hạnh phúc hơn trong
hiện tại đồng thời xây dựng cho mình một tương lai bền vững và an toàn.
Nói về giáo dục giá trị nói chung, tác giả Phan Thanh Long định nghĩa:
“Giáo dục giá trị là quá trình nhà giáo dục tổ chức, hướng dẫn, điều khiển,
định hướng, kích thích hoạt động tự giác, tích cực và chủ động của người

được giáo dục; qua đó giúp họ lĩnh hội được các giá trị xã hội, hình thành
nên hệ thống giá trị của cá nhân phù hợp với mong đợi của xã hội” [7, 138].
Giáo dục giá trị có mục tiêu là làm cho người được giáo dục:
- Nhận thức được kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật nghề nghiệp mà
họ đang học trong trường là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết thực với họ
trong sự phát triển tiếp tục cũng như ứng dụng trong đời sống.
- Có thái độ trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện được các
giá trị nêu trên, đồng thời không tán thành, không chấp nhận những giá trị
phản lại các giá trị đó, đấu tranh bảo vệ những giá trị chân chính, đích thực
của xã hội.
- Có hành động thực tiễn thể hiện ở việc học tập, nghiên cứu, chiếm
lĩnh bằng được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo văn hóa, khoa học, nghề nghiệp…
thể hiện ở sự quan tâm, gắn bó với công việc, sự nghiệp của cá nhân và có
trách nhiệm với xã hội…
Mục đích và nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục giá trị đòi hỏi phải làm cho
hệ thống giá trị mà xã hội mong đợi chuyển thành hệ giá trị trong mỗi cá nhân
người được giáo dục để tạo ra các hành vi, hành động, hoạt động thống nhất
với hệ giá trị đó. Mặt khác, nhân cách chính là sự biểu thị mối quan hệ, mức
độ phù hợp giữa thang giá trị, thước đo giá trị của chủ thể với thang giá trị và
thước đo giá trị của nhóm, cộng đồng xã hội và nhân loại. Mức độ và phạm vi
phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn. Đây chính là nội dung cốt yếu của
giáo dục. Các tác giả Terry Lovat và Ron Toomey đã đưa ra kết luận trong
nghiên cứu của mình rằng: “Giáo dục các giá trị ngày càng được nhìn nhận
là có sức mạnh vượt lên khỏi lời răn dạy đạo đức chi tiết đến mức hạn chế
trong cách nhìn hoặc những vấn đề thuộc về tư cách công dân. Nó đang được
xem là trung tâm của tất cả các thành quả mà giáo viên và nhà trường có tâm
huyết có thể hy vọng đạt được thông qua việc dạy về giá trị. Chỉ riêng về mặt
này thì việc giáo dục các giá trị có thể được xem là “một mắt xích bị thiếu” ở
một giáo viên ưu tú và việc giáo dục có chất lượng”. [2, 25]. Có thể nói, giáo
dục giá trị sống cũng được coi là một biện pháp hiệu quả để nâng cao chất

lượng giáo dục trong nhà trường.
Trích lời của Bà Trish Summerfield – Giám đốc Trung tâm Giáo dục Giá
trị sống tại Việt Nam “Giá trị sống là sống với từng giá trị chứ không phải
chỉ là nói về các giá trị đó. Cũng như khi chúng ta dạy học, chúng ta phải
quan tâm đến những việc chúng ta làm chứ không chỉ là những điều chúng ta
nói, phải quan tâm đến tâm trạng của đối tượng chứ không chỉ kết quả của
hoạt động. Giá trị là gốc còn kỹ năng chỉ là phần ngọn. Vì vậy, dạy về giá trị
sống là dạy cái gốc rễ của cuộc sống, là dạy cho mọi người sống với nhau
bằng tình yêu thương và sự tôn trọng”
Như vậy, có thể hiểu giáo dục giá trị sống như sau: “Giáo dục giá trị
sống là quá trình nhà giáo dục tác động, kích thích, hướng dẫn người được
giáo dục, giúp họ tự nhận thức, có thái độ trân trọng và tích cực thể hiện
những giá trị sống của bản thân với người khác và với cộng đồng.”
Trong luận văn này, tác giả đã tiếp cận cách hiểu giáo dục giá trị sống
như trên để triển khai trong quá trình nghiên cứu của mình.
1.1.2. Nội dung giáo dục giá trị sống cơ bản cho học sinh Trung học
phổ thông
Nội dung giáo dục giá trị sống đã được tổ chức UNESCO (Tổ chức khoa
học, văn hóa và giáo dục thế giới) quan tâm từ rất sớm trong chương trình
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Trong bốn trụ cột giáo dục được tổ chức
này đưa ra (Learning to know – Học để biết, Learning to do – Học để làm,
Learning to be – Học để làm người, Learning to live together – Học để cùng
chung sống) thì nội dung “Học để cùng chung sống” là nội dung cốt lõi nhất,
được các nhà giáo dục thuộc tổ chức UNESCO rất coi trọng. Nội dung giáo
dục giá trị sống được xác định là nội dung cơ bản trong trụ cột giáo dục này
với mục tiêu như sau:
- Về kiến thức: Cần làm cho học sinh biết được những biểu hiện của các
giá trị truyền thống và hiện đại như lòng yêu nước, tình thương yêu, lòng
khoan dung, tinh thần trách nhiệm, sự hòa hợp và sự quan tâm, chia sẻ trong
cuộc sống hàng ngày; biết được ý nghĩa của các phẩm chất này trong việc

chung sống hòa bình với mọi người và với thiên nhiên.
- Về kỹ năng: Học sinh biết thể hiện lòng yêu nước, tình yêu thương,
lòng khoan dung, tinh thần trách nhiệm, sự hòa hợp và sự quan tâm, chia sẻ
với mọi người xung quanh và với thiên nhiên.
- Về thái độ: Học sinh đồng tình, ủng hộ những hành vi, việc làm thể
hiện lòng yêu nước, tình yêu thương, lòng khoan dung, tinh thần trách nhiệm,
sự hòa hợp và quan tâm, chia sẻ với mọi người xung quanh và với thiên
nhiên.
Với những mục tiêu đó, nội dung giáo dục giá trị sống dành cho học sinh
trung học cơ sở và trung học phổ thông bao gồm các chủ đề sau đây:
Chủ đề Nội dung giáo dục
1. Hòa bình
Tình yêu thương
2.
Khoan dung
Hòa hợp
4.
Quan tâm và chia sẻ
5. Quyền con người
Bình đẳng
6.
Tôn trọng nhân phẩm
Tinh thần trách nhiệm
8.
Hợp tác
9. Dân chủ
Tự do và trách nhiệm
10.
Ý thức công dân
Tôn trọng pháp luật

12.
Đoàn kết
13.Sự phát triển bền vững
Giữ gìn và bảo vệ môi trường
14. Khả năng thích nghi
Giản dị, tiết kiệm
16. Định hướng tương lai
Bên cạnh những nội dung giáo dục giá trị sống mà tổ chức UNESCO
đưa ra, Chương trình giáo dục những giá trị sống (LVEP) với sự hợp tác của
các nhà giáo dục trên thế giới, được sự hỗ trợ của UNESCO, Ủy ban quốc gia
về UNICEF của Tây Ban Nha và các tổ chức quốc tế khác cũng đã tổng kết
và đưa ra 12 giá trị sống cơ bản cho trẻ em trên toàn cầu. Đó là các giá trị:
hòa bình, hợp tác, hạnh phúc, yêu thương, khoan dung, khiêm tốn, trách
nhiệm, trung thực, tự do, tôn trọng, giản dị và đoàn kết. Trong những nội
dung đó có ba giá trị sống cốt lõi nhất là giá trị hòa bình, tình yêu thương và
tôn trọng. Học sinh trong quá trình phát triển nhân cách nếu được sớm hình
thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân
cách phát triển toàn diện bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với
mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống bằng chính
những giá trị cốt lõi được các em cảm nhận.
Như vậy, giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT không phải là một sự
giáo dục lan man, không có chủ đề, định hướng giá trị mà đó là một sự giáo
dục có chọn lọc, có xác định mục tiêu trọng tâm và giá trị cốt lõi, phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lý của các em, sát với các chủ đề trong nội dung giáo dục
giá trị sống cho học sinh THPT: Hòa bình; Quyền con người; Dân chủ; Sự
phát triển bền vững.
1.1.3. Các phương pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh Trung học
phổ thông
1.1.3.1. Phương pháp nêu gương/mô hình mẫu
Người thầy là tấm gương để trò soi vào, để trò học làm người. Chính vì

vậy, không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “dùng nhân cách để
giáo dục nhân cách”. Những người dạy nội dung giá trị sống càng cần là tấm
gương mẫu mực về hành vi, lời ăn tiếng nói, cách ứng xử, cách giải quyết vấn
đề… Đây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi mỗi người thầy cũng luôn phải
tự rèn luyện mình để công tác giáo dục học trò hiệu quả hơn. Tuy nhiên nói
vậy không có nghĩa người thầy là những vị thánh, là những siêu nhân. Người
thầy cũng có thể phạm sai lầm. Nhưng thái độ của người thầy đối với sự việc
sẽ giải thích kỹ năng sống của thầy như thế nào.
Những điều Không nên:
- Diễn thuyết, nói dài, đọc cho học sinh chép.
- Không luôn đưa ra lời đáp có sẵn mà để học sinh tự tìm tòi.
- Không trả lời tay đôi với một học sinh mà đưa câu hỏi cho tập thể tự
tìm lời giải đáp.
- Không vội vàng phê phán đúng/sai như một quan tòa nhưng kiên trì
giúp học sinh tranh luận và tự kết luận.
- Không mớm ý cho học sinh phát biểu ý kiến mà người lớn trông đợi.
- Không nên bắt học sinh hoạt động không ngừng và không còn thời
gian, khoảng trống để suy nghĩ cho dù giáo viên có khả năng tổ chức sinh
hoạt tập thể, và là một hoạt náo viên giỏi.
Dĩ nhiên, thỉnh thoảng giáo viên có thể tổng kết, kết luận nhưng với thái
độ thư giãn, thoải mái, gợi mở. Điều này sẽ giúp cho học sinh dám tự tìm tòi,
suy nghĩ.
Những điều Nên đối với nhà giáo dục giá trị sống:
- Tin tưởng vào học sinh và năng lực của họ.
- Kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt.
- Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới.
- Tự tin nhưng không kiêu căng.
- Có kinh nghiệm sống và biết suy xét.
- Tôn trọng ý kiến của người khác, không áp đặt ý kiến của mình.
- Thực hành tư duy sáng tạo và khai phá.

- Có khả năng tạo bầu không khí tin tưởng lẫn nhau.
- Linh động trong việc sử dụng các kỹ thuật điều động nhóm.
- Có kiến thức về tâm lý phát triển nhóm, bao gồm khả năng nắm bắt bầu
không khí nhóm, để kịp thời thay đổi phương pháp.
- Biết sắp xếp phòng ốc, thiết bị để tạo bầu không khí hấp dẫn.
Đặc biệt người dạy phải nắm vững “tính năng động của nhóm” và có
những kỹ năng tác động vào nhóm để:
- Tạo bầu không khí dân chủ, thoải mái để nhóm viên đưa ra những kinh
nghiệm, những nhận thức mới hay những quyết định hành động.
- Tác động kịp thời khi nhóm bế tắc, để thay đổi quy trình nhóm cho phù
hợp.
- Biết tạo bầu không khí tranh luận sôi nổi để cọ xát các giá trị, các lập
trường khác nhau nhằm giúp học viên chấp nhận hay không chấp nhận những
ý kiến khác biệt.
- Biết nắm phản hồi của nhóm khi sinh hoạt kết thúc.
- Uyển chuyển nhưng bám sát quy trình phát triển của nhóm.
1.1.3.2. Phương pháp thuyết trình kết hợp với các phương pháp khác
Để học sinh hiểu và cảm nhận sâu sắc về các giá trị sống, giáo viên cần
giải thích cho học sinh về các giá trị, những thể hiện đa dạng của giá trị sống
trong từng hành vi của con người trong thực tiễn xã hội. Giờ học giá trị sống
thường bắt đầu từ giới thiệu mục tiêu, và nó có thể triển khai dưới các hình
thức khác nhau.
Phần giới thiệu mục tiêu thường được thực hiện bằng phương pháp
thuyết trình, trao đổi giữa giáo viên và học sinh, dưới dạng lấy phiếu nhu cầu,
dưới dạng trò chơi, câu đố… Các phương pháp lựa chọn cần tạo ra sự thu hút
và nảy sinh động cơ, nhu cầu muốn tìm hiểu ở học sinh.
1.1.3.3. Phương pháp động não
Với mục đích làm cho học sinh tích cực và chủ động, sáng tạo tham gia
vào quá trình giáo dục, phương pháp kích não (động não, bão não, khởi
động…) rất nên sử dụng. Học sinh phải đưa ra ý kiến của mình về vấn đề đã

có chút ít kinh nghiệm, hiểu biết hoặc về một vấn đề mới trên cơ sở được
cung cấp một số thông tin cơ bản và cần thiết. Động não là phương pháp giúp
cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả
định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương pháp có ích để thu thập một
danh sách các thông tin.
1.1.3.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống
Bên cạnh phương pháp động não, phương pháp nghiên cứu tình huống
cũng được sử dụng rất hiệu quả trong giáo dục giá trị sống. Nghiên cứu tình
huống thường là một câu chuyện được viết chọn lọc nhằm tạo ra một tình
huống thật để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu
tình huống có thể được thực hiện qua quan sát video mà không phải ở dạng
văn bản. Tình huống sử dụng cần phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực,
nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những hoàn cảnh khác
nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản.
Tình huống được xây dựng hay tuyển chọn cần sát với mục tiêu cần hình
thành ở học sinh. Giáo viên là người hiểu rõ tình huống và mục đích giáo dục
có thể đạt được từ tình huống.
1.1.3.5. Phương pháp trò chơi
Phương pháp trò chơi cũng là phương pháp hiệu quả, là sự tổ chức cho
học sinh chơi một trò chơi nào đó để thông qua đó mà tìm hiểu một vấn đề,
biểu hiện thái độ hay thực hiện hành động, việc làm.
Phương pháp trò chơi có ưu điểm sau:
- Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi,
bởi cá nhân thể hiện như thế nào trong trò chơi thì phần lớn cá nhân đó thể
hiện như thế trong cuộc sống thực. Chính nhờ sự thể nghiệm này sẽ hình
thành được ở học sinh niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra
động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn
cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.
- Qua trò chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn

luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
- Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh
động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình học
tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ
được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.
- Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học
sinh, giữa giáo viên với học sinh.
1.1.3.6. Phương pháp hoạt động nhóm
Để tăng cường sự trải nghiệm và để đưa ra cách giải quyết theo kinh
nghiệm và hiểu biết ở học sinh thì các hoạt động ngoài giờ lên lớp được thực
hiện trong mối quan hệ cộng đồng, trong đó mối quan hệ giữa các thành viên
trong nhóm có một vai trò hết sức quan trọng. Thông thường với mục tiêu này
thường sử dụng phương pháp nhóm. Thực chất của phương pháp này là để
người cùng tham gia trao đổi hay cùng làm về một vấn đề nào đó theo nhóm
nhỏ. Thảo luận hay cùng làm một việc gì đó theo nhóm được sử dụng rộng rãi
nhằm giúp cho học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập,
tạo cơ hội cho học sinh có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải
quyết một vấn đề có liên quan đến thái độ, giá trị hay kỹ năng cần hình thành.
Tạo một không gian thảo luận cởi mở, tôn trọng lẫn nhau là điều rất quan
trọng và cần thiết trong thảo luận. Khi có được điều này, việc chia sẻ sẽ trở
nên dễ dàng, thoải mái hơn. Việc bày tỏ những cảm giác, cảm nhận sau mỗi
câu hỏi có thể làm sáng tỏ quan điểm cá nhân và tìm được sự đồng cảm hơn.
Quá trình thảo luận còn có thể giúp cho điều tiêu cực được chấp nhận và
từ đó tạo bầu không khí cởi mở để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những tiêu
cực này. Khi tất cả được thực hiện với sự tôn trọng chân thành, học sinh sẽ
dần tháo bỏ được “hàng rào phòng thủ”, và không còn biện minh cho tính tiêu
cực của họ. Một khi những giá trị tích cực được khám phá, học sinh sẽ cảm
thấy bản thân mình có giá trị; dần dần họ thấy tự do và có ý chí mạnh mẽ để
hành động khác đi.
1.1.3.7. Phương pháp đóng vai

Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, “làm thử” một
số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là một phương
pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách
tập trung vào một sự kiện cụ thể mà họ quan sát được. Việc “diễn” không

×