Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Luận văn: Sử dụng bảo tàng phòng không không quân trong dạy học lịch sử việt nam (1954 – 1975) ở trường trung học cơ sở tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

VƯƠNG THỊ NGÀ
SỬ DỤNG BẢO TÀNG PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM (1954 – 1975)
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
MÃ SỐ: 60.14.01.11
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2014
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Đình Tùng
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Phòng tư liệu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- Trung tâm thông tin - Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, giáo dục cũng có vị trí quan
trọng trong sự phát triển xã hội. Xưa kia cha ông ta đã có câu: "Quy trí tất
hưng" (Chăm lo cho giáo dục thì đất nước hưng thịnh). Ngày nay, giáo dục là
phát triển. Năm 2004, UNESCO khẳng định: "Không có một sự tiến bộ nào,
sự thành đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo
dục của quốc gia đó. Và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ
tri thức và khả năng cần thiết tiến hành sự nghiệp giáo dục một cách hiệu


quả thì số phận quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả
sự phá sản".
Như vậy, vấn đề cấp thiết hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo để đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội trong thời đại mới. Tháng 4/2006, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Đổi mới
tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung,
phương pháp đến cơ cấu hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo bước chuyển
biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ khu
vực và thế giới"; "ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học".
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã khẳng định: "Đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo"; khẳng định "Thực hiện đồng bộ các
giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra
theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi
trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức,
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý
thức trách nhiệm xã hội".
Môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông có vị trí rất quan trọng trong việc
đào tạo con người. Lịch sử không chỉ giáo dục cho học sinh tình cảm yêu ghét
trong đấu tranh giai cấp mà còn bồi dưỡng cho các em năng lực đối xử với
mọi người xung quanh, biết yêu quý cái đẹp, yêu lao động, sự căm thù quân
cướp nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khơi dậy ở học sinh sự thông
cảm sâu sắc và lòng kính yêu đối với quần chúng nhân dân.
Những kiến thức lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc từ cổ đến kim đều có tác
động không chỉ đến trí tuệ mà cả trái tim học sinh. Các con người thực, việc
thực trong quá khứ sẽ gợi dậy trong học sinh những tư tưởng tình cảm đúng
đắn, mà những tư tưởng tình cảm này là hành trang tối cần thiết cho thế hệ trẻ
trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới. Song, muốn phát huy tốt chức
năng, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử trong việc giáo dục học sinh, cần nâng cao

hiệu quả dạy học. Phương pháp dạy học tốt sẽ nâng cao hiệu quả bài học.
Xuất phát từ thực trạng việc học tập lịch sử hiện nay – đa phần các em
coi Lịch sử là môn phụ, học chống đối, không thích học Lịch sử, sợ sử, chán
sử… chúng ta cần phải có nhận thức mới về bộ môn, về bài học lịch sử. Mỗi
một bài học phải đem đến cho học sinh niềm say mê học tập, có mong muốn,
nhu cầu học tập. Nói cách khác, giáo dục lịch sử không đặt nặng trọng tâm vào
kiến thức, mà phải đặt trọng tâm vào khơi dậy đam mê của học sinh, kích thích
tò mò, hứng thú, sáng tạo để các em có thể tự tìm kiếm những gì không chỉ
trong phạm vi kiến thức ở nhà trường, mà cả kiến thức ngoài xã hội, để các em
thấy rằng, mỗi ngày đến trường, mỗi một bài học lịch sử đều có ích. Một giờ
học lịch sử mà khơi dậy được đam mê, khởi dậy hứng thú để các em chủ động
lĩnh hội kiến thức, giúp các em nhận ra những năng lực, trí tuệ của mình, qua
đó giáo dục tư tưởng, tình cảm cho các em – đó chính là một bài học hiệu quả.
Việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài liệu ngoài sách giáo khoa, đặc biệt
là các tư liệu "sống" khiến cho các giờ học lịch sử vốn bị coi là khô cứng và
giáo điều trở nên "mềm" hơn, dễ hiểu và gần gũi với học sinh. Giờ học lịch sử
sẽ được học sinh đón đợi hơn, học sinh cũng dễ nhớ, dễ thuộc kiến thức hơn.
Bảo tàng Phòng không – Không quân với hàng nghìn hiện vật được
trưng bày đã tái tạo lại những trang sử oai hùng của dân tộc ta trong cuộc
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Mỗi hiện vật, hình ảnh
trong hệ thống trưng bày là huyền thoại về những chiến công xuất sắc của bộ
đội Phòng không – Không quân qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, lập nên những kỳ tích anh hùng đánh thắng không quân nhà nghề của
một nước có nền khoa học kỹ thuật hiện đại nhất từ trước đến nay. Qua những
hình ảnh đó, học sinh như được tận mắt chứng kiến cuộc sống, chiến đấu của
quân dân ta, những tấm gương anh dũng hy sinh của các anh hùng … sẽ gợi
cho học sinh nhiều cảm xúc. Bài học vì thế có tác dụng, hiệu quả hơn nhiều
so với việc ngồi nghe thuyết trình trong lớp.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tế nêu trên, chúng tôi chọn đề
tài: "Sử dụng Bảo tàng Phòng không- Không quân trong dạy học lịch sử

Việt Nam (1954 – 1975) ở trường Trung học cơ sở tại Hà Nội" làm đề tài
luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sử dụng bảo tàng trong dạy học nói chung, trong dạy học lịch sử
nói riêng đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập tới.
2.1. Nguồn tài liệu nước ngoài
Tổ chức UNESCO đã tổ chức một số hội thảo và công bố nhiều tài liệu về
việc sử dung tài liệu về việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử và giáo dục
thế hệ trẻ. Đặc biệt là ở Liên Xô trước đây, việc nghiên cứu vấn để sử dụng bảo
tàng để dạy học lịch sử và và giáo dục học sinh đạt được nhiều thành tựu.
- T.A.Cudrinoi viết tác phẩm: "Bảo tàng và trường phổ thông"
(Matxcơva -NXB Giáo dục - 1985) đã nêu rõ lịch sử phát triển của ngành bảo
tàng nói chung, chức năng của bảo tàng Xô viết nói riêng và tính giai cấp của
chúng. Đặc biệt tác giả nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục của bảo tàng đối với học
sinh và nêu rõ một số phương pháp sử dụng bảo tàng trong dạy học.
- A.E.Xaynhenxki, trong quyển "Bảo tàng giáo dục thế hệ trẻ"
((Matxcơva -NXB Giáo dục - 1988) trình bày khái quát lịch sử phát triển của
bảo tàng chính trị - xã hội ở nhà trường Xô Viết, cách xây dựng bảo tàng phổ
thông và tổ chức hoạt động của chúng. tác giả nhấn mạnh đến phương pháp
sử dụng của bảo tàng trong giờ học nội khóa, ngoại khóa và vai trò của giáo
viên đối với việc sử dụng của bảo tàng.
2.2. Nguồn tài liệu trong nước
Ở nước ta, việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử vẫn là vấn đề
khá mới mẻ, chưa được nghiên cứu sâu sắc và có hệ thống.
Trong thập niên 90 thế kỉ trước, Sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội phối hợp
với Bảo tàng Cách mạng Việt Nam tổ chức cuộc thi giáo viên dạy giỏi tại
phòng trưng bày của bảo tàng. Sau đó sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội đã tổ
chức tổng kết, rút kinh nghiệm đánh giá hiệu quả của phương pháp dạy, học
này. Hầu hết các giáo viên lịch sử ở trường phổ thông đều đánh giá cao và
hoan nghênh phương pháp dạy học này.

Trong các giáo trình "Phương pháp dạy học lịch sử" và một số bài viết
đã đề cập đến việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, như xây
dựng, sử dụng phòng học bộ môn lịch sử ở trường phổ thông, sử dụng bảo
tàng, nhà truyền thống trong dạy học lịch sử
Cuốn “Bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông trung học” của tác giả Nguyễn Thị Côi, xuất bản năm 1998 đã trình bày
các vấn đề, như: Vai trò và ý nghĩa của bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy
học lịch sử ở trường phổ thông trung học; Nội dung các vật trưng bày của bảo
tàng lịch sử, cách mạng và khả năng sử dụng trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông trung học; Các hình thức, phương pháp sử dụng tư liệu bảo tàng
trong dạy học lịch sử. Tác giả khẳng định “Tư liệu ở bảo tàng là phương tiện
trực quan, quan trọng góp phần tạo biểu tượng lịch sử cụ thể, chân thực và
chính xác cho học sinh ”. [21; 12] Việc khai thác, sử dụng, tư liệu của bảo
tàng đảm bảo cho quá trình nhận thức của học sinh diễn ra hợp với quy luật
nhận thức và đảm bảo nguyên tắc trực quan trong dạy học lịch sử.
Trong cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” của Phan Ngọc
Liên và Trần Văn Trị chủ biên, xuất bản năm 2003, chương IX “Hoạt động
ngoại khóa trong dạy học lịch sử” [50] đã nêu lên tầm quan trọng của việc
khai thác và sử dụng tư liệu hiện vật của bảo tàng trong dạy học lịch sử.
Đặc biệt trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử”, tập II do Phan
Ngọc Liên, Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, xuất bản năm 2005, ở chương
XI “Cơ sở lý luận về bài học lịch sử ở trường phổ thông, phần III. Các loại
bài học ở trường phổ thông: thì bài học thực địa, trong nhà bảo tàng lịch sử
cách mạng “Là những bài học nội khóa, một mắt xích trong toàn bộ khóa
trình, có liên quan tới bài học lịch sử khác, việc học tập những bài học này là
bắt buộc đối với toàn bộ học sinh” [54; 81]. Trong chương XV: “Vị trí ý
nghĩa và các hình thức hoạt động ngoại khóa trong dạy học lịch sử ” các tác
giả cũng nêu rõ vai trò, vị trí của bảo tàng trong dạy học lịch sử: “ Tham quan
lịch sử có vị trí quan trọng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, những
dấu vết của quá khứ những vật trưng bày trong bảo tàng không chỉ cụ thể

hóa kiến thức mà còn để lại ấn tượng mạnh mẽ nâng cao kiến thức học tập và
còn rèn luyện khả năng quan sát, phân tích của học sinh ” [54; 235]
Trong cuốn “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch
sử ở trường phổ thông” do Nguyễn Thị Côi chủ biên xuất bản năm 2008,
trong chương III tăng cường các hoạt động hỗ trợ các bài học trên lớp đã
dành một phần lượng lớn nội dung viết về hình thức tổ chức học tập ở nhà
bảo tàng lịch sử: “Tham quan có vị trí quan trọng trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông, là một hình thức tổ chức học tập có ý nghĩa to lớn về các
mặt giáo dưỡng, giáo dục, phát triển học sinh” [22; 130]. Và “đối với học
sinh buổi tham quan học tập tại bảo tàng lịch sử không chỉ giúp các em ôn
tập củng cố kiến thức đã học mà còn chuẩn bị tiếp thu bài học mới cụ thể sâu
sắc hơn…” [22; 132].
Trong cuốn “Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở
trường phổ thông”, do Phan Ngọc Liên chủ biên, xuất bản năm 2008, có
nhiều bài viết đề cập đến khai thác sử dụng tư liệu hiện vật của bảo tàng trong
dạy học lịch sử phổ thông như bài Chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ
thông - lý luận, thực trạng và giải pháp của tác giả Nguyễn Thị Côi, có viết
“Tổ chức tham quan ở nhà bảo tàng lịch sử là một hình thức dạy học lịch sử”
[59; 380]. Trong bài viết “Một số vấn đề đổi mới dạy học lịch sử ở trường
phổ thông” của tác giả Phan Ngọc Liên, đã nêu những yêu cầu của việc đổi
mới phương pháp dạy học lịch sử, và yêu cầu thứ 4 là “đa dạng hóa các hình
thức tổ chức dạy học lịch sử và những hình thức cơ bản” là “học ở lớp, ở
phòng bộ môn, ở bảo tàng…” [59; 310]
Trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Đổi mới nghiên cứu và giảng dạy lịch
sử” của Hội khoa học lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2008
[39], có một số bài viết, như bài “Đổi mới bảo tàng trong xu thế hội nhập và
phát triển” của Nguyễn Đình Thanh và Phạm Lan Hương, bài “Bảo tàng lịch
sử Việt Nam - TP Hồ Chí Minh và học sinh phổ thông”, “Một số kinh nghiệm
thu hút thanh thiếu niên đến học tập lịch sử tại bảo tàng” của Huỳnh Ngọc
Vân; “Góp phần việc dạy và học môn lịch sử qua kênh Bảo tàng” của tiến sĩ

Trịnh Thị Hà, bài “Tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan - một biện pháp
hữu hiệu để góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ
thông” của Nguyễn Văn Sơn… đã đề cập đến tầm quan trọng, ý nghĩa của
việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử, và một số hình thức, phương
pháp sử dụng có thể tham khảo.
Trong bài viết “Khai thác hệ thống bảo tàng trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông” của Trần Văn Giáp có đề cập có nhiều biện pháp sư phạm
để tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, trong đó sử dụng các nguồn tài liệu
hiện vật có ưu thế hơn cả. Nguồn tài liệu hiện vật này rất phong phú và đa
dạng ở các bảo tàng trung ương và địa phương. Nó có vai trò ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Việc khai thác và sử dụng tư liệu Bảo tàng trong dạy học lịch sử còn
được nghiên cứu trong các luận văn, luận án và khóa luận tốt nghiệp của sinh
viên, học viên sư phạm như:
Trong thời gian gần đây, một số sinh viên khoa lịch sử trường Đại học
Sư phạm Hà Nội đã làm khóa luận tốt nghiệp về vấn đề này. Năm học 1996 -
1997, sinh viên Nguyễn Thị Châm thực hiện đề tài: "Khai thác, sử dụng
những của bảo tàng Quân đội để dạy, học chương trình lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1946 - 1975 trong sách giáo khoa lớp 12 THPT (không chuyên
ban)". Khóa luận này đã đề cập đến những vấn đề lí luận cơ bản của việc sử
dụng tài liệu, hiện vật ở bảo tàng nói chung, bảo tàng lịch sử Quân sự nói
riêng trong dạy học lịch sử. Tác giả bước đầu đã tìm hiểu nội dung của Bảo
tàng Quân đội và nêu một số hình thức khai thác các tài liệu, hiện vật của bảo
tàng.
Năm học 1995 - 1996, viện Bảo tàng Cách mạng Việt nam kết hợp với
một số giáo viên ở hai trường THPT Kim Liên và Minh Khai (Hà Nội) nghiên
cứu đề tài cấp viện: "Bảo tàng Cách mạng Việt Nam với việc dạy học lịch
sử ở trường THPT Kim Liên và Minh Khai" nhằm các mục tiêu sau:
+ Nội dung sách giáo khoa lịch sử THPT (phần lịch sử việt nam) có
quan hệ thế nào với các tài liệu, hiện vật trưng bày trong Bảo tàng Cách

mạng Việt Nam .
+ Việc dạy, học lịch sử tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam có tác dụng
như thế nào trong giáo dục lòng yêu nước cho học sinh.
Năm 1996, Nguyễn Văn Phong trong luận văn sau đại học chuyên ngành
Phương pháp dạy học Lịch sử với đề tài: "Bảo tàng lịch sử, cách mạng đối với
việc dạy học lịch sử (dân tộc và địa phương) ở trường phổ thông trung học"
đã có những đóng góp bước đầu về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng
bảo tàng lịch sử, cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Luận văn
đã đưa ra một số hình thức và yêu cầu khi sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch
sử ở trường phổ thông. Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu và đề cập có hệ
thống về mối quan hệ giữa bảo tàng với bộ môn lịch sử ở trường phổ thông.
Năm 1997, Trần Thị Nhị - cán bộ của bảo tàng Cách mạng Việt Nam,
trong luận văn sau đại học chuyên ngành Văn hóa học với đề tài: "Bảo tàng
cách mạng Việt Nam với việc dạy học lịc sử ở trường Trung học phổ thông"
đã tiếp tục đóng góp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bảo
tàng Cách mạng Việt Nam trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Tác giả
cũng đưa ra một số yêu cầu và một số hình thức sử dung bảo tàng Cách mạng
Việt Nam trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, khẳng định mối quan hệ
mật thiết giữa bảo tàng với bộ m,ôn lịch sử ở trường phổ thông.
Tuy nhiên hai luận văn sau đại học trên, các tác giả đều chưa tiến hành thực
nghiệm sư phạm, chưa quan tâm tói đối tượng học sinh trung học cơ sở, qua đó
chưa khẳng định được vững chắc về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài.
Tác giả đưa ra những yêu cầu có tính lý luận đối với việc khai thác và sử
dụng tài liệu, hiện vật của bảo tàng khi tiền hành một số hình thức để dạy học
lịch sử. Đây là công trình đặt nền móng vững chắc về lý luận và thực tiễn cho
việc nghiên cứu sâu sắc và có hệ thống mối quan hệ giữa bảo tàng với dạy
học lịch sử ở trường phổ thông, cách khai thác, sử dụng, cũng như các yêu
cầu khi tiến hành khai thác bảo tàng trong dạy học lịch sử.
Tháng 11/2003 trong hội thảo khoa học, thực tiễn "Bảo tàng góp phần
hoàn thiện nhân cách con người", một lần nữa các nhà giáo dục lịch sử và

các nhà bảo tàng học tiếp tục khẳng định vai trò, mối quan hệ của bảo tàng
với việc giáo dục thế hệ trẻ, trong đó dặc biệt chú trọng đến đối tượng học
sinh phổ thông. Tuy nhiên trong khuôn khổ hội thảo các nhà nghiên cứu
không đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn việc sử dụng và khai thác bảo
tàng trong dạy học lịch sử mà chỉ dừng ở việc khẳng định vai trò, vị thế của
bảo tàng trong giáo dục nói chung và trong dạy học lịch sử nói riêng.
Trên đây là một số công tình nghiên cứ, luận văn đã nghiên cứ về vấn đề
sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói chung; tác
giả cần kế thừa các lý luận trên xong phải áp dụng một cách sáng tạo, phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh các trường THCS tại Hà Nội để đạt kết quả cao nhất.
Trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành trong nước, như Tạp chí Giáo
dục, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Tạp chí khoa học trường ĐHSP Hà Nội
đăng tải một số bài nghiên cứu như: "DTLS và việc tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS ” [74]; "Sử dụng DTLS - CM trong dạy học lịch sử tại thực
địa” [74]; "Tổ chức hướng dẫn cho HSPT tham gia lễ hội xuân tại DTLS”
[75] đã khái quát một số vấn đề lý luận về sử dụng DTLS - VH, bảo tàng
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Như vậy, có thể nói rằng, trong lý luận dạy học lịch sử thì vấn đề khai
thác và sử dụng tài liệu hiện vật của bảo tàng trong dạy học lịch sử ngày càng
trở thành hình thức dạy học cơ bản của bộ môn.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về lý luận dạy học và lý luận dạy học
bộ môn nêu trên đã nêu lên những cơ sở khoa học cho việc đổi mới PPDH
lịch sử nói chung, cho việc xác định những nguyên tắc, phương pháp, hình
thức tổ chức cho HS học tập tại bảo tàng nói riêng.
Các công trình trên đã khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa của việc sử
dụng bảo tàng nói chung, Bảo tàng Phòng không – Không quân nói riêng
trong dạy học lịch sử và một số hình thức phương pháp sử dụng có thể tham
khảo nhưng mới ở việc sử dụng Bảo tàng trung ương mà chưa có một đề tài
nào nhắc đến cụ thể việc sử dụng bảo tàng Phòng không – Không quân trong
dạy học lịch sử nói chung, trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trung học cơ sở

nói riêng. Mặc dù vậy, đây là những tác phẩm giúp ích cho chúng tôi rất nhiều
về mặt lý luận cũng như định hướng phương pháp khi nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện
pháp sử dụng ở Bảo tàng Phòng không - Không quân trong dạy học phần lịch
sử Việt Nam (1954 - 1975) ở trường THCS tại Hà Nội nhằm nâng cao hứng
thú học Lịch sử cho học sinh, qua đó nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.
3.2. Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu lý luận về phương pháp dạy - học, phương pháp dạy - học
lịch sử nói chung và sử dụng Bảo tàng Phòng không – Không quân trong dạy
học lịch sử ở trường THCS nói riêng.
+ Khảo sát thực trạng giảng dạy bộ môn lịch sử ở các trường THCS tại
Hà Nội và thực tiễn việc sử dụng Bảo tàng Phòng không – Không quân trong
dạy học lịch sử ở trường THCS.
+ Xác định nội dung bảo tàng cần khai thác và các hình thức sử dụng
trong dạy học lịch sử ỏ trường THCS tại Hà Nội.
+ Đề xuất biện pháp sử dụng Bảo tàng Phòng không - Không quân trong
dạy học phần lịch sử Việt Nam (1954 - 1975) ở trường THCS tại Hà Nội.
+ Tiến hành việc thực nghiệm sư phạm giảng dạy phần lịch sử Việt Nam
(1954 - 1975) sử dụng Bảo tàng Phòng không - Không quân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp sử dụng Bảo tàng Phòng
không - Không quân trong quá trình dạy học lịch sử Việt Nam (1954 - 1975)
ở trường THCS tại Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: ở các trường THCS tại thành phố Hà Nội.
- Về nội dung: là các bài lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975
lớp 9
- Về hình thức tổ chức dạy học: các loại bài nội khóa và ngoại khóa,
trọng tâm là các bài nội khóa.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài:
5.1. Cơ sở phương pháp luận: Là cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác giáo dục nói chung, giáo dục lịch sử ở nhà trường THCS nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng các phương pháp
nghiên cứu bộ môn:
+ Nghiên cứu các tài liệu tâm lí học, giáo dục học, các tài liệu giáo dục
lịch sử, tài liệu lịch sử văn hóa, khảo cổ học có liên quan đến đề tài.
+ Điều tra cơ bản: Tiến hành quan sát, điều tra bằng phiếu đối với giáo
viên lịch sử và học sinh lớp 9 một số trường THCS trên địa bàn tại Hà Nội.
+ Nghiên cứu kĩ chương trình lớp 9 phần lịch sử Việt Nam để lựa chọn
các bài có nội dung trong giai đoạn 1954-1975 để sử dụng trong quá trình tổ
chức dạy học.
+ Soạn một số bài lịch sử trong chương trình nội khóa, ngoại khóa, tiến
hành thực nghiệm sư phạm để rút ra những kết luận về việc sử dụng Bảo tàng
Phòng không- Không quân trong quá trình dạy học lịch sử ở trường THCS
trên địa bàn Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn :
Việc giảng dạy lịch sử ở các trường THCS tại Hà Nộivẫn còn những vấn
đề hạn chế, trong đó có nguyên nhân từ việc chưa thực sự đổi mới phương
pháp dạy - học của giáo viên; Vì vậy nếu nghiên cứu một cách hợp lý, khoa
học và sử dụng linh hoạt, sáng tạo nguồn sử liệu ( Bảo tàng Phòng không -
Không quân) thì học sinh sẽ hứng thú hơn với bộ môn Lịch sử, chất lượng
dạy - học môn Lịch sử sẽ được nâng cao. Kết quả nghiên cứu đề tài có thể vận
dụng trong DHLS ở các trường THCS tại Hà Nội.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Vấn đề sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông – lý luận và thực tiễn.

Chương 2: Nội dung và hình thức sử dụng Bảo tàng Phòng không -
Không quân trong dạy học lịch sử ở trường THCS tại Hà Nội.
Chương 3: Các biện pháp sử dụng Bảo tàng Phòng không - Không quân
trong bài học nội khóa ở trên lớp khi dạy học phần lịch sử Việt Nam (1954 -
1975) THCS tại Hà Nội. Thực nghiệm sư phạm.
Chương 1
VẤN ĐỀ SỬ DỤNG BẢO TÀNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về bảo tàng trong dạy học lịch sử.
Thuật ngữ “Bảo tàng” xuất hiện từ rất sớm, nó bắt đầu từ ngôn ngữ cổ
Hy Lạp “Museion”. Trải qua các hoạt động tôn giáo và các cuộc chiến tranh
xâm lược, bảo tàng đã ra đời, sự xuất hiện của các bộ sưu tập. Sau này thuật
ngữ “Bảo tàng” được cải tiến đi nhưng ở tất cả các nước đều có từ “Muse”.
Còn tiếng Trung Quốc và Nhật Bản họ dùng thuật ngữ “Bảo vật quán” thay
cho “Bảo tàng”. Dưới thời Alêchxăngđri của đế quốc Rôma cổ đại trong quá
trình tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược và các hoạt động tôn giáo sang
nước lân họ đã cướp bóc, thu thập những bảo vật quý, hiếm, các tác phẩm
nghệ thuật có giá trị đem về trưng bày ở nước mình, coi đó là nơi lưu giữ lại
những chiến tích, những công trình mà họ đã làm được mà gọi đó là “Bảo
tàng”.
Sau này bảo tàng phát triển và được nâng lên thành một ngành khoa học
ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Các nhà giáo dục tiên tiến ở các nước đã đi
sâu tìm hiểu về bảo tàng, trong đó đặc biệt quan tâm đến sử dụng bảo tàng
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Xung quanh thuật ngữ về bảo tàng có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
- Theo wikipedia.org: “bảo tàng” (viện bảo tàng, nhà bảo tàng) là
nơi trưng bày và lưu giữ tài liệu, hiện vật cổ liên quan đến một hoặc nhiều
lĩnh vực như lịch sử, văn hóa của một dân tộc hay một giai đoạn lịch sử nào
đó. Mục đích của viện bảo tàng là giáo dục, học tập, nghiên cứu và thỏa mãn

trí tò mò tìm hiểu về quá khứ
- Tổ chức ICOM (Hội đồng bảo tàng quốc tế) vào năm 1996 đưa ra khái
niệm: “Bảo tàng là thiết chế tồn tại lâu dài, không vụ lợi nhằm phục vụ cho
xã hội và sự phát triển của xã hội, mở cửa phục vụ công chúng và tiến hành
nghiên cứu liên quan đến di sản của con người và môi trường xung quanh”.
- Ở các nước Đông Âu: Bảo tàng là cơ quan nghiên cứu, giáo dục, tiến
hành nghiên cứu sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày những tài liệu hiện
vật gốc tiêu biểu của lịch sử, tự nhiên và xã hội, phù hợp với nội dung và loại
hình bảo tàng. Bảo tàng dành để phục vụ cho công chúng vì mục đích nghiên
cứu và sưu tầm.
Trong luật Di sản văn hóa ở nước ta, ban hành năm 2002, ghi rõ: “Bảo
tàng là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử, tự nhiên, xã hội
nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn
hóa của nhân dân” [Luật di sản văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành;tr.
42]
Trong bách khoa toàn thư: “Bảo tàng là nơi trưng bày và lưu giữ tài liệu,
hiện vật cổ liên quan đến một hoặc nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn hóa của
một dân tộc hay một giai đoạn lịch sử nào đó. Mục đích của bảo tàng là giáo
dục, học tập, nghiên cứu và thõa mãn trí tò mò tìm hiểu về quá khứ”. [Hội
đồng Quốc gia (2002), Từ điển bách khoa toàn thư, Nxb Từ điển Bách
khoa.;tr. 151]
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu: “Bảo tàng là cơ quan sưu
tầm, giám định và trưng bày các tài liệu, hiện vật có tính chất nguyên gốc, đầu
tiên của tri thức về lịch sử phát triển của xã hội và tự nhiên, về lịch sử của
cuộc đấu tranh cách mạng.” [Nguyễn Thị Côi (1998), Bảo tàng lịch sử, cách
mạng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông trung học, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.tr.8]
Ở nước ta, dưới thời Pháp thuộc đã xây dựng một số bảo tàng lớn như:
Luiphirô (Hà Nội), bảo tàng Hải dương học (Nha Trang), bảo tàng Chăm
(trưng bày các hiện vật về văn hóa Chăm ở Đà Nẵng).

Sau giải phóng miền Bắc, chúng ta đã xây dựng nhiều bảo tàng quốc gia
và các bảo tàng địa phương, bảo tàng chuyên ngành như: Bảo tàng cách mạng
(1958), Bảo tàng Quân đội nhân dân Việt Nam (1959), Bảo tàng Hồ Chí
Minh (1990)
Mỗi bảo tàng có một chủ đề khác nhau song nhìn chung đều phản ánh
mỗi chặng đường phát triển của dân tộc hay truyền thống một ngành nào đó.
Bảo tàng thể hiện bức tranh sinh động, chân thực về cuộc sống lao động, sự
hy sinh chiến đấu của các thế hệ cha ông trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước mà thế hệ trẻ hôm nay không thể nào chứng kiến các hoạt động đó. Các
em sẽ không thể hình dung một cách rõ nét có hệ thống quá khứ nếu không
được trực tiếp đến, thăm quan Bảo tàng
Bảo tàng là nơi sưu tầm, gìn giữ, trưng bày hiện vật theo luật pháp mà
Nhà nước quy định. Nhiệm vụ của bảo tàng là sưu tầm, trưng bày và tổ chức
hướng dẫn thăm quan tư liệu được trình bày.
Bảo tàng học là một môn khoa học riêng thuộc khoa học Lịch sử, có mối
quan hệ khăng khít với nghiên cứu và học tập lịch sử. Sử học và bảo tàng có
cùng đối tượng nghiên cứu, đó là những hiện vật, những tài liệu chữ viết, các
tác phẩm nghệ thuật tạo hình, phim ảnh gốc phản ánh quá khứ. Song lại khác
nhau ở nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu. Bản thân bảo tàng là một bài
học lịch sử sinh động, sâu sắc. Việc sử dụng bảo tàng trong dạy học lịch sử sẽ
làm chất lượng bài học phong phú, sinh động hơn.
Sử học khác bảo tàng ở chỗ không giữ gìn những hiện vật mà chỉ nghiên
cứu, khai thác những hiện vật được trưng bày ở bảo tàng, miêu tả đúng quá
khứ rồi rút ra quy luật vận động của lịch sử. Ngược lại, kết quả nghiên cứu
của sử học làm phong phú và phục vụ tốt cho bảo tàng.
Bảo tàng là cơ quan nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học của Nhà
nước. Nó có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày
nhằm phát huy tác dụng của những di tích lịch sử.
Các nhà bảo tàng học cho rằng: Bảo tàng có hai chức năng cơ bản: chức
năng nghiên cứu khoa học và chức năng giáo dục. Hai chức năng này có mối

quan hệ biện chứng, thực hiện tốt cả hai chức năng trên thì Bảo tàng mới đáp
ứng được nhiệm vụ do xã hội đặt ra.
Thứ nhất, chức năng nghiên cứu khoa học: mọi hoạt động trong công tác
nghiên cứu khoa học của Bảo tàng đều phải xoay quanh các hiện vật gốc phù
hợp với loại hình của bảo tàng. Đó là trọng tâm, là cơ sở của mọi công tác
nghiên cứu khoa học của bảo tàng. Hay nói cách khác, chức năng này được
biểu hiện ở hai hoạt động sau:
+ Những hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm không ngừng bổ sung
cho khâu bảo quản cơ sở của Bảo tàng, di tích có giá trị tiêu biểu về các mặt
lịch sử, khoa học, thẩm mỹ.
+ Những hoạt động có liên quan tới việc chỉnh lý, hệ thống hóa và bảo
quản một cách khoa học các di tích của Bảo tàng nhằm biến các di tích đó
thành nguồn tư liệu đáng tin cậy phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học
của các ngành khác. Đồng thời nâng cao trình độ văn hóa của đông đảo quần
chúng nhân dân.
Thứ hai, chức năng giáo dục của Bảo tàng: các tư liệu, hiện vật trong bảo
tàng được sắp xếp, trưng bày có hệ thống để khách tham quan trong và ngoài
nước hiểu, hình dung được tiến trình lịch sử Việt Nam, song khác với công
tác giáo dục của các cơ quan, các phương tiện thông tin đại chúng ở chỗ công
tác này phải dựa trên cơ sở nghiên cứu của các hiện vật gốc. Bởi vì, thông qua
các tư liệu và hiện vật gốc được trưng bày ở bảo tàng nhằm gợi dậy những tư
tưởng, tình cảm tốt đẹp cho người xem chứ không phải thông qua sách vở.
Bảo tàng thực hiện chức năng giáo dục khoa học của mình bằng cách tuyên
truyền, phổ biến kiến thức và thông qua các hoạt động của mình, Bảo tàng
giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần phải “đánh thức”
các tài liệu, hiện vật để chúng có tác dụng giáo dục tới học sinh.
Với chức năng như trên, Bảo tàng có các nhiệm vụ:
+ Tiến hành công tác nghiên cứu khoa học
+ Tiến hành thu thập các tài liệu, hiện vật gốc phù hợp với các loại hình
Bảo tàng.

+ Công tác kiểm kê giám định một cách có khoa học các hiện vật của
Bảo tàng.
+ Công tác bảo quản hiện vật của Bảo tàng.
+ Công tác trưng bày của bảo tàng
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục và là tài liệu quan trọng, cần thiết
phục vụ cho các bài học lịch sử.
1.1.2. Các loại bảo tàng
Tùy theo nội dung, chức năng mà bảo tàng được phân ra thành các loại
như sau:
Theo GS.TS Nguyễn Thị Côi trong “Bảo tàng Lịch sử, cách mạng trong
dạy học lịch sử ở trường phổ thông” đã phân ra thành 6 loại Bảo tàng:
Một là, các bảo tàng lịch sử, như: Bảo tàng lịch sử, Bảo tàng Cách
mạng, Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Hồ Chí Minh Các loại bảo tàng này
chiếm vị trí rất quan trọng trong toàn bộ hệ thống bảo tàng Việt Nam. Những
hiện vật được trưng bày trong các bảo tàng này phản ánh về đời sống văn hóa
vật chất, tinh thần của con người Việt Nam từ khi hình thành đến nay.
Hai là, các bảo tàng nghệ thuật nhằm sưu tầm , bảo quản, nghiên cứu
những tác phẩm nghệ thuật của nhiều thời đại khác nhau vào mục đích khoa
học và giáo dục thẩm mĩ cho quần chúng.
Ba là, các bảo tàng chuyên ngành như: Bảo tàng phụ nữ, Bảo tàng
Không quân, Bảo tàng Văn học những bảo tàng này chiếm một số lượng
nhất định trong toàn bộ hệ thống bảo tàng. Nhiệm vụ của chúng là sưu tầm,
bảo quản, nghiên cứu các hiện vật gốc của một ngành khoa học nhất định để
nói lên sự phát triển, phục vụ cho công tác khoa học của chính bản thân
ngành đó và quần chúng nhân dân.
Bốn là, Bảo tàng lịch sử tự nhiên gồm các bảo tàng cùng loại hình với
các ngành khoa học. Đối tượng nghiên cứu là các mặt khác nhau của thế giới
tự nhiên, như Bảo tàng động vật học, Bảo tàng thực vật học, Bảo tàng hải
dương học
Năm là, các bảo tàng lưu niệm nhằm lưu giữ lại trong quần chúng nhân

dân những sự kiện, những nhân vật lịch sử lớn, quan trọng trên mọi mặt của
đời sống xã hội, chính trị, quân sự, văn học, nghệ thuật Loại bảo tàng này
giới thiệu một cách hệ thống diễn biến những sự kiện, hoạt động của các nhân
vật lịch sử. Ví như, bảo tàng ở di tích lịch sử số 5 Hàm Long, 48 Hàng Ngang
(Hà Nội), di tích Kim Liên (Nghệ An), Pác Bó (Cao Bằng), Tân Trào (Tuyên
Quang)
Sáu là, các bảo tàng ở địa phương: cũng là cơ quan thực hiện chức năng
nghiên cứu khoa học và giáo dục ở mức độ nhất định, chủ yếu là sưu tầm, bảo
quản, nghiên cứu và trưng bày những tài liệu, hiện vật về văn hóa vật chất,
tinh thần cũng như tự nhiên của địa phương đó. Hiện nay, các loại bảo tàng
này và các nhà lưu niệm, truyền thống của địa phương đang phát triển rất
mạnh mẽ ở các địa phương trong nước. [ tr.10-11]
Những bảo tàng, nhà lưu niệm địa phương có vai trò quan trọng trong
việc giáo dục truyền thống của địa phương, của dân tộc cho đông đảo quần
chúng nhân dân.
1.1.3. Mối quan hệ giữa bảo tàng với kiến thức lịch sử.
Bảo tàng với mục đích sưu tầm, lưu giữ bảo vệ các di sản văn hóa, lịch
sử, tự nhiên và thông qua các hoạt động phong phú của mình như trưng bày,
giới thiệu, giáo dục và xuất bản sách báo. Bảo tàng còn được xem như là một
thiết chế văn hóa đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân.
Bảo tàng có mối quan hệ mật thiết với lịch sử.
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay, việc tăng cường cho
học sinh tiếp xúc “làm việc” với các tài liệu lịch sử ngoài sách giáo khoa, nhất
là tài liệu hiện vật ở bảo tàng có ý nghĩa nhiều mặt. Bảo tàng là nơi lưu giữ và
trưng bày các bằng chứng “vật thật” về các sự kiện lịch sử, và chính các bằng
chứng này sẽ giúp học sinh dễ học, dễ nhớ hơn. Những tư liệu, hiện vật của
bảo tàng nói chung, của Bảo tàng Phòng không – Không quân nói riêng vừa là
nguồn sử liệu quan trọng, vừa là phương tiện dạy học có hiệu quả, góp phần
tạo cho học sinh những biểu tượng lịch sử cụ thể, chân thực, chính xác.
Với việc bảo quản tài liệu hiện vật lịch sử, bảo tàng đã góp phần giáo

dục truyền thống dân tộc và đạo đức cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên như là
một phương tiện truyền thông hiệu quả nhất.
Nhìn chung các tư liệu, hiện vật, tranh ảnh được lưu giữ trong các bảo
tàng lịch sử hiện nay là minh chứng cho sự tồn tại của lịch sử quá khứ. Vì
vậy, nó có ý nghĩa là giúp cho học sinh tìm hiểu, nghiên cứu về các thời kỳ
lịch sử đã qua. Qua đó các em có thể nhìn nhận quá khứ một cách chính xác
hơn. Đồng thời bảo tàng còn góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ lòng kính
trọng, khâm phục đối với cha ông đã làm nên những di sản văn hoá quý báu.
Từ đó phát triển thành lòng tự hào dân tộc, giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ
trẻ. Bởi vì, khi các em trực tiếp quan sát các tư liệu, hiện vật, tranh ảnh ở các
bảo tàng thì các em sẽ có cảm tưởng như mình đang được quan sát hiện thực
quá khứ của đất nước mình, đang được sống lại với các giai đoạn lịch sử, sự
kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Đặc biệt khi quan sát các tư liệu ở bảo
tàng, còn nảy sinh tình yêu thiên nhiên, niềm tự hào về truyền thống cách
mạng của quê hương, tổ quốc ở các em.
Bảo tàng còn giúp cho học sinh sự hiểu biết về hoàn cảnh tự nhiên, khả
năng kinh tế, truyền thống đấu tranh anh dũng, lao động cần cù của nhân nhân
địa phương, những đóng góp của quê hương mình đối với lịch sử dân tộc nhất
là đối với giai đoạn lịch sử năm 1972 khi nhân dân thủ đô làm nên trận “Điện
Biên Phủ trên không” – chiến thắng vang dội, là một trong những tác động
mạnh đến việc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán kí Hiệp định Pari năm 1973.
Mặt khác, việc sử dụng tư liệu của bảo tàng còn giúp cho học sinh “trực
quan sinh động” quá khứ lịch sử dân tộc, làm cho quá khứ xích lại gần với
nhận thức của học sinh, biến những kiến thức trên sách vở thành những hiểu
biết cụ thể, sâu sắc về cuộc sống hiện thực. Sử dụng nguồn tư liệu của bảo
tàng trong dạy học lịch sử còn giúp học sinh hiểu một cách tự nhiên, sinh
động quá khứ lịch sử, khắc sâu kiến thức cơ bản bài học, giúp các em nhớ lâu
kiến thức, nâng cao hiểu biết lịch sử.
Trong đời sống xã hội, việc giáo dục thế hệ trẻ thông qua giáo dục lịch
sử không chỉ có tác dụng về trí lực mà cả về tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ. So

với các bộ môn khác, môn lịch sử có ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng đạo
đức cho HS. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế thị trường với những mặt
tích cực đã đem lại kết quả khả quan trong bước đường đổi mới toàn diện của
đất nước. Tuy nhiên, do tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường nên
phải tăng cường hơn nữa việc giáo dục tư tưởng đạo đức, hình thành nhân
cách và bồi dưỡng niềm tin cho các em trong dạy học lịch sử. Tư liệu ở bảo
tàng còn là một trong những nguồn tài liệu quan trọng làm phong phú nguồn
tri thức của học sinh về quê hương mình, giáo dục cho các em lòng yêu quê
hương, hình thành những khái niệm nghĩa vụ đối với quê hương. Điều đó có
tác động to lớn đến tư tưởng, tình cảm của HS, nuôi dưỡng lòng tự hào, biết
ơn và yêu quý hơn nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đây cũng là cội nguồn của
lòng yêu nước. Từ đó, giúp các em hình thành thái độ đúng đắn và xác định
nghĩa vụ của mình đối với quê hương cũng như đất nước. Sử dụng tư liệu bảo
tàng trong dạy học lịch sử góp phần giáo dục cho các em lòng kính yêu quần
chúng nhân dân, những người sáng tạo ra lịch sử, là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội.
Bảo tàng còn có ý nghĩa giáo dục truyền thống, truyền bá văn hoá Việt
Nam, gợi lên những vấn đề về bảo vệ và phát huy di sản văn hoá dân tộc. Bởi
vì khi tham quan học tập tại bảo tàng sẽ để lại những dấu ấn tốt đẹp và khơi
dậy lòng tự hào dân tộc. Bảo tàng còn giáo dục cho thế hệ trẻ Việt Nam lòng
yêu nước, yêu truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, nhất là truyền thống
chống xâm lược và bảo vệ đất nước của ông cha ta. Làm cho thế hệ trẻ hiểu rõ
những mất mát, đau thương về tinh thần lẫn vật chất mà nhân dân ta đã phải
chịu đựng bởi chiến tranh, từ đó càng nhận thức đúng đắn về vai trò, trách
nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, bảo tàng có ý nghĩa nhiều mặt đối với cuộc sống của con
người: truyền bá kiến thức khoa học, tìm hiểu lịch sử, giáo dục truyền thống,
tham quan du lịch Ngày nay, đời sống kinh tế phát triển, trình độ khoa học
kỹ thuật của nhân loại ngày càng được nâng cao, hiện đại thì càng nên chú ý
khai thác và sử dụng bảo tàng trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói

riêng để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
1.1.4. Cơ sở xuất phát của vấn đề nghiên cứu
1.1.4.1.Đặc điểm tâm lý và nhận thức của HS THCS
Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 - 15 tuổi, các em
được vào học ở trường trung học cơ sở (từ lớp 6 - 9). Lứa tuổi này có một vị
trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, vì nó là thời
kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng
những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ“, “tuổi khó bảo“, “tuổi khủng
hoảng “, “tuổi bất trị” Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh
thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển
cao hơn(người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong
mọi mặt phát triển : thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức… của thời kỳ này.
Giới hạn đề tài luận văn là nghiên cứu và sử dụng tài liệu hiện vật ở bảo
tàng Phòng không – Không quân trong dạy học LSVN (1954 – 1975) ở
trường THCS. Ở giai đoạn này, HS chủ yếu đang trong độ tuổi thiếu niên, nội
dung và tính chất học tập yêu cầu có khác nhiều so với lứa tuổi thanh niên.
“Học sinh THCS có khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp hơn khi tri giác
các sự vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế
hoạch, có trình tự và hoàn thịên hơn… Ở lứa tuổi này tính lựa chọn của chú ý
phụ thuộc rất nhiều vào tính chất của đối tượng học tập và mức độ hứng thú
của các em với đối tượng đó” [Lê Văn Hồng (chủ biên), PTS Lê Ngọc Lan,
Lê Văn Thăng (1995), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.; tr.23]. Như vậy ở bậc THCS tư duy của các em chủ yếu là gắn
liền với nhận thức cảm tính, cụ thể. “Tất cả các em đều ý thức được tầm quan
trọng và sự cần thiết của học tập” [Lê Văn Hồng (chủ biên), PTS Lê Ngọc
Lan, Lê Văn Thăng (1995), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội. Tr. 25]. Và những thao tác của tư duy như tích cực, độc lập
ngày càng bộc lộ rõ nét, học sinh đã có thể chủ động lĩnh hội kiến thức.
Học sinh THCS là lứa tuổi hiếu động, tò mò, ham hiểu biết những tri
thức mới nhưng cũng dễ nhàm chán trước việc giáo viên trình bày sự kiện

theo cách thông báo khô khan những vấn đề lý thuyết nặng nề, những kết luận
chung chung, không có những thông tin mới, thiếu hấp dẫn. Các nhà tâm lý
đã khẳng định hứng thú là động lực thúc đẩy sự say sưa, tò mò, tích cực tìm
hiểu tri thức mới của học sinh, sự hứng thú sẽ tạo ra “thái độ tích cực đối với
học tập, là điều kiện rất cần thiết để lĩnh hội tài liệu đạt kết quả cao ” [VA.
Cruchetxki (1988), Những cơ sở của tâm lý học sư phạm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.;tr. 76]. Trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, để bài học
thành công, mang lại hiệu quả cao thì giáo viên phải tạo ra và duy trì niềm
hưng phấn, sự hứng thú của học sinh. Sử dụng các tài liệu hiện vật ở bảo tàng
là một biện pháp cho sự thành công của bài học lịch sử. Cùng với sự phát
triển về trình độ so với học sinh đầu cấp THCS (lớp 6) năng lực tư duy lịch sử
ở những học sinh cuối cấp (lớp 9) sẽ được nâng cao hơn khi tiếp xúc với tư
liệu, hiện vật ở bảo tàng.
Về quá trình nhận thức: quá trình nhận thức của HS trong học tập nói
riêng cũng như quá trình nhận thức của loài người nói chung bao giờ cũng đi
từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lí tính, từ cụ thể, trực tiếp đến khái quát,
từ đơn giản đến phức tạp. Những hình ảnh này đều thông qua quá trình cảm
giác, tri giác của con người phản ánh vào sự nhận thức tư duy. Bởi vì “cảm
giác là viên gạch xây nên toàn bộ lâu đài nhận thức” và tất cả hiểu biết đều
bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ cảm giác, tri giác”[Bút ký triết học ,tr.95]. Nói
cách khác, quá trình nhận thức của HS THCS cũng là một quy luật và quy
luật này được phản ánh trong công thức nổi tiếng của Lê nin: “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách
quan” [nt ,tr.189]
Nhưng khác với quá trinh nhận thức của loài người, quá trình nhận thức
của HS trong học tập là một quá trình nhận thức mang tính đặc thù. Nhận
thức của HS là nhận thức lại những vấn đề mà các nhà khoa học đã nghiên
cứu, xác minh nhưng các em chưa biết và quá trình nhận thức này đặt dưới sự
hướng dẫn, điều khiển của GV. Đó là quá trình nhận thức đi từ nhận thức cảm

tính đến nhận thức lý tính. Trước hết, các sự vật, hiện tượng của thế giới
khách quan phản ánh trực tiếp vào não HS thông qua các giác quan. Trong
giai đoạn cảm tính này, HS phản ánh một cách trực tiếp và riêng lẻ từng
thuộc tính các sự vật, hiện tượng. Từ đó tạo nên trong óc các em những biểu
tượng về đối tượng đã được tri giác trước đó, hình thành khái niệm và rút ra
bài học (nếu có). Nói cách khác, nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý
tính.
Thực tiễn đã cho thấy, tài liệu cảm tính càng đa dạng, phong phú bao
nhiêu thì càng tạo cơ sở thuận lợi bấy nhiêu cho việc nhận thức lý tính. Nhận
thức lý tính là giai đoạn tiếp theo của nhận thức cảm tính giúp các em nhận
biết và giải quyết các vấn đề phức tạp mà cuộc sống đặt ra. Chính vì vậy,
trong quá trình dạy học, GV cần nghiên cứu nội dung bài học, sử dụng hợp lí,
linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học khác nhau để phát huy tính độc lập,
năng lực sáng tạo của HS trong học tập, góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
Về đặc điểm sinh lý: HS THCS thuộc lứa tuổi từ 11 đến 15, là lứa tuổi
thiếu niên. Đây là thời kì chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành, vẫn
mang tính trẻ con nhưng tập làm người lớn. Nội dung cơ bản của sự khác biệt
ở lứa tuổi HS THCS với các em lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu
cân đối về các mặt trí tuệ, đạo đức. Sự xuất hiện những yếu tố mới của sự
trưởng thành do kết quả biến đổi cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu quan
hệ Vì vậy, trong quá trình dạy học ở trường THCS cần tính đến các đặc
điểm sau:
Về động cơ học tập: Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa
tuổi học sinh, nhưng đến HS THCS hoạt động học tập xây dựng lại một cách
cơ bản so với lứa tuổi tiểu học. Đối với các em, hoạt động học tập được xem
như là hoạt động độc lập hướng vào sự thỏa mãn nhu cầu nhận thức. Tuy
nhiên, động cơ học tập lại rất phong phú, đa dạng nhưng chưa bền vững nhiều
khi còn thể hiện mâu thuẫn của nó. Để giúp các em có thái độ đúng đắn với
việc học tập thì tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học, phải gắn
thực tiễn cuộc sống, phải gây được hứng thú cho các em và giúp các em có

phương pháp học tập phù hợp, tránh tình trạng hoang mang lo lắng dẫn đến
thất bại.
Về chú ý: Sự phát triển chú ý của HS THCS diễn ra rất phức tạp. Chú ý
có chủ định, bền vững được hình thành. Mặt khác, sự rung động tích cực và
rung động mạnh mẽ của lứa tuổi này thường dẫn đến chú ý không bền vững.
Biện pháp tốt nhất để thu hút sự chú ý của các em là tổ chức các hoạt động
học tập hợp lí. Cần lưu ý rằng không phải bao giờ các em cũng thích cái vui,
cái dễ hiểu mà chính những giờ học có nội dung đòi hỏi tư duy, suy nghĩ mới
là cho các em thấy hào hứng.
Về ghi nhớ: HS THCS có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu
tượng, từ ngữ. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng ghi nhớ được tăng lên. Ghi nhớ
máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa, hiệu quả
của trí nhớ trở nên tốt hơn. Các em có khuynh hướng muốn tái hiện lại kiến
thức đã học theo cách diễn đạt của mình và không thích học thuộc lòng. GV
cần dạy cho HS kỹ năng ghi nhớ logic và rèn luyện cho các em kỹ năng, thói
quen trình bày nội dung đã học bằng ngôn ngữ của mình.
Về tư duy: Tư duy khái quát ngày càng chiếm ưu thế, tuy rằng tư duy cụ
thể vẫn còn tồn tại và giữ một vai trò quan trọng. Khả năng vận dụng các thao
tác tư duy được nâng lên rõ rệt, đặc biệt là đối với HS cuối cấp. Ở lứa tuổi
này, các em đã biết vận dụng các kiến thức đã học, biết lấy kinh nghiệm riêng
của bản thân mình để minh họa cho bài học Vì vậy, trong quá trình dạy học
đòi hỏi GV phải quan tâm đến sự phát triển của tư duy trừu tượng.
Về giao tiếp: Ở lứa tuổi này nảy sinh cảm giác về sự trưởng thành, các
em muốn được người lớn tôn trọng nhân cách và tin cậy. Tính cách độc lập
của các em bắt đầu phát triển. Đồng thời ở lứa tuổi này có nhu cầu lớn trong
quan hệ giao tiếp với bạn bè, thích hoạt động cùng nhau, mong muốn được
bạn bè, thầy cô công nhận, thừa nhận, tôn trọng mình. Vì vậy, GV cần tạo
điều kiện để HS phát triển quan hệ giao tiếp, hợp tác trong tập thể và phải biết

×