Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Khảo sát việc ứng dụng biện pháp dạy tập đọc lớp 3 theo hướng đổi mới hiện nay ở trường tiểu học đức ninh đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 100 trang )


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực, khách quan và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Đồng Hới, ngày 20 tháng 5 năm 2015
Tác giả

Lê Thị Thanh Trang


















L
LL
LỜ


ỜỜ
Ờ I C
I CI C
I CỜ
ỜỜ
Ờ M
M M
M Ờ
ỜỜ
Ờ Ơ
ƠƠ
Ơ



Để hoàn thành đề tài Nghiên cứu khoa học này, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ quý báu của: Ban giám hiệu và toàn thể quý thầy cô giáo, cán bộ khoa SP
Tiểu học-Mầm non- Trường Đại học Quảng Bình.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với TS.Mai Thị Liên
Giang, người đã tận tình hướng dẫn và dìu dắt tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu đề tài. Qua đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô giáo và các em
học sinh khối 3 Trường Tiểu học Đức Ninh Đông.
Tôi xin cảm ơn quý thầy cô giáo đã có sự góp ý và trao đổi chân thành
trong quá trình thực hiện đề tài.
Và cuối cũng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã cổ vũ, động viên và giúp
đỡ tôi hoàn thành đề tài này.

Quảng Bình, tháng 5 năm 2015
Tác giả đề tài


Lê Thị Thanh Trang










NHỮNG KÝ HIỆU DÙNG TRONG KHÓA LUẬN

TT KÝ HIỆU CHÚ THÍCH
1 GV Giáo viên
2 HS Học sinh
3 SGK Sách giáo khoa
4 Tr Trang















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4
5. Giả thuyết khoa học 4
6. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
7. Phạm vi nghiên cứu 5
8. Đóng góp của đề tài 5
9. Phương pháp nghiên cứu 5
10. Cấu trúc đề tài 6
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ DẠY TẬP ĐỌC THEO
HƯỚNG ĐỔI MỚI HIỆN NAY 7
1. Cơ sở lý luận 7
1.1 Cơ sở tâm lý học và ngôn ngữ học 7
1.1.1 Cơ sở tâm lý học 7
1.1.2 Cơ sở ngôn ngữ học. 9
1.2 Các khái niệm công cụ 10
1.3 Những vấn đề lý luận về dạy học Tiếng Việt cho học sinh lớp 3 11
1.3.1 Điều chỉnh chương trình dạy học Tiếng Việt phù hợp với năng lực và trình
độ của học sinh 11
1.3.2 Thiết kế và tiến hành bài học có hiệu quả 13
1.4 Những vấn đề lí luận về dạy cho học sinh lớp 3 trong phân môn Tập đọc: 15
1.4.1 Vị trí, nhiệm vụ dạy học phân môn Tập đọc ở Tiểu học. 15
1.4.2 Mục tiêu của phân môn Tập đọc ở Tiểu học: 17
1.5 Nguyên tắc dạy Tập đọc ở Tiểu học 18
1.5.1 Nguyên tắc phát triển tư duy 18

1.5.2 Nguyên tắc giao tiếp ( nguyên tắc phát triển lời nói) 18
1.5.3 Nguyên tắc hướng tới những phương pháp và dạy học tích cực 19
2. Cơ sở thực tiễn 20
2.1 Nội dung và chương trình dạy học trong phân môn Tập đọc lớp 3: 20
2.2 Một số phương pháp dạy Tập đọc ở lớp 3: 26
2.3 Những yêu cầu và trình tự lên lớp về kỹ năng đọc trong phân môn Tập đọc
lớp 3 29
2.4 Các kiểu dạng bài tập dạy học Tập đọc 34
2.5 Thực trạng dạy học của Trường Tiểu học Đức Ninh Đông 35
Chương 2. ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP DẠY TẬP ĐỌC LỚP 3 Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC ĐỨC NINH ĐÔNG THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI HIỆN NAY 37
2.1 Những lỗi thường gặp trong việc dạy và học Tập đọc của học sinh lớp 3
Trường Tiểu học Đức Ninh Đông 38
2.2 Những biện pháp dạy học Tập đọc lớp 3 cho học sinh ở Trường Tiểu học
Đức Ninh Đông 38
2.2.1 Luyện đọc đúng và khắc phục lỗi phát âm từ địa phương của vùng Đức
Ninh Đông 39
2.2.2 Luyện đọc nhanh và khắc phục lỗi đọc lướt, đọc tắt từ của học sinh vùng
Đức Ninh Đông. 40
2.2.3 Luyện đọc thầm, đọc hiểu. 44
2.2.4 Luyện đọc diễn cảm và khắc phục các âm đọc trại vùng Đức Ninh Đông.47
2.2.5 Luyện đọc thuộc lòng 51
2.2.6 Tổ chức giờ học thân thiện - học sinh tích cực 54
2.2.7 Kết hợp với chuyên môn nhà trường và học hỏi ở đồng nghiệp 58
2.2.8 Kết hợp giữa gia đình và nhà trường 61
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 66
1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm 66
1.1 Mục đích 66
1.2 Nhiệm vụ 66
2. Kế hoạch thực nghiệm 66

3. Nội dung thực nghiệm 69
3.1 Chọn nội dung thực nghiệm 69
3.2.Thiết kế giáo án 69
4. Đánh giá kết quả 80
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 84
1. Kết luận 84
2. Kiến nghị 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC 90







1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, sự nghiệp giáo dục cũng ngày càng được đổi
mới để phù hợp với xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Trong sự nghiệp giáo dục, cấp
Tiểu học là một bậc học vô cùng quan trọng. Nó được xem là nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân. Trong môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học, Tập đọc là phân
môn hết sức quan trọng. Phân môn Tập đọc như một chiếc chìa khóa đầu tiên
giúp các em học sinh bước vào kho tàng tri thức khoa học vô tận của nhân loại.
Tập đọc là một phân môn thực hành, là một trong những phân môn quan trọng
góp phần hình thành kỹ năng cho học sinh. Đây là một trong bốn kỹ năng cơ bản
mà học sinh Tiểu học cần đạt tới. Nếu các phân môn tập viết, chính tả, tập làm
văn góp phần cơ bản để rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh thì phân môn Tập

đọc có nhiệm vụ cơ bản là luyện kỹ năng đọc cho học sinh. Năng lực đọc được
tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng đọc là đọc đúng, đọc
nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những
điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt,
viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu được môn học khác một cách chắc chắn.
Từ đó học sinh mới hoàn thiện được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của chính
bản thân mình. Vì vậy việc nghiên cứu tìm hiểu về tập đọc ở góc độ nào cũng có
ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Hiện nay ở trường Tiểu học, kỹ năng đọc của
học sinh chưa đồng đều, một số học sinh đọc còn yếu, một số giáo viên chưa chú
trọng đến việc dạy cho học sinh tiểu học, chưa tìm ra biện pháp dạy môn Tập
đọc để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nguyên nhân của đọc yếu và đọc chưa tốt của
học sinh là do nhiều tác động như: phương pháp giảng dạy của giáo viên, ngôn
ngữ địa phương, do tài liệu, sách giáo khoa, câu hỏi còn chung chung, chưa đi
sâu vào nội dung bài, cách kết hợp các phương pháp dạy còn hạn chế Do vậy
giờ dạy chưa đạt kết quả cao, dẫn đến việc học tốt phân môn Tập đọc còn hạn
chế. Ở lớp 3, nội dung hướng dẫn đọc ở một số bài mới chỉ dừng lại những lưu ý
phát âm đúng các từ ngữ hoặc âm thanh của Tiếng Việt, chưa chú ý đầy đủ đến
các phương diện (thao tác) khác nhằm tái hiện các tác phẩm hoặc khắc sâu kiến
thức. Trong khi đó đối với học sinh lớp 3, ngoài việc phát âm đúng học sinh phải
đọc lưu loát từng đoạn và từng bài, biết ngắt nghỉ cho phù hợp theo thể thơ hay
nội dung đọc. Bước đầu đọc diễn cảm được bài có cảm xúc, biết nhấn giọng ở


2

những từ biểu cảm, gợi tả, biết đọc rõ lời tác giả và nhân vật. Chính vì vậy cần
có biện pháp dạy học tập đọc theo hướng đổi mới nhằm góp phần nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt nói riêng cũng như chất lượng giáo dục nói chung. Là một
giáo viên tiểu học tương lai, tôi thấy mình phải tự tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra
những phương pháp và cách dạy tốt nhất với môn tập đọc giúp các em học tốt

môn học này, đồng thời từ đó góp phần giúp các em học tốt các môn học khác.
Để có phương pháp dạy tốt môn tập đọc ở lớp 3, đòi hỏi giáo viên phải làm thế
nào để có thể giúp học sinh hiểu, yêu thích, hứng thú và học tốt trong giờ học tập
đọc. Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Khảo sát việc ứng
dụng biện pháp dạy Tập đọc lớp 3 theo hướng đổi mới hiện nay ở Trường Tiểu
học Đức Ninh Đông” .
2. Lịch sử vấn đề
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp và tư duy quan trọng nhất của loài
người, nó luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người, chịu tác động to
lớn và mạnh mẽ của các tiến trình phát triển của xã hội.
Tiếng Việt - ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam - không nằm ngoài phạm vi
các quy luật trên. Đã có rất nhiều bài báo, các công trình nghiên cứu về tầm quan
trọng, chức năng và sự phát triển của tiếng Việt trên các bình diện khác nhau,
đặc biệt là trong văn học và nghệ thuật. Chính vì vậy mà để có được vốn tiếng
Việt vững chắc cần phải biết đọc.
Trong cuốn "Sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga" (1998) -
Viện sỹ M.R.Lơvôp đã định nghĩa "Đọc là một dạng ngôn ngữ, là quá trình
chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với
hình thức đọc thành tiếng) là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết
thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh".
Theo giáo sư, tiến sĩ khoa học Ju.P. Melentieva (2007) thì "Phải thừa nhận
rằng, đọc (dù là đọc trên giấy, hay trên màn hình) vẫn là quy trình kỹ thuật duy
nhất của hoạt động trí tuệ, nhằm khai thác những tri thức mà nhân loại đã tích
lũy, theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này. Đọc là chiến lược quan trọng nhất
trong cuộc sống của bất cứ người nào biết suy nghĩ. Không đọc thì không có
giáo dục, không có sự hình thành thế giới quan, không có sự trưởng thành nghề
nghiệp, không có sự phát triển về cảm xúc và trí tuệ. Sự đọc thâm nhập vào mọi


3


lĩnh vực và mọi giai đoạn phát triển của cá nhân, từ lúc còn thơ ấu cho đến khi
nhắm mắt xuôi tay, và nó quyết định phần lớn sự thành đạt trong cuộc sống.
Càng ngày càng có thêm nhiều người nhận thức rằng, đọc sách là một việc phải
làm suốt đời".
Đọc cũng là một dạng lao động hàm chứa nhiều đặc điểm, đòi hỏi phải
quan tâm nghiên cứu. Với mỗi độc giả, nghiên cứu việc đọc là để tìm ra những
cách đọc tốt nhất, giúp đọc nhanh, hiểu sâu, nhớ lâu, vận dụng có hiệu quả
những điều đã đọc. Trong lĩnh vực thư viện, nghiên cứu việc đọc trước hết là
nhằm mục đích tìm hiểu hứng thú và nhu cầu của độc giả, để trên cơ sở đó mà
tiến hành đổi mới, hoàn thiện phương pháp công tác, nâng cao chất lượng phục
vụ về sách cho bạn đọc, góp phần tạo dựng hình ảnh tốt của thư viện, đảm bảo
và nâng cao uy tín của thư viện. Ngoài ra, nghiên cứu việc đọc được tiến hành
còn nhằm vào nhiều mục đích khác. Kết quả nghiên cứu việc đọc, trong nhiều
trường hợp, đã góp phần không nhỏ vào việc cung cấp những dữ liệu phong phú,
những đánh giá xác đáng về trình độ văn hóa, trình độ dân trí của một cộng
đồng, một khu vực, có khi cả một quốc gia… Tìm hiểu tình hình nghiên cứu về
vấn đề dạy học tập đọc, đến nay chúng tôi được biết đến cuốn sách “Một số vấn
đề về dạy hội thoại cho học sinh tiểu học” của tác giả Nguyễn Trí. Tác giả đã cố
gắng chọn lọc những kiến thức cơ bản, tối thiểu về hội thoại dựa theo chương
trình môn Tiếng Việt tiểu học ban hành năm 2001 và 2006 và lựa chọn cách
trình bày các kiến thức dựa trên sự phân tích một số dẫn chứng cụ thể để người
mới tiếp cận lí thuyết hội thoại dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Bên cạnh đó, cuốn
sách còn giới thiệu các kiểu bài tập dạy học luyện nói trong bộ sách giáo khoa
Tiếng Việt tiểu học.Trong đề tài Khoa học & Công nghệ “Một số biện pháp nâng
cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học ở môn Tiếng Việt” của Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam, tác giả Trần Thị Hiền Lương đã xác định được
các biện pháp dạy học rèn kĩ năng nói cho học sinh xuất phát từ đặc điểm lứa
tuổi học sinh tiểu học, từ lý luận dạy học hiện đại, theo hướng tăng cường thực
hành, luyện tập. Trong đề tài này, tác giả đã đưa ra các biện pháp rèn luyện kĩ

năng nói như rèn kĩ năng phát âm, rèn kĩ năng nói độc thoại, nói hội thoại cho
học sinh tiểu học. Qua công trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”,
tác giả Lê Phương Nga đã đưa ra những vấn đề chung của phương pháp dạy học


4

Tiếng Việt, nêu ra các phương pháp dạy học từng phân môn cụ thể trong dạy học
Tiếng Việt ở Tiểu học.
Ngoài những tài liệu trên, chúng tôi còn tham khảo thêm một số công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài ở trên mạng internet như : Một số biện pháp
nâng cao chất lượng đọc cho học sinh tại địa chỉ trang web:
/>sinh-lop-3-1684415.html . Phương pháp dạy Tập đọc cho học sinh lớp 3 tại địa
chỉ web : />hoc-sinh-lop-3.htm .Đề tài : Đổi mới phương pháp dạy học phân môn Tập đọc
lớp 3 tại địa chỉ trang web: />phuong-phap-day-hoc-phan-mon-tap-doc-lop-3.htm .
Tuy nhiên, những đề tài, công trình nghiên cứu ở trên mới chỉ dừng lại ở lí
luận chung, chưa nghiên cứu riêng tại một địa điểm nhất định. Ở nước ta, tính
đến tháng 01 năm 2014 đề tài “Khảo sát việc ứng dụng biện pháp dạy Tập đọc
lớp 3 theo hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đức Ninh Đông” vẫn chưa có ai
nghiên cứu. Chúng tôi xem những công trình nghiên cứu trên là những cơ sở
khoa học quý báu của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Là một giáo viên Tiểu học tương lai thì việc nghiên cứu đề tài này của
chúng tôi không tách rời với công việc dạy học. Vì vậy nghiên cứu đề tài này
nhằm đưa ra những biện pháp dạy tập đọc cho học sinh lớp 3 theo hướng đổi
mới hiện nay. Từ đó, định hướng các biện pháp dạy học phù hợp trong phân môn
Tập đọc cho học sinh lớp 3 ở Trường Tiểu học Đức Ninh Đông.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1 Khách thể
Những bài tập đọc của học sinh lớp 3.

4.2 Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 3 ở Trường Tiểu học Đức Ninh Đông.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu đưa những biện pháp dạy học tập đọc lớp 3 theo hướng đổi mới vào
chương trình học của học sinh thì sẽ giúp các em nâng cao kỹ năng đọc của
mình, từ đó học tốt phân môn Tập đọc.


5

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lí luận, kỹ năng đọc của học sinh Trường Tiểu học
Đức Ninh Đông.
- Đánh giá thực trạng dạy tập đọc cho học sinh lớp 3 ở Trường Tiểu học
Đức Ninh Đông.
- Đề xuất một số biện pháp dạy tập đọc lớp 3 theo hướng đổi mới hiện nay
cho học sinh ở Trường Tiểu học Đức Ninh Đông.
7. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu biện pháp dạy học tốt ở môn Tập đọc lớp 3 thuộc phân môn
Tập đọc lớp 3 ở Trường Tiểu học Đức Ninh Đông.
8. Đóng góp của đề tài
Thông qua tìm hiểu thực tế dạy học tập đọc, khảo sát những biện pháp dạy
học tập đọc theo hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đức Ninh Đông. Từ đó
chúng tôi có nhận xét, đánh giá và định hướng đúng trong quá trình dạy học Tập
đọc ở Tiểu học. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là một tài liệu tham khảo
hữu ích cho sinh viên và giáo viên nghành giáo dục Tiểu học.
9. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:

Sử dụng phương pháp này, chúng tôi thu thập các tài liệu như: sách tham
khảo, các tập san báo giáo dục thời đại, sách giáo viên, sách hướng dẫn giảng
dạy tiếng việt lớp 3, những bài viết có đề tài liên quan…
Phân tích tài liệu dạy học sách giáo khoa lớp 3 mới và sách hướng dẫn về
nội dung và cấu trúc.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi tiến
hành khảo sát thực tiễn việc dạy và học tập đọc ở lớp 3 của giáo viên và học
sinh.
- Phương pháp thực nghiệm: Với phương pháp này chúng tôi đã tiến hành
điều tra, khảo sát thực tế tại trường. Trong thời gian thực tập tại trường, thông


6

qua những tiết dạy thực nghiệm, tổ chức giờ học sôi nổi.Ngoài ra, chúng tôi còn
trao đổi quan điểm, ý kiến của mình với học sinh, đồng nghiệp
10. Cấu trúc đề tài
Chương 1: Cơ sở khoa học của vấn đề dạy Tập đọc theo hướng đổi mới
hiện nay.
Chương 2: Đề xuất các biện pháp dạy Tập đọc ở Trường Tiểu học Đức
Ninh Đông theo hướng đổi mới.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.



7

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ DẠY TẬP ĐỌC THEO HƯỚNG ĐỔI

MỚI HIỆN NAY
1. Cơ sở lý luận
1.1 Cơ sở tâm lý học và ngôn ngữ học
1.1.1 Cơ sở tâm lý học
Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau,
là việc sử dụng một bộ mã gồm hai phương diện. Thứ nhất, đó là quá trình vận
động của mắt, sử dụng bộ mã chữ-âm để phát ra một cách trung thành những
dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này gọi là quá trình đọc thành
tiếng. Thứ hai, đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ-
nghĩa, tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng
bên trong để nhớ và hiểu được nội dung những gì được đọc [10, trang 141]. Quá
trình này gọi là quá trình đọc hiểu. Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi
chính xác và ngày càng nhanh các kí hiệu văn tự thành kí hiệu âm thanh. Khi đọc
hiểu, mục đích của người đọc là làm rõ nghĩa các kí tự, làm rõ nội dung và đích
thông báo của văn bản. Lúc này quá trình đọc không chỉ là sự vận động của trí
tuệ. Nên đọc có ý thức là một yêu cầu quan trọng của đọc, trở thành một kỹ năng
của đọc. Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với
nhau, là việc sử dụng một bộ mã gồm hai phương diện. Thứ nhất, đó là quá trình
vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ-âm để phát ra một cách trung thành những
dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này gọi là quá trình đọc thành
tiếng. Thứ hai, đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ-
nghĩa, tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng
bên trong để nhớ và hiểu được nội dung những gì được đọc. Quá trình này gọi là
quá trình đọc hiểu. Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác và
ngày càng nhanh các kí hiệu văn tự thành kí hiệu âm thanh. Khi đọc hiểu, mục
đích của người đọc là làm rõ nghĩa các kí tự, làm rõ nội dung và đích thông báo
của văn bản. Lúc này quá trình đọc không chỉ là sự vận động của trí tuệ. Nên đọc
có ý thức là một yêu cầu quan trọng của đọc, trở thành một kỹ năng của đọc. Để
tổ chức dạy đọc cho học sinh, giáo viên cần hiểu rõ về quá trình đọc, nắm bản



8

chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay cơ chế
của đọc là cơ sở của việc dạy học. Đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ
sở là việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan
thị giác. Ta đi phân tích đặc điểm của quá trình này. Đọc được xem như là một
hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai
phương diện. Một mặt đó là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ-âm
để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ
hai đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ- nghĩa tức là
mối liên hệ giữ các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để
nhớ và hiểu cho được nội dung những gì được đọc. Đọc bao gồm những yếu tố
như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính
giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần
nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ cuối cùng của việc phát triển
kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình
đọc, đó là điểm phân tích biết người mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng
có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng
chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu. Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ “đọc”
được sử dụng trong nhiều nghĩa: theo nghĩa hẹp việc hình thành kỹ năng đọc
trùng với nắm kỹ thuật đọc (tức là dạng chuyển thức chữ viết của từ thành âm
thanh). Theo nghĩa rộng đọc được hiểu là kỹ thuật đọc của những từ riêng lẻ của
cả câu, cả bài. Ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài
liệu của tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với
nghĩa thứ hai – đọc được xem như một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố
+ Tiếp nhận dạng thức chữ của từ
+ Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo
từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tùy thuộc vào trình độ nắm
kỹ thuật đọc.

+ Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kỹ năng đọc là một
kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình rèn luyện lâu dài, chia việc hình thành
kỹ năng này ra làm 3 giai đoạn: phân tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát
sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động hóa.
Giai đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm.
Giai đoạn tổng hợp thì đoc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng


9

thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu
ý nghĩa của “từ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực
hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc tổng
hợp. Trong những năm cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hóa, nghĩa là
người đọc ngày càng ít quan tâm đến quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc
chiếm lĩnh văn hóa, nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các phương tiện biểu
đạt của nó. Thời gian gần đây, người ta đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ
quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng làm
việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ học đọc sao cho việc
phân tích nội dung của bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có ý thức bài đọc. Việc
đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu trẻ không
hiểu được những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập
và không có khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo động cơ,
hứng thú cho việc đọc. Để có giờ tập đọc đạt hiệu quả tốt, người giáo viên phải
nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, nắm được các đặc điểm, yêu cầu,
bản chất, kỹ năng, cơ chế, mục đích cần đạt được của tiết dạy tập đọc.Trên cơ sở
đó sử dụng phương pháp cho phù hợp.
1.1.2 Cơ sở ngôn ngữ học.
Phương pháp dạy Tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học.
Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính

âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc âm ngữ học), vấn đề nghĩa của từ, của
câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu câu
… Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những kết quả nghiên cứu của ngôn
ngữ học, Việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập nội dung
và phương pháp dạy học. Bốn yêu cầu của đọc không thể tách rời những cơ sở
của ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc dạy học sẽ
mang tính tùy tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học.
a) Vấn đề chính âm trong Tiếng Việt:
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả về
mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm Tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có
nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn hóa
ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng
chính âm.


10

b) Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt:
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên cao hay
hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần của ngôn
điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo thành lời nói.
Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu Tiếng Việt như các ngôn ngữ có
thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng (cao độ),
sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển giọng (phối
hợp cả trường độ và cường độ). Ngữ điệu là một hiện tượng cơ bản có thể tách ra
thành các yếu tố cơ bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt
giọng) trọng âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học
sinh biết làm chủ những yếu tố này
1.2 Các khái niệm công cụ
1.2.1 Biện pháp dạy học

a. Dạy học là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của
người giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động, biết tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động nhận thức-học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ
dạy học.
b. Biện pháp dạy học là những cách thức làm việc giữa thầy, cô giáo và học
sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành
được thế giới quan và năng lực [10,trang122].
1.2.2 Điều chỉnh
Điều chỉnh là sự thay đổi mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện,
dạy hoc nhằm giúp học sinh phát triển tốt nhất phù hợp với những năng lực và
trình độ của học sinh.
1.2.3 Chính âm
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và hiệu
lực về mặt xã hội [10, trang 140].
1.2.4 Ngữ điệu
Ngữ điệu là sự thay đổi giọng nới, giọng đọc, là sự lên cao hay hạ thấp
giọng nói, giọng đọc [10, trang 140].


11

Ngữ điệu là sự hòa phối của chỗ ngừng, tốc độ, chỗ nhấn giọng, cao độ…
tạo nên âm hưởng, giọng điệu của bài học. Nội dung của bài văn, bài thơ sẽ quy
định ngữ điệu đọc.
1.2.5 Kỹ năng đọc
a) Kỹ năng:
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Những định nghĩa này
thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của người viết.
Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi
chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi

lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ
đích và định hướng rõ ràng.
Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục
một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm)
nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
b) Khái niệm đọc:
“Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức thức
chữ viết sang lời nói có âm thanh (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá
trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm
thanh (ứng với đọc thầm)” - M.R.Lơvôp.
Đọc không chỉ là việc giải quyết bộ mã gồm hai phần: chữ viết và phát
âm. Nghĩa là nó không chỉ là sự đánh vần lên thành tiếng theo đúng như các kí
hiệu chữ viết mà còn đọc còn là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu
những gì được học.
1.3 Những vấn đề lý luận về dạy học Tiếng Việt cho học sinh lớp 3
1.3.1 Điều chỉnh chương trình dạy học Tiếng Việt phù hợp với năng lực và
trình độ của học sinh
* Cấu trúc chương trình
Nội dung chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học gồm những bộ phận sau: Kĩ
năng sử dụng tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết). Tri thức tiếng Việt (một số hiểu
biết tối thiểu về ngữ âm, chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp…). Tri thức về văn học,


12

xã hội và tự nhiên (một số hiểu biết tối thiểu về sáng tác văn học và cách tiếp cận
chúng, về con người với đời sống tinh thần và vật chất của họ, về đất nước và
dân tộc Việt Nam…).
Nội dung này được xếp theo hai giai đoạn phát triển:
Ở giai đoạn 1 (lớp 1, 2, 3) nội dung dạy học có nhiệm vụ hình thành những

cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết, định hướng việc học nghe, học nói trên
cơ sở vốn Tiếng Việt mà các em đã có. Học đọc, học viết có vị trí đặc biệt quan
trọng ở giai đoạn này.Yêu cầu cơ bản ở giai đoạn này là đọc thông thạo và hiểu
đúng một văn bản ngắn, rõ ràng, đúng chính tả, nghe chủ động, nói chủ động,
rành mạch. Những bài học ở giai đoạn này chủ yếu là những bài thực hành đọc,
viết, nghe, nói. Tri thức tiếng Việt không được dạy thành bài riêng mà được rút
ra từ những bài thực hành, được học sinh tiếp thu một cách tự nhiên qua hoạt
động thực hành. Những tri thức về âm, chữ cái, tiếng (âm tiết) - chữ, thanh điệu
– dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ. Tri thức về câu trong hội
thoại (câu hỏi – đáp và dấu câu) cũng không được dạy qua bài lí thuyết mà
chúng được hình thành ở học sinh qua việc hình dung cụ thể thế nào là câu hỏi,
câu đáp và dấu biểu thị chúng trong một văn bản có thực. Ở giai đoạn này, việc
nắm tri thức của học sinh chỉ yêu cầu dừng ở mức nhận diện và sử dụng được
các đơn vị tiếng Việt, các quy tắc sử dụng tiếng Việt khi tiến hành hoạt động
nghe, nói, đọc, viết. Phần tri thức có trong nội dung chương trình các lớp 1, 2, 3
vì vậy chỉ có giá trị xác định những tri thức cần cho học sinh làm quen, giúp các
tác giả sách giáo khoa có cơ sở để soạn thảo.
Ở giai đoạn 2 (lớp 4, 5) nội dung chương trình nhằm phát triển các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết ở một mức cao hơn, hoàn thiện hơn. Trong đó yêu cầu đọc
hiểu và viết một văn bản hoàn chỉnh được đặc biệt coi trọng. Ở giai đoạn này,
học sinh đã bước đầu được cung cấp những khái niệm cơ bản về một số đơn vị
ngôn ngữ và quy tắc sử dụng tiếng Việt làm nền móng vững chắc cho các kĩ
năng tiếng Việt. Bên cạnh những bài học thực hành (như ở giai đoạn trước) các
em còn học những bài về tri thức tiếng Việt (từ vựng, ngữ pháo, văn bản, phong
cách…). Những bài học này không được trình bày dưới dạng lí thuyết đơn thuần,
không phải được tiếp nhận hoàn toàn bằng tư duy trừu tượng mà chủ yếu vẫn
bằng cách nhận diện, phát hiện trên những ngữ liệu đã được đọc, viết, nghe, nói
từ đó khái quát lên những khái niệm sơ giản ban đầu.



13

1.3.2 Thiết kế và tiến hành bài học có hiệu quả
Trong thực tiễn lập kế hoạch và tiến hành dạy học, người giáo viên thường
xuyên đối diện với câu hỏi: Làm thế nào để lựa chọn phương pháp dạy học phù
hợp và có hiệu quả? Các nhà lý luận dạy học, các nhà giáo học pháp bộ môn
thường đưa ra lời khuyên: Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị riêng, không
có phương pháp dạy nào là vạn năng, giữ vị trí độc tôn trong dạy học, cần phối
hợp sử dụng các phương pháp dạy học… Lời khuyên này không sai nhưng gần
như không có tác dụng thao tác hoá; giá trị giúp đỡ đối với giáo viên quá ít nếu
như không chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp dạy
học. Như vậy, cần phải góp phần trả lời câu hỏi: Việc lựa chọn phương pháp dạy
học được tiến hành một cách tuỳ tiện, bất kì, hay bị ràng buộc bởi những tiêu
chuẩn khoa học nào? Câu trả lời cần được tìm kiếm ở các mối quan hệ của
phương pháp dạy học (hiểu theo cả 3 tầng nghĩa của nó) với các yếu tố liên quan,
đó là: Với mục tiêu dạy học; với nội dung dạy học; với nhu cầu, hứng thú, thói
quen học tập của học sinh; năng lực, sở trường, kinh nghiệm sư phạm của giáo
viên; với điều kiện giảng dạy và học tập. Dưới đây là mấy cơ sở căn bản cần
quan tâm khi lựa chọn phương pháp dạy học:
Chọn những phương pháp dạy học có khả năng cao nhất đối với việc thực
hiện mục tiêu dạy học. Mỗi mô hình lí luận dạy học, phương pháp dạy học đều
có những điểm mạnh, điểm hạn chế nhất định. Nhưng khi xem xét việc thực hiện
một mục tiêu dạy học nhất định thì có một số phương pháp dạy học có khả năng
cao hơn các phương pháp dạy học khác. Chẳng hạn nếu đặt mục tiêu nhanh
chóng truyền thụ cho xong nội dung quy định thì phương pháp thuyết trình có vị
trí quan trọng. Nhưng nếu đặt mục tiêu phát triển năng lực tìm tòi sáng tạo của
học sinh thì vấn đề sẽ khác đi.
Lựa chọn các phương pháp dạy học tương thích với nội dung học tập.
Giữa nội dung và phương pháp dạy học có mối quan hệ tác động lẫn nhau, trong
nhiều trường hợp quy định lẫn nhau. Ở bình diện kĩ thuật dạy học, phương pháp

dạy học cần tương thích với nội dung dạy học. Mỗi nội dung dạy học đều liên hệ
mật thiết với những hoạt động nhất định.
Lựa chọn phương pháp dạy học cần chú ý đến hứng thú, thói quen của học
sinh, kinh nghiệm sư phạm của giáo viên. Cần chuẩn đoán nhu cầu, hứng thú của
học sinh khi lựa chọn các phương pháp dạy học. Đối với việc trình bày thông tin


14

cần ưu tiên lựa chọn các phương pháp sử dụng phương tiện nghe nhìn, sử dụng
truyền thông đa phương tiện càng tốt. Đối với các hoạt động chế biến thông tin
cần tổ chức các hoạt động tự phát hiện, phối hợp với làm việc theo nhóm, phát
huy càng tối đa tính tích cực, sáng tạo của học sinh càng tốt. Chú ý thay đổi
phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học tránh nhàm chán, gây hứng
thú cho học sinh. Cần thay đổi phương pháp dạy học sau 15, 20 phút. Ưu tiên lựa
chọn các phương pháp dạy học mà học sinh, giáo viên đã thành thạo. Với các
phương pháp dạy học có ưu điểm tương đương, cần ưu tiên lựa chọn phương
pháp dạy học mà giáo viên và học sinh đã thành thạo, bởi thực hiện dễ dàng hơn.
Hiện nay, rất cần thiết phải cho giáo viên và học sinh trở nên quen thuộc với các
kĩ thuật dạy học mới có hiệu quả cao trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục.
Để nâng cao tay nghề cần:

Nghiên cứu các vấn đề đổi mới phương pháp dạy học qua sách, vở, giáo
trình, tạp chí chuyên môn, các lớp tập huấn

Rút kinh nghiệm các giờ dạy của bản thân kết hợp với tiến hành dự giờ,
trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp
Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện dạy học: Ở đây đề
cập đến phương pháp dạy học diễn ra trong mối quan hệ với các điều kiện vật
chất, đặc biệt là thiết bị dạy học. Đương nhiên là cần phải lựa chọn phương pháp

dạy học phù hợp với điều kiện của nhà trường, của phòng thí nghiệm, của tình
trạng đang có. Trong khuôn khổ điều kiện cho phép, cần chọn thứ tự ưu tiên khả
năng tốt nhất. Các thiết bị dạy học hiện đại không luôn đồng nghĩa với các thiết
bị dạy học đắt tiền. Tính hiện đại của thiết bị dạy học thể hiện ở việc sử dụng các
thiết bị sao cho đạt yêu cầu cao nhất trong việc thực hiện các mục tiêu dạy học,
thể hiện rõ tư tưởng sư phạm hiện đại.
Tóm lại, trên đây là bốn cơ sở quan trọng nhất, là căn cứ xuất phát khi tiến
hành lựa chọn, lập kế hoạch các phương pháp dạy học. Điều quan trọng nhất là
cần xác định lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có thể giúp học
sinh: Học tập với niềm say mê, hứng thú, khát khao tìm tòi khám phá. Lĩnh hội
tri thức trong các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, theo phương
pháp khoa học. Học trong tương tác, trong việc hình thành các quan hệ hợp tác,
thân thiện, cùng nhau giải quyết các nhiệm vụ học tập.


15

1.4 Những vấn đề lí luận về dạy cho học sinh lớp 3 trong phân môn Tập
đọc:
1.4.1 Vị trí, nhiệm vụ dạy học phân môn Tập đọc ở Tiểu học.
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của cả thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn
đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì không thể tiếp thu nền văn
minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc
với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả
năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây con người biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống
nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc, con người sẽ có
khả năng chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế
giới bên trong của người khác, thông hiểu được tư tưởng tình cảm của người
khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ thức tỉnh

về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được
khơi dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm
hồn. Không biết đọc, con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà
xã hội dành cho họ, không thể hình thành một nhân cách toàn diện. Đặc biệt
trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp
con người sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc
để tự học, học cả đời. Vì những lẽ trên, dạy đọc có vị trí rất quan trọng ở Tiểu
học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Đầu
tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh
được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập
môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo ra điều kiện để học
sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một khả năng không
thể thiếu được của một con người văn minh. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có
tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy
đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái
đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình
ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn và vị trí hết sức quan trọng vì nó bao
gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển [10,trang 146].
Tập đọc với tư cách là một phân môn Tiếng Việt, tiếp tục những thành tựu
dạy học mà học vần đạt được, nhưng nâng lên một mức đầy đủ hơn, hoàn chỉnh


16

hơn. Tính đa nghĩa của “đọc” kéo theo tính đa nghĩa của “ biết đọc”. “Biết đọc”
được hiểu theo nhiều mức độ. Một em bé mới đi học biết đánh vần “ cờ - o –
co”, ngập ngừng đọc từng tiếng một, thế cũng gọi là biết đọc. Đọc thâu tóm được
tư tưởng của một cuốn sách trong vài ba trang cũng gọi là biết đọc. Chọn trong
biển sách báo nhân loại những gì mình cần, trong một ngày nắm được tinh thần
của hàng chục cuốn sách cũng gọi là biết đọc. Những năng lực này không phải tự

nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành cho học sinh năng lực này
và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Tập đọc là một phân
môn thực hành. Nhiệm vụ quan trong nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho
học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất
lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức
(thông hiểu nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu và đọc diễn
cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành từ hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và
đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện
một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví
dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung
văn bản. Ngược lại nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh
và diễn cảm được. Nhiều khi khó nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ
năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì
vậy trong dạy học không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học sinh.
Làm cho sách được tôn kính trong trường học, đó thực sự là một điều kiện để
trường học thực sự trở thành trung tâm văn hóa. Nói cách khác, thông qua việc
dạy đọc, phải làm cho học sinh thích thú đọc và thấy được khả năng đọc là có lợi
cho các em trong suốt cả cuộc đời, thấy được đó là một trong những con đường
đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển [10,trang
147].
Ngoài ra, phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ: Làm giàu kiến thức về ngôn
ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Phát triển ngôn ngữ và tư duy
cho học sinh. Giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học
sinh. Bồi dưỡng tri thức, nhận thức, hiểu biết. Rèn luyện các kỹ năng cho học
sinh.


17


Đối với phân môn Tập đọc, nhiệm vụ rèn luyện các kỹ năng cho học sinh
được đưa lên hàng đầu. Nhiệm vụ rèn luyện các kỹ năng trong giờ tập đọc có 2
kỹ năng chính: kỹ năng ngôn ngữ và kỹ năng nghe. Xét đến kỹ năng ngôn ngữ
có 4 kỹ năng cơ bản là nghe, nói, đọc, viết. Đối với phân môn Tập đọc chủ yếu
là 3 kỹ năng nghe, nói, đọc.Trong đó: Kỹ năng nghe bao gồm: nghe bạn đọc,
nghe giáo viên đọc,nghe chính mình đọc để phân biệt, tiếp nhận, nghe để thu
nhận thông tin. Nghe rất nhạy cảm bởi vì văn bản mang giá trị nghệ thuật nên
phải nghe để lựa chọn nhận biết những cái hay, cái đẹp trong văn bản. Kỹ năng
nói: Nói trước tập thể, nói lưu loát, rành mạch, tóm tắt được ý đoạn văn, ý câu
chuyện, bày tỏ được thái độ của mình, không nói lí nhí, rời rạc. Kỹ năng đọc :
Nếu phân biệt theo số lượng thì có đọc đồng thanh và đọc cá nhân. Đọc đồng
thanh nhằm giúp học sinh yếu dựa vào để đọc và làm thay đổi không khí giờ
học. Đọc cá nhân: nếu dựa vào âm phát ra ta có đọc to, đọc nhỏ, đọc nhẩm, đọc
thầm.Trong giờ tập đọc chủ yếu đọc to và đọc thầm. Nếu căn cứ vào trình độ đọc
thì chia làm 2 loại đó là đọc có nhẩm vần, đọc trơn, đọc nhanh, đọc lướt và đọc
đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm, đọc nghệ thuật.
1.4.2 Mục tiêu của phân môn Tập đọc ở Tiểu học:
Việc giảng dạy bộ môn Tập đọc trong nhả trường nhằm tạo cho các em
năng lực sử dụng tiếng Việt, văn hóa để suy nghĩ, giao tiếp và học tập phát triển
các kỹ năng đọc và nghe cho học sinh, trau dồi vốn tiếng việt, vốn văn học để
phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học học sinh về cuộc sống cụ thể.
Làm giàu và tích cực hóa vốn từ, vốn diễn đạt. Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu,
mở rộng hiểu biết về cuộc sống cung cấp mẫu để hình thành một số kĩ năng để
phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản thân như điền vào các tờ khai (đơn
giản), làm đơn, viết thư, phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của lớp.
Phát triển một số tư duy cơ bản như: phân tích, tổng hợp, phán đoán… Bồi
dưỡng tư duy, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình yêu cái đẹp, cái
thiện thái độ ứng xử đúng mức trong cuộc sống, hứng thú đọc sách và yêu thích
tiếng Việt, cụ thể: Bồi dưỡng trẻ yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối

với ông bà cha mẹ, thầy cô, yêu trường yêu lớp, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè,vị tha
nhân hậu. Xây dựng và năng lực thể hiện những phép xã giao tối thiểu. Từ
những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong sách giáo khoa, hình thành
phát triển ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản, văn học, cảm thụ vẻ
đẹp của Tiếng Việt.


18

1.5 Nguyên tắc dạy Tập đọc ở Tiểu học
Qua quá trình tìm hiểu thực tế, nhìn chung mỗi giờ tập đọc đều có hai phần
lớn là tìm hiểu nội dung bài và luyện đọc, hai nội dung này có thể tiến hành cùng
một lúc, đan xen vào nhau, cũng có thể tách rời nhau tùy từng bài và từng giáo
viên. Song dù dạy theo cách nào thì hai phần này luôn có mối quan hệ tương hỗ,
khăng khít. Phần tìm hiểu bài, giúp học sinh tìm hiểu kỹ nội dung nghệ thuật của
từng bài, từ đó học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Ngược lại, đọc diễn cảm thể
hiện nội dung bài, thể hiện những hiểu biết của mình xung quanh bài học. Như
vậy phần luyện đọc có vai trò quan trọng, học sinh đọc tốt sẽ giúp các em hoàn
thành được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của chính bản thân mình. Đọc tốt
giúp các em tiếp thu được văn minh của loài người, bồi dưỡng tâm hồn, tình
cảm, phát triển tư duy. Bên cạnh các yếu tố đó, giáo viên cần chú ý đến một số
nguyên tắc giảng dạy trong phân môn Tập đọc, giáo viên cần phải chú ý đến một
số nguyên tắc sau:
1.5.1 Nguyên tắc phát triển tư duy
Ngôn ngữ và tư duy của con người là hai phạm trù có liên hệ mật thiết, có
sự hỗ trợ và tác động lẫn nhau. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy và tư duy là hiện
thực trực tiếp của ngôn ngữ. Ngôn ngữ vừa là tiền đề vừa là điều kiện để tư duy
phát triển và ngược lại. Mối quan hệ này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình dạy
tập đọc cho học sinh tiểu học.
Mục tiêu đầu tiên của phân môn Tập đọc trong nhả trường nhằm tạo cho

các em năng lực sử dụng tiếng Việt, văn hóa để suy nghĩ, giao tiếp và học tập
phát triển các kỹ năng đọc và nghe cho học sinh, trau dồi vốn tiếng việt, vốn văn
học để phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học học sinh về cuộc sống cụ
thể. Để giờ học đạt kết quả cao thì phải đảm bảo nguyên tắc phát triển tư duy,
phát huy tính tích cực chủ đạo của học sinh. Do vậy, phần luyện đọc giáo viên
cần gợi mở, hướng dẫn học sinh những chỗ cần ngắt giọng, hạ giọng ở những
câu thơ, những đoạn văn trong bài để từ đó tìm ra cách đọc hay hơn.
1.5.2 Nguyên tắc giao tiếp ( nguyên tắc phát triển lời nói)
Để hình thành các kĩ năng, kĩ xảo ngôn ngữ, học sinh phải được hoạt động
trong các môi trường giao tiếp cụ thể, đặc biệt là môi trường văn hóa ứng xử.
Chỉ có trong môi trường giao tiếp, môi trường văn hóa ứng xử, học sinh mới


19

hiểu lời nói của người khác, đồng thời vận dụng ngôn ngữ sáng tạo, để người
khác hiểu được tư tưởng tình cảm của các em. Bởi lẽ ngôn ngữ có quan hệ chặt
chẽ với văn hóa của một dân tộc, nhất là văn hóa ứng xử. Chúng ta ai cũng biết,
trẻ em không thể lĩnh hội được lời nói nếu chúng không nắm được lời miệng. Do
vậy khi giảng dạy, cần đảm bảo nguyên tắc này. Điều này được thể hiện rõ hơn ở
phần luyện đọc, ở phần này học sinh được rèn luyện về cách phát âm, cách ngỉ
hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ điệu.
1.5.3 Nguyên tắc hướng tới những phương pháp và dạy học tích cực
Nguyên tắc này thể hiện sự kế thừa và phát huy những phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học, phát huy tính tích cực của người học đã được vận
dụng trong dạy tập đọc từ lâu nay. Đưa vào những yếu tố mới ( những phương
pháp, kỹ thuật dạy học mới) để giúp người học phát huy tính tích cực trong học
tập. Tiếp thu và vận dụng một số phương pháp và hình thức dạy học tích cực đã
đạt được thành tựu ở nước ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Theo nguyên
tắc này, việc dạy phân môn Tập đọc phải thể hiện tinh thần là hướng vào việc tổ

chức các hoạt động học tập cho học sinh. Hoạt động học phân môn tập đọc của
học sinh được hiểu là hoạt động giao tiếp, hoạt động trí tuệ được thể hiện ra bên
ngoài bằng các hành động cụ thể có thể quan sát được, lượng hóa được (ví dụ
như hoạt động tìm tòi phát hiện kiến thức, thảo luận, tranh luận, trò chơi học
tập…).
Đối với phân môn Tập đọc, hoạt động của giáo viên và học sinh phải được
thực hiện theo phương pháp mới. Giáo viên giao việc cho học sinh tự tìm hiểu,
thảo luận và đưa ra ý kiến, quan điểm, kết quả đã thảo luận của mình. Giáo viên
phải kiểm tra xem học sinh có làm việc không, có hiểu công việc không, đồng
thời trợ giúp, hướng dẫn cho học sinh trả lời những thắc mắc. Tổ chức cho học
sinh báo cáo kết quả làm việc của nhóm ( bằng miệng, giấy, phiếu học tập…).
Tổ chức cho học sinh tự đánh giá kết quả học tập của mình và của bạn ( cá nhân,
trong nhóm, trước lớp) sau đó giáo viên nhận xét, đánh giá.
Để luyện đọc đạt hiệu quả cao thì việc tổ chức luyện đọc phải có mục tiêu
rõ ràng, tường minh, trực quan và lượng hóa được; cường độ luyện tập phải cao,
nghĩa là về nguyên tắc, luyện tập càng nhiều càng tốt và một nội dung luyện tập
phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên những ngữ liệu khác nhau, được củng
cố nhiều lần để thành kĩ xảo; khi luyện tập phải lựa chọn ngữ liệu (từ ngữ, câu,

×