Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.43 KB, 52 trang )

Cần Thơ, tháng 12 năm 2013

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI








ĐỀ TÀI
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: SINH VIÊN THỰC HIỆN:
PHẠM MAI PHƯƠNG

NGÔ THỊ KIM YẾN
MSSV: 5106119

LỚP: LUẬT THƯƠNG MẠI 2


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


























NHẬN XÉT CỦA THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG

























MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài……………………………………… ……… 1
2. Mục tiêu nghiên cứu……………………………………… ……………… 2
3. Phạm vi nghiên cứu…………………………… ……………………………2
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………… ……………………2
5. Kết cấu luận văn……………………………….……… ……………………2

CHƯƠNG 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ
NỢ
1.1 Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản………………… 4
1.2 Lịch sử hình thành Luật phá sản………………………………………… 6
1.2.1 Lịch sử hình thành Luật phá sản trên thế giới …………………………… 6
1.2.2 Lịch sử hình thành Luật phá sản tại Việt Nam…………………………… 7
1.3 Sự tác động của phá sản đối với nền kinh tế………………………… …… 9

1.3.1 Sự tác động tiêu cực………………………………………………………….9
1.3.2 Sự tác động tích cực………………………………………………………….9
1.4 Mục đích của việc xây dựng Luật phá sản trong nền kinh tế thị
trường………………………………………………………………………………10
1.4.1 Bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ………………………………………11
1.4.2 Bảo vệ lợi ích của con nợ……………………………………………… …12
1.4.3 Bảo vệ lợi ích của người lao động trong Luật phá sản…………………… 13
1.4.4 Bảo vệ kỷ cương xã hội……………………………………………… 14
1.4.5 Tổ chức lại cơ cấu kinh tế………………………………………………… 14
1.5 Khái quát chung về hội nghị chủ nợ………………………………… 15

CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ
NỢ
2.1 Triệu tập hội nghị chủ nợ.…………………………………………………… 16
2.1.1Thời điểm, trình tự, thủ tục triệu tập hội nghị chủ nợ …………………… 16
2.1.2Điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ………………………………… 19
2.2 Người có quyền và nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ……………… 20
2.3 Nội dung của hội nghị chủ nợ………………………………………… 23
2.3.1 Nội dung của hội nghị chủ nợ lần 1………………………………………….23
2.3.2 Nội dung của hội nghị chủ nợ lần sau…………………………………… 27
2.4 Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong Luật phá sản……………… 29
2.4.1 Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ trong Luật phá sản…………………… 29
2.4.2 Quyền và nghĩa vụ của con nợ trong Luật phá sản…………………… 31
2.5 Vấn đề hội nghị chủ nợ bị hoãn……………………………………………… 33
2.6 Vấn đề người tham gia hội nghị chủ nợ bị vắng mặt…………………………34

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ THEO LUẬT PHÁ SẢN
3.1 Một số vấn đề còn hạn chế trong hội nghị chủ nợ…………………… 37
3.2 Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật trong hội nghị chủ nợ…………………42


Kết Luận……………………………………………………………………… 46
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo……………………………………………… 47





Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 1 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự chuyển biến nền kinh tế thị trường của nước ta từ một nền kinh tế tập
trung bao cấp sang phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần đã tạo nên
bước ngoặc lớn trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất nước. Từ sau đại hội
đảng toàn quốc lần thứ VI với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao
cấp sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lí của nhà
nước thì nền kinh tế thị trường đã được hình thành và phát triển rất phong phú, đa
dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển đó cũng
làm phát sinh nhiều hiện tượng hay quan hệ kinh tế vốn không tồn tại trong cơ chế
kế hoạch hóa, đó chính là sự phá sản của doanh nghiệp.
Khi các doanh nghiệp bị phá sản sẽ kéo theo nhiều hậu quả nhất định ảnh
hưởng đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Mục đích cơ bản
nhất của việc điều chỉnh Pháp Luật Phá sản của doanh nghiệp là nhằm bảo vệ quyền
lợi của các chủ nợ và con nợ được thông qua hội nghị chủ nợ. Do vậy, pháp luật của
bất kì quốc gia nào cũng phải có một cơ chế pháp lý thống nhất và chặt chẽ hơn
những quy định về hội nghị chủ nợ trong Luật Phá sản.
Ngay từ khi Đảng và Nhà Nước xác định chủ trương xây dựng nền kinh tế

hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì Luật phá sản
doanh nghiệp năm 1993 đầu tiên của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
được ban hành nhằm đáp ứng nhu cầu điều chỉnh đó. Tuy nhiên, trong 10 năm thực
hiện thì Luật Phá sản năm 1993 đã bộc lộ ra nhiều khiếm khuyết. Sau đó Luật Phá
sản năm 2004 ra đời, tưởng chừng như sẽ khắc phục được những khiếm khuyết, hạn
chế mà Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 còn mắc phải nhưng trong Luật Phá
sản hiện hành này thì các Doanh nghiệp vẫn chưa tìm thấy được một cơ sở vững
chắc nào để bảo vệ quyền lợi cho chính mình.
Ngày 11 tháng 1 năm 2006, đây là ngày lịch sử của nước ta, Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, hội nhập vào thị
trường kinh tế thương mại mang tính toàn cầu.
1
Sự hội nhập cùng với nền kinh tế
của các nước trên thế giới đã dẫn đến sự canh tranh khắc nghiệt giữa các doanh
nghiệp với nhau và dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng phá
sản khi các doanh nghiệp việt Nam chủ yếu vừa và nhỏ. Chính vì vậy, yêu cầu hoàn
thiện cơ chế pháp lí về hội nghị chủ nợ ngày càng trở nên cấp thiết, ảnh hưởng quan
trọng đến sự tồn tại hay không tồn tại của một doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng

1
1 Theo ttxvn, Việt Nam gia nhập wto, -thuc-gia-nhap-wto-ngay-
11-1-2007/45220802/87/.[Truy cập ngày 06/09/2013]
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 2 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

phá sản. Vì để cứu vãn tình trạng phá sản, pháp luật đưa ra biện pháp cho doanh
nghiệp mắc nợ là hòa giải với các chủ nợ và tổ chức lại hoạt động sản xuất thông
qua hội nghị chủ nợ. Cho nên, nghiên cứu vấn đề về hội nghị chủ nợ mang nhiều ý
nghĩa lý luận thực tiễn góp phần hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển

kinh tể trong nước, môi trường kinh tế quốc tế. Và đây cũng là lí do vì sao người
viết quyết định chọn đề tài “Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ”
làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tập trung phân tích những quy định của
pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá sản năm 2004, tìm ra những điểm còn
hạn chế trong luật. Từ đó đề xuất những suy nghĩ góp phần hoàn thiện pháp luật phá
sản ngày càng sát với thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu, phân tích những quy
định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá sản 2004 và văn bản hướng
dẫn thì hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm hoàn thành luận văn một cách tốt nhất, người viết đã vận dụng một số
phương pháp để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình như:
- Phương pháp phân tích luật viết để tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện
hành về vấn để minh nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu, vận dụng các quy định của pháp luật về
phá sản và các quy định có liên quan khác trên cơ sở đó để tìm ra những bất hợp lý
của quy định hiện hành về vấn để nghiên cứu từ đó đưa ra một số đề xuất hoàn hiện
hơn quy định của pháp luật.
- Phương pháp liệt kê, thống kê, sử dụng trang web để tìm kiếm tài liệu, bên
cạnh đó người viết còn vận dụng các bài viết của các nhà luật học, các bài báo, tạp
chí và cách nhìn nhận vấn đề của tác giả để nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
5. Bố cục đề tài
Mục lục
Lời nói đầu
Chương 1 Những quy định chung về Luật Phá sản và hội nghị chủ nợ
Chương 2 Những quy định của Pháp Luật về hội nghị chủ nợ
Chương 3 Thực trạng và một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về hội nghị chủ

nợ theo Luật Phá sản năm 2004
Kết luận
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 3 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

Danh mục tài liệu tham khảo
Với trình độ còn nhiều hạn chế cũng như kinh nghiệm nghiên cứu chưa
nhiều nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Người viết rất
mong nhận được sự đóng góp ý của thầy, cô giáo và tất cả các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 4 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

CHƯƠNG 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
LUẬT PHÁ SẢN VÀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ
1.1 Khái quát chung về Phá sản và pháp luật về Phá sản
Trong tiếng việt phổ thông, thuật ngữ “ phá sản” hay “vỡ nợ” đã có từ rất
lâu, nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường, được dùng để chỉ tình trạng không
trả được nợ
2
. Do đó, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chế định
luật “phá sản” hay “vỡ nợ” luôn là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống
pháp luật về kinh doanh.
Nguồn gốc của luật thuật ngữ phá sản đươc giải thích theo nhiều quan niệm
khác nhau. Ở các nước Châu Âu, khi nói đến phá sản người ta thường dùng thuật
ngữ “bankcruptcy” hoặc “banqueroute”, từ này bắt nguồn từ chữ Banka Rotta trong
tiếng La Mã có nghĩa là “ chiếc ghế gãy”. Thời đó, các thương gia của thành phố

thường tập trung lại thành “hội nghị các thương gia”, thương gia nào mất khả năng
thanh toán nợ cũng đồng thời là mất luôn quyền tham gia hội nghị. Do đó, ghế của
thương gia này đem ra khỏi hội trường.
Ở những quan niệm khác nhau,có người khẳng định rằng danh từ phá sản bắt
nguồn từ chữ “rum” trong tiếng La Tinh có nghĩa là sự “Khánh tận”. Khái niệm
này được dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một nhà kinh
doanh. Biểu hiệu trực tiếp của sự mất cân đối này là tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn (insolvency).
Như vậy, đứng dưới khía cạnh kinh tế thì phá sản xảy ra khi tổng số nợ lớn
hơn tổng số tài sản có.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “phá sản” được biết đến từ thời kì Pháp thuộc do
người pháp đem sang Việt Nam trong quá trình thực dân hóa. Theo cách nói thông
thường, phá sản là tình trạng của một người bị vỡ nợ không còn bất cứ tài sản nào
để trả các khoản nợ đến hạn. Dưới góc độ pháp lý, phá sản là hiện tượng người mất
nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ và bị cơ quan tư pháp
có thẩm quyền (Tòa án) tuyên bố phá sản và phân chia tài sản còn lại của người mất
nợ cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật quy định bởi Tổ quản lý thanh lý tài sản.
Thuật ngữ “phá sản” chỉ thực sự được sử dụng kể từ khi có sự chuyển đổi cơ cấu
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thi trường. Theo đó, hiện tượng
phá sản dưới tác động của cạnh tranh đã trở thành hiện tượng bình thường và tất
yếu.

2
Phạm Duy Nghĩa - Giáo trình Luật Kinh Tế - NXB Công an nhân dân năm 2010, trang 385
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 5 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

Thuật ngữ “phá sản” tuy được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ hàng ngày và
khoa học pháp lý song cho đến thời gian hiện tại thì thuật ngữ này vẫn chưa chính

thức được giải thích trong các văn bản pháp luật của nước ta. Thay vào đó là thuật
ngữ “lâm vào tình trạng phá sản” thì được sử dụng và giải thích. Theo quy định
của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì doanh nghiệp “lâm vào tình trạng phá
sản” là doanh nghiệp gặp khó khăn hay thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi
đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng từ khái niệm nêu trên chưa sát với bản chất
của hiện tượng phá sản, Cho đến khi Luật Phá sản 2004 ra đời thì khái niệm này
được sửa đổi, theo đó doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm và tình trạng phá sản
khi không có khả năng thanh toán được nợ đến hạn mà chủ nợ có yêu cầu. Theo
hướng dẫn tại mục 2 phần I Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của
Hội Đồng Thẩm Phán Tòa án Nhân Dân Tối Cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật Phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản
khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Các khoản nợ đến hạn: các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có
bảo đảm hoặc có một phần bảo đảm (chỉ tính phần không có bảo đảm), đã rõ ràng,
được các bên xác nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh
chấp;
- Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán các khoản nợ đến hạn, nhưng doanh
nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán. Chủ nợ yêu cầu phải có căn cứ
chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu nhưng không được doanh nghiệp, hợp tác xã
thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp hợp
tác xã…).
Như vậy đối với chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng
phá sản khi các doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản (quy
định tại Điều 3 Luật Phá sản 2004).
Chủ nợ chỉ cần chứng minh được là mình có khoản nợ đến hạn, đã có yêu
cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán hoặc
là khất nợ nhiều lần nhưng vẫn chưa hoàn được, chủ nợ không cần thiết phải chứng
minh nguyên nhân doanh nghiệp hợp tác xã mất nợ không thanh toán được và điều

đó có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã đó phải tự chứng minh là có hay không
việc lâm vào tình trạng phá sản. Bản chất của “tình trạng phá sản” là việc con nợ
không có khả năng thanh toán các món nợ thanh toán đến hạn của mình. Về cơ bản,
khi con nợ ngừng trả nợ thì coi như đã lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ đã
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 6 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

có cơ sở pháp lý để làm đơn yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết vụ việc phá sản mà
họ chính là nguyên đơn.
Tuy nhiên khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì không
nhất thiết họ phải chấm dứt hoạt động và sự tồn tại của doanh nghiệp hợp tác xã đó.
Nó chỉ bị chấm dứt hoạt động và bị tuyên bố phá sản sau khi chủ nợ có đơn yêu cầu
Tòa án tuyên bố phá sản và có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu
lực của Tòa án có thẩm quyền. Nó sẽ không còn cơ hội được phục hồi và phải xóa
đăng kí kinh doanh sau khi đã hoàn tất thủ tục thanh toán. Điều đó có thể hiểu theo
cách khác là doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản vẫn có cơ hội
phục hồi hoạt động kinh doanh thông qua một hội nghị được gọi là hội nghị chủ nợ.
Chính vì vậy về mặt pháp lý, việc xác định thời điểm doanh nghiêp, hợp tác
xã bị coi lâm vào tình trạng phá sản là rất quan trọng đối với cả chủ nợ lẫn bản thân
doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ. Nếu việc xác định thời điểm coi doanh nghiệp
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản quá trễ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền lợi của các chủ nợ trong cơ hội đòi nợ. Cho nên, việc xác định tiêu chí nào để
xác định doanh nghiệp hợp tác xã rơi vào tình trạng phá sản và có thể bị khởi kiện
ra Tòa án để tiến hành xử lý theo thủ tục phá sản có ý nghĩa cực kì quan trọng đối
với một văn bản Luật Phá sản.
1.2 Lịch sử hình thành Luật Phá sản
1.2.1 lịch sử hình thành Luật Phá sản trên thế giới
Vào thời La Mã cổ đại, khi các thương gia La Mã bị thua lỗ, không thanh
toán được nợ thì thường bị các chủ nợ dùng biện pháp cưỡng chế hết tài sản và bắt

làm nô lệ. Tuy nhiên, việc thanh toán nợ theo cách này đã phát sinh những trường
hợp phức tạp và khó tự giải quyết giữa các bên liên quan, nhất là khi một thương
gia thiếu nợ nhiều thương gia khác. Lúc này, thương gia bị vỡ nợ không thể làm nô
lệ cho nhiều thương gia chủ nợ cùng một lúc. Đồng thời, các thương gia chủ nợ lại
thường xảy ra tranh chấp khi tổng số tài sản còn lại của thương gia bị vỡ nợ không
đủ để thanh toán cho tất cả các thương gia chủ nợ. Hậu quả của sự tranh chấp này
đã gây mất trật tự xã hội, làm phát sinh những xung đột, ảnh hưởng xấu đến tình
đoàn kết và trật tự công cộng.
Bởi thế, các thương gia liên quan nhận thấy rằng, để các chủ nợ đều được
đảm bảo trả nợ một cách công bằng và hợp lý, tốt nhất là Tòa án địa phương của
thương gia bị vỡ nợ rồi phân chia các tài sản này cho các thương gia chủ nợ tùy
theo vốn, lãi của mỗi người. Giải pháp này lúc đó được các thương gia chủ nợ đồng
tình và tỏ ra có hiệu quả. Do đó, về sau những quy định trong giải pháp này được
cải tiến và nâng lên thành Luật Phá sản thời La Mã cổ đại.
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 7 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

Do vậy, các quy định về phá sản phát sinh rất sớm. Lịch sử phá sản của thế giới
ghi nhận rằng Italia là nước khai sinh ra đạo Luật Phá sản đầu tiên từ thời kì La Mã.
Vào thời Trung quốc, các quốc gia Châu Âu cũng ban hành Luật Phá sản.
Lúc đầu luật này chỉ được áp dụng vào lĩnh vực hoạt động thương nghiệp, sau đó
mới mở rộng sang nhiều lĩnh vực sản xuất.
Luật Phá sản liên quan đến nhiều mặt của cuộc sống kinh tế xã hội, cho nên
từ những năm 70 đến nay nhiều nước đã cải tiến và hiện đại hóa Luật Phá sản của
mình nhằm ngăn chặn được càng nhiều doanh nghiệp khỏi bị phá sản càng tốt.
1.2.2 Lịch sử hình thành Luật Phá sản tại Việt Nam
Tại Việt Nam, pháp luật Phá sản cũng phát triển qua các thời kì khác nhau.
Chúng ta tạm chia ra hai giai đoạn: trước khi đất nước thống nhất và sau khi đất
nước được thống nhất.

- Giai đoạn trước khi đất nước thống nhất
Sau năm 1864, Người Pháp áp dụng bộ luật thương mại pháp vào miền nam
nước ta, bất chấp quy chế tự quản giả hiệu của xứ bảo hộ. Sau hòa ước giáp thân
1884 đạo luật này được áp dụng cho cả bắc kỳ và sau năm 1892 tất cả các Tòa án
pháp tại trung kỳ. Về lý thuyết, Bộ Luật Thương mại pháp chỉ chính thức hết hiệu
lực ở Miền Nam sau ngày 20/12/1972 khi chính quyền Việt Nam cộng hòa ban
hành Luật Thương mại thay thế. Là một phần của Luật Thương mại pháp, pháp luật
về phá sản và thanh toán tư pháp được áp dụng trực tiếp vào nước ta, mà không có
một thử nghiệm đáng kể nào để chuyển hóa chúng thành tiếng việt trong suốt một
nửa thế kỷ đầu tiên của thời kỳ đô hộ.
Bộ Luật Thương mại trung phần có hiệu lực từ ngày 25/01/1944 và chính
thức hết hiệu lực ở Việt Nam ngày 20/12/1972, ban hành ngày 12/6/1942 theo dụ số
46 của Bảo Đại là đạo luật thương mại đầu tiên của người Việt Nam
3
. Vay mượn từ
pháp luật phá sản của pháp, Bộ Luật này phân biệt giữa hai quy chế là “khánh tận”
hay “phá sản” và “thanh toán tư pháp”.
Thứ nhất, về “khánh tận” hay “phá sản”: thương gia vỡ nợ được coi như là
tội phạm và có thể bị bắt giam
4
. Kèm theo quy chế khánh tận là một số tội danh,
tiêu biểu là tộị tiểu hình liên quan đến khánh tận
55
.
Như vậy, quy chế “khánh Tận” theo Bộ Luật Thương mại trung phần không
áp dụng cho vỡ nợ dân sự. Kết thúc “khánh tận”, đạo luật này chỉ được dự liệu một

3
Bộ Luật Thương Mại trung phần Có hiệu lực từ ngày 25/01/1944 và chính thức hết hiệu lực ở Việt Nam
ngày 20/12/1972

4
Điều 189, Bộ Luật Thương mại trung phần
5
Điều 253-255, Bộ Luật Thương mại trung phần
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 8 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

giải pháp duy nhất là phát mại sản nghiệp.
66
Người “khánh tận” ngoài việc bị mất
quyền quản trị, tài sản bị niêm phong, còn bị tước quyền bầu cử, bị cấm một số
hành vi kinh doanh và quản lý. Ngoài ra, án “khánh tận” được ghi vào lý lịch tư
pháp của người vỡ nợ.
7

So với “khánh tận”, “thanh toán tư pháp” là một thủ tục mang tính khoan
hồng so với người vỡ nợ ngay tình. Khi lâm vào tình trạng không trả được nợ, con
nợ ngay tình có thể nộp đơn yêu cầu thụ lý vụ án “thanh toán tư pháp”. Theo trình
tự này, người mắc nợ được hưởng một vài quy chế giảm nhẹ như: không bị bắt
giam, không bị mất quyền quản trị, mà được tiếp tục chiếm giữ và quản lý sản
nghiệp dưới sự giám sát của kiểm soát viên do Tòa án ấn định; tiếp tục được hành
nghề và thực hiện các hành vi mà Tòa án cho phép; có thể thỏa hiệp với các chủ nợ,
Tòa án sẽ ban hành án công nhận và thỏa hiệp này.
Tuy nhiên, nếu có dấu hiệu gian tình, thủ tục “thanh toán tư pháp” có thể
chuyển thành một vụ “khánh tận”.
Năm 1972, Bộ Luật Thương mại được chính quyền Việt Nam cộng hòa ban
hành. Luật này chủ yếu dựa vào một mô hình pháp luật phá sản pháp. Do đó, hai thủ
tục “khánh tận” và “thanh toán tư pháp” vẫn được duy trì, áp dụng riêng cho
thương nhân. Tuy nhiên, do được ra đời trong thời kì chiến tranh, đạo luật này hầu

như chỉ có giá trị sử liệu, ít có ảnh hưởng thực tế.
- Giai đoạn từ đất nước thống nhất đến nay
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chủ thể kinh tế chủ yếu là các
doanh nghiệp quốc doanh, được Nhà nước thành lập trên cơ sở tài sản thuộc sở hữu
của Nhà nước. Nhà nước kiểm soát và định đoạt mọi nguồn lực sản xuất, hoạt động
trong quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Do đó, lúc bấy giờ không có sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì nộp vào
ngân sách Nhà nước. Ngược lai, nếu doanh nghiệp bị thua lỗ thi Nhà nước bù lỗ. Do
vậy, doanh nghiệp quốc doanh, hợp tác xã lúc bấy giờ không thể mất khả năng
thanh toán. Do đó, pháp luật về phá sản không có chỗ tồn tại.
Khi mở cửa thị trường, tự do kinh doanh và cạnh tranh xuất hiện. Lúc này,
phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại một cách tất yếu và khách quan.
Tuy nhiên, mãi đến năm 1993, Luật Phá sản mới được quốc hội thông qua
8
. Luật
này chỉ được áp dụng cho doanh nghiệp phá sản trong quá trình kinh doanh, không
áp dụng cho cá nhân vỡ nợ dân sự, không tuyên bố xóa nợ, không phân chia tái tổ

6
Điều 224, Bộ Luật thương mại trung phần 1944
7
Điều 201, Bộ Luật thương mại trung phần 1944
8
Thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực ngày 01/07/1994. Tiếp theo, chính phủ ban hành nghị định số
189/CP ngày 23/12/1993 hướng dẫn thi hành luật này
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 9 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

chức và thanh lý sản nghiệp như là hai sự lựa chọn cơ bản cho chủ nợ và doanh

nghiệp bị mắc nợ.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993
đã rất ít được sử dụng trong thực tế. Chính vì thế, ngày 15/5/2004 quốc hội đã ban
hành Luật Phá sản thay thế cho Luật Phá sản nêu trên. Luật Phá sản 2004 bắt đầu có
hiệu lực từ ngày 15/10/2004.
1.3 Sự tác động của phá sản đối với nền kinh tế thị trường
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó thường kéo
theo nhiều hậu quả kinh tế xã hội nhất định, nó tác động đến nhiều mặt của đời sống
kinh tế xã hội và pháp luật.
1.3.1 Tác động tích cực
Chúng ta có thể khẳng định rằng, phá sản không chỉ có những ảnh hưởng
tiêu cực mà còn có nhưng ảnh hưởng tích cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã
hội.
Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp kinh tế hữu hiệu để “Cơ cấu
lại” nền kinh tế, phá sản góp phần hình thành duy trì sự tồn tại của những doanh
nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện kinh doanh ngày càng nghiệt ngã. Phá sản
giữ một vai trò đặc biệt quan trọng để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu
quả ra khỏi nền kinh tế, giữ lại những doanh nghiệp mà ở chúng có sức cạnh tranh
tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã chứng minh rằng trong nền kinh tế thị trường
chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sự cạnh tranh bao giờ cũng đem
lại những kết cục nghiệt ngã nhưng nó lại là quy luật của nền kinh tế thị trường nơi
mà ở đó lợi nhuận là trung tâm cạnh tranh là động lực.
Bên cạnh những ảnh hưởng đã trình bày ở trên phá sản còn tác động đến
nhiều Ngành Luật như Dân sự, Hình sự….Bởi vì, khi tiến hành giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau. Chẳng hạn như các
doanh nghiệp bị phá sản thường Tòa án xét xử các vụ tranh chấp về công nợ giữa
chủ nợ và con nợ nếu chúng không thỏa thuận được với nhau và như vậy phá sản
liên quan đến Dân sự, hoặc trong trường hợp con nợ cố tình gian lận trong phá sản
phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu phát
hiện có dấu hiệu phạm tội thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát nhân

dân (VKSND) xem xét để xem xét khởi tố hình sự, ở đây rõ ràng phá sản đã liên
quan đến Hình Luật
9
……
Tóm lại, Phá sản là một hiện tượng phức tạp, nó làm ảnh hưởng đến nền
chính trị. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực riêng phá sản cũng giải quyết được một số

9
Khoản 3 Điều 8, Luật phá sản 2004
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 10 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

vấn đề lớn về kinh tế và xã hội, đó cũng là một giải pháp hữu ích để giúp doanh
nghiệp thoát khỏi tình trạng nặng nề về cả vật chất lẫn tinh thần, tránh tình trạng
gây sức ép cho các con nợ. Trong nền kinh tế thị trường cần phải xem xét phá sản là
hiện tượng lành mạnh tất yếu, nó là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường và nền
kinh tế này chấp nhận là một lẽ đương nhiên.
1.3.2 Tác động tiêu cực
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường bắt buộc chúng ta phải nhìn nhận phá
sản là một hiện tượng xã hội tiêu cực khi xem xét các tác động của chúng trên các
phương diện sau:
- Về kinh tế: sự phá sản của một doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay phần
lớn đưa đến những hậu quả tiêu cực. Nhiều doanh nghiệp phải gánh chịu những hậu
quả to lớn khi đối tác làm ăn của mình bị phá sản. Khi quy mô của doanh nghiệp bị
phá sản càng lớn, tham gia vào quá trình phân công lao động của ngành càng sâu
rộng, số lượng bạn hàng càng đông thì sự phá sản của nó có thể dẫn tới sự phá sản
hàng loạt các doanh nghiệp bạn hàng theo “hiệu ứng Domino” phá sản dây chuyền.
- Về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại hậu quả tiêu cực cho xã hội.
Trước hết phá sản doanh nghiệp làm tăng số lượng người thất nghiệp và làm cho

sức ép về việc làm càng lớn, đặc biệt là các khu đô thị lớn và các khu công nghiệp.
Trên thực tế, gánh nặng giải quyết việc làm, đào tạo lại nghề cho những người thất
nghiệp và trợ cấp thất nghiệp lại được chuyển giao cho Nhà nước. Mặt khác tỉ trọng
người thất nghiệp cao do phá sản luôn ẩn chứa những nguy cơ bất ổn về mặt xã hội
và nếu như không giải quyết kịp thời thời sẽ trở thành nguyên nhân của các tệ nạn
xã hội.
-Về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thoái và khủng hoảng
nền kinh tế quốc gia, thậm chí là khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là nguyên
nhân dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị.
Phá sản với tính cách là một hiện tượng tiêu cực cần phải được hạn chế và
ngăn chặn tới mức tối đa. Nói cách khác, phá sản phải được xem là sự lựa chọn cuối
cùng và duy nhất của nhà nước đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
1.4 Mục đích của việc xây dựng Luật Phá sản trong nền kinh tế thị
trường
Trong nền kinh tế thị trường thì cạnh trạnh là một vấn đề vô cùng quan trọng,
nó không chỉ quyết định đến sự tồn tại của môt doanh nghiệp mà con thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường đã để lại phía sau những hậu
quả ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế - chính trị xã hội, một trong những vấn
đề có liên quan đến phá sản. Chính vì vậy, pháp Luật Phá sản có vai trò hết sức
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 11 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

quan trọng, không chỉ góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của những chủ thể tham
gia quan hệ phá sản mà còn tăng cường ổn định trật tự xã hội thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
1.4.1 Bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ
Khi mới hình thành, Luật Phá sản chủ yếu được áp dụng cho các thương gia
nhằm bảo vệ lợi ích cho các chủ nợ. Ví dụ: Luật Phá sản đầu tiên ở nước Anh đã
quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt kể cả bỏ tù con nợ.

10

Đồng thời với quá trình dân chủ hoá các hoạt động kinh tế, nhất là xu thế mở
rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản ngày càng có
xu hướng nhân đạo hóa các biện pháp áp dụng đối với chủ doanh nghiệp bị phá sản,
phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của con nợ. Tuy nhiên, lợi ích của các
chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu.
Sự bảo vệ của pháp luật về phá sản đối với các chủ nợ thể hiện ở chỗ: pháp
luật cho phép các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã
11
; chủ nợ có quyền tham gia để giải quyết những vấn đề quan trọng của
doanh nghiệp mà liên quan đến lợi ích của mình trong quá trình giải quyết việc phá
sản. Chẳng hạn, lợi ích của chủ nợ được bảo đảm bằng việc pháp luật cho phép các
chủ nợ đều được tham gia vào hội nghị chủ nợ, được cử đại diện của mình tham gia
vào Tổ quản lí, thanh lí tài sản
12
…Hơn nữa, trong quá trình giải quyết, pháp Luật
Phá sản còn đưa ra các cơ chế cho phép các chủ nợ có khả năng bảo vệ tối đa lợi ích
của mình như: kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh, hành vi của con nợ,
13

tham gia giải quyết các vấn đề liên quan trực tiếp tới quyền lợi của mình, khiếu nại
các quyết định của Tòa án… Tất cả nhằm mục đích bảo vệ tối đa khả năng thu hồi
nợ.
Ngoài ra, vai trò của Luật Phá sản trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ nợ (ở chừng mực nhất định còn nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của người
lao động)
14
: kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm

doanh nghiệp, hợp tác xã cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm
hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm bằng nợ có
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sau khi nhận được quyết định
mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của
Thẩm phán trước khi thực hiện những hoạt động sau: Cầm cố, thế chấp, chuyển

10
Nguyễn Thị Khế, Bùi Thị Khuyên - Luật kinh doanh (luật kinh tế) - NXB Thống kê năm 2002, trang 295.
11
Khoản 1 Điều 13, Luật phá sản 2004
12
Điều 9, Điều 62 Luật phá sản 2004
13
Điều 64, Luật phá sản 2004
14
Điều 3, Luật phá sản 2004
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 12 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển
nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ
phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ phát sinh từ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động
trong doanh nghiệp, hợp tác xã.
Để bảo vệ tuyệt đối quyền lợi cho các chủ nợ, Luật Phá sản còn cho phép chủ
nợ có bảo đảm còn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện trong khoản thời gian
ba tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu:
Tặng cho động sản và bất động sản cho người khác; thanh toán hợp đồng song vụ

trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn hơn phần nghĩa
vụ của bên kia; thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn; Thực hiện việc thế chấp,
cầm cố tài sản đối với các khoản nợ; các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản
của doanh nghiệp, hợp tác xã là vô hiệu.
15
Khi các giao dịch này bị tuyên bố vô hiệu
thì những tài sản thu hồi được phải được nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã. Thêm vào đó, trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu xét thấy việc
đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa
được thực hiện sẽ có lợi hơn cho doanh nghiệp, hợp tác xã thì chủ nợ cũng có quyền
yêu cầu Tòa án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Pháp luật phá sản đã quy định chặt chẽ về thủ tục pháp lí trong việc đảm bảo
sự bình đẳng quyền lợi giữa các chủ nợ, không cho phép chủ nợ nào được tự ý đi
kiện riêng lẻ con nợ để đòi nợ, không một chủ nợ nào được ưu tiên trả nợ trong khi
các chủ nợ khác chưa được trả (trừ chủ nợ có bao đảm đặc biệt cho món nợ của
mình, chủ nợ có tài sản cầm cố, thế chấp).
1.4.2 Bảo vệ lợi ích của con nợ
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh, không một nhà kinh doanh nào lại
không muốn làm ăn có hiệu quả, thu lợi nhuận cao. Nhưng có thể là vì lý do nào đó,
như sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý, thiếu khả năng thích ứng với nhưng
biến động về thị trường, vi phạm những chế độ, thể chế quản lý kinh tế, tài
chính…nên doanh nghiệp không thể cạnh tranh nỗi với các doanh nghiệp khác, đi
đến lâm vào tình trạng phá sản. Vì vậy, pháp luật cũng có những quy định để bảo vệ
lợi ích chính đáng của con nợ.
Pháp Luật Phá sản hướng tới bảo vệ lợi ích của co nợ như: giảm bớt gánh
nặng tài chính (bằng việc ấn định thời điểm ngừng trả nợ, tạo điều kiện cho con nợ
thương lượng với chủ nợ để xóa nợ, giảm nợ, mua nợ…), hạn chế những hành vi

15
Điều 43, Luật Phá sản 2004

Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 13 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

pháp lý chống lại con nợ từ phía các chủ nợ vào một khuôn khổ chung trong quá
trình đòi nợ. Con nợ được tạo ra cơ chế phục hồi hoạt động kinh doanh, pháp luật
phá sản còn đưa ra cơ chế giúp cho việc thanh lý tài sản của con nợ được nhanh
nhất và giải phóng con nợ khỏi trách nhiệm thanh toán đối với các chủ nợ.
Ngoài ra, Luật Phá sản còn có quy định đến việc xử lý các khoản nợ chưa đến
hạn của con nợ. Đó là trong trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh
lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm
mở thủ tục thanh lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính
lãi đối với thời gian chưa đến hạn.
1.4.3 Bảo vệ lợi ích của người lao động trong Luật Phá sản
Phá sản không những gây ảnh hưởng xấu cho chủ nợ, cho doanh nghiệp mà
còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động trong doanh nghiệp, họ sẽ không
có việc làm để đảm bảo cuộc sống. Có thể nói rằng người lao động là chủ nợ không
có bảo đảm và là chủ nợ nghèo nhất. Vì vậy, pháp Luật Phá sản cần phải bảo vệ lợi
ích cho người lao động.
Theo quy định của hầu hết các nước trên thế giới, trong quá trình giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, người lao động có quyền cử đại diện tham
gia để bảo vệ lợi ích cho chính mình, tiền lương và các khoản nợ chính đáng khác
của họ bao giờ cũng thuộc diện ưu tiên trong thứ tự phân chia tài sản của doanh
nghiệp và những người lao động trong doanh nghiệp bị phá sản thường được tạo ra
cơ hội tìm việc làm mới.
Theo quy định: “Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được
lương, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoăc thông qua
đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã đó”.

16
Trong trường hợp này người lao động sẽ được miễn phí phá sản.
Pháp Luật Phá sản bảo vệ lợi ích của người lao động còn được thể hiện thông
qua việc phân chia tài sản. Người lao động được ưu tiên thanh toán trước chỉ sau
việc nộp phí phá sản. Như vậy, pháp luật về phá sản xác định cơ sở pháp lý cho việc
bảo vệ lợi ích hợp pháp đồng thời hạn chế những thiệt thòi về vật chất mà sự phá
sản mang lại cho người lao động.
Bên cạnh đó, vai trò của pháp luật về phá sản hiện hành còn được thể hiện rõ
ràng qua các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh (thủ tục phuc hồi hoạt động
kinh doanh) nhằm cứu giúp con nợ vượt qua khỏi tình trạng phá sản. Nếu doanh
nghiệp, hợp tác xã thực hiện xong phương án phục hồi kinh doanh thì Thẩm phán sẽ

16
Điều 14, Luật Phá sản 2004.
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 14 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và khi đó doanh nghiệp, hợp tác xã
được coi là không lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này Luật Phá sản
cùng lúc bảo vệ được ba mục tiêu: bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ (các chủ nợ sẽ
được thanh toán hết nợ); bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp mắc nợ (doanh nghiệp
không bị đào thải khỏi nền kinh tế thị trường); bảo vệ quyền lợi người lao động
(người lao động không bị mất công ăn, việc làm).
1.4.4 Bảo vệ kỷ cương xã hội
Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, có quá nhiều chủ nợ nhưng lại có quá ít
tài sản để thanh toán thì việc các chủ nợ tranh giành nhau tài sản của con nợ là điều
có thể rất xảy ra. Những hành vi tranh giành tài sản có thể là hợp pháp cũng có thể là
bất hợp pháp. Nếu không có sự can thiệp của pháp luật hoặc sự can thiệp không hiệu
quả thì những hành vi bất hợp pháp của các chủ nợ rất dễ xảy ra, gây ra tình trạng bất

ổn định trong xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần có biện pháp can thiệp vào việc đòi nợ
này nhằm tránh được các hậu quả tiêu cực trên. Thủ tục phá sản chính là một công cụ
pháp lý có khả năng giúp Nhà nước đưa ra được nhiều cơ chế để thực hiện được việc
thanh toán nợ một cách công bằng giữa các chủ nợ. Căn cứ vào những quy định trong
pháp luật về phá sản, Tòa án sẽ thay mặt nhà nước đứng ra giải quyết một cách công
bằng, khách quan những xung đột về lợi ích giữa các chủ nợ con nợ và điều đó cũng
góp phần bảo đảm được trật tự, kỷ cương trong xã hội.
1.5 Khái quát chung về hội nghị chủ nợ
Theo Trần Huỳnh Thanh Nghị - Giảng viên trường đại học kinh tế Thành Phố
Hồ Chí Minh, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản thì tất cả các chủ nợ phải
tập hợp thành một chủ thể pháp lý duy nhất để bảo vệ quyền lợi của mình gọi là hội
nghị chủ nợ. Hội nghị này sẽ đại diện cho tất cả các chủ nợ tham gia vào việc giải
quyết phá sản. Căn cứ vào Luật Phá sản 2004, thủ tục phá sản được áp dụng đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: nộp đơn yêu cầu và
mở thủ tục phá sản; phục hồi hoạt động kinh doanh; thanh lý tài sản, các khoản nợ;
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng
thực hiện tất cả các thủ tục nêu trên. Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn
cứ vào quy định cụ thể tại Điều 5 của Luật Phá sản năm 2004, Thẩm phán sẽ quyết
định áp dụng một trong hai thủ tục quy định tại điểm b, điểm c, khoản 1 Điều này
là: thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc thủ tục
thanh lý tài sản và các khoản nợ. Trong trường hợp đã ra quyết định phục hồi hoạt
động sản xuất kinh doanh thì Thẩm phán cũng có quyền quyết định chuyển từ áp
dụng thủ tục này sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 15 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

Điều này không có nghĩa là khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản đều phải bị tuyên bố phá sản ngay, mà để cứu vãn tình trạng phá sản, pháp

luật đưa ra biện pháp cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ hòa giải với các
chủ nợ và tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh. Phá sản là hiện tượng mà cả
chủ nợ, con nợ và người lao động đều không mong muốn. Vì vậy, việc tạo ra cơ hội
cũng như tìm ra các biện pháp để ngăn chặn nó là điều cần thiết, và thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh chỉ được thực hiện sau khi đã thông qua nghị quyết đồng ý
với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ và yêu
cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh thông qua một hội nghị gọi là hội nghị chủ nợ.
Hội nghị chủ nợ là cơ sở quyền lực cao nhất của các chủ nợ do Tòa án triệu
tập và chủ trì. Việc tổ chức hội nghị chủ nợ trước hết là nhằm đảm bảo cho việc giải
quyết một cách bình đẳng lợi ích kinh tế của các chủ nợ trong quan hệ với doanh
nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản và giữa họ với nhau. Hội nghị chủ nợ được triệu
tập khi Tòa án tiến hành phá sản.
17

Hội nghị chủ nợ là cơ sở duy nhất của các chủ nợ được thành lập để giải
quyết một cách công bằng các vấn đề liên quan đến lợi ích của chủ nợ. Bản thân con
nợ có được tiếp tục tồn tại để kinh doanh nữa hay không là tùy thuộc vào các ý chí
của các chủ nợ. Các chủ nợ sẽ biểu quyết ý kiến này thông qua hội nghị chủ nợ.
Pháp luật của các quốc gia đều coi trọng vai trò của chủ nợ và hội nghị chủ nợ trong
quá trình giải quyết phá sản. Theo Luật Phá sản Việt Nam, hội nghị chủ nợ là chủ
thể quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản. Hội nghị chủ nợ giúp cho doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể phục hồi (chứ không phải như là các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định phục hồi hoạt động kinh doanh mà không
cần thông qua hội nghị chủ nợ như đối với doanh nghiệp đặc biệt, doanh nghiệp tài
chính….).
18
Tóm lại, tổ chức hội nghị chủ nợ nhằm giúp cho các doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản có thể phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
mình.

Mục đích của việc triệu tập hội nghị chủ nợ chính là nhằm để cho các chủ
nợ đều đạt được nguyện vọng của mình, đảm bảo quyền lợi cho chủ nợ. Đồng
thời, đây cũng là việc quyết định cơ bản sự sống còn của doanh nghiệp
19
. Hội nghị
chủ nợ là lựa chọn một giải pháp an toàn cho các bên, một mặt giúp cho các doanh
nghiệp, hợp tác xã có cơ hội thoát khỏi tình trạng phá sản. Mặt khác, giải quyết

17
Vũ Hoàng Châu - Trích cẩm nang pháp luật trong kinh doanh - NXB Hà Nội năm 2005
18
Điều 78, Luật Phá Sản 2004
19
TSKH.LS Đặng Công Tráng chủ nhiệm bộ môn pháp luật ĐHCN.Tp Hồ Chí Minh - Pháp luật về phá sản
doanh nghiệp - Chương 6.
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 16 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

công bằng và nhanh gọn việc thanh lý tài sản và thanh toán nợ trong trường hợp
doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Hội nghị chủ nợ có vai trò hết sức
quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
có thể phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 17 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ

2.1 Triệu tập hội nghị chủ nợ
2.1.1 Thời điểm triệu tập hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ là hội nghị được tổ chức nhằm để đảm bảo cho việc giải
quyết về lợi ích kinh tế cho các chủ nợ một cách bình đẳng, còn đối với con nợ thì
có thể được phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên,
bản thân con nợ có được tiếp tục tồn tại để kinh doanh nữa hay không là tùy thuộc
vào các ý chí của các chủ nợ, trị giá tài sản và khả năng phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Chính vì thế, việc
kiểm kê tài sản và lập danh sách các chủ nợ là vô cùng cần thiết và quan trọng đối
với việc tổ chức hội nghị chủ nợ.
Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán triệu tập để giải quyết các nội dung được
quy định tại Điều 64 Luật Phá sản. Thời điểm triệu tập hội nghị chủ nợ lần thứ
nhất phụ thuộc vào hai sự kiện pháp lý quan trọng là lập danh sách chủ nợ và việc
kiểm kê tài sản. Trong thời hạn 30 ngày (ba mươi ngày), kể từ ngày nhận được
quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản phải tiến hành kiểm kê toàn bộ tài sản theo bảng kê chi tiết đã nộp cho Tòa án
và xác định giá trị của các tài sản đó. Thủ tục và thành phần kiểm kê tài sản phải
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã cần có
thời gian dài hơn thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn, nhưng không
quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày (ba mươi ngày). Trong thời hạn 15 ngày
(mười lăm ngày), kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi nợ, Tổ quản lý, thanh lý tài sản
phải lập xong danh sách chủ nợ và số nợ. Trong danh sách này phải ghi rõ các
khoản nợ có bảo đảm, nợ không có bảo đảm, nợ đến hạn, nợ chưa đến hạn. Danh
sách chủ nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án tiến hành thủ tục phá
sản và trụ sở chính của doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn 10 ngày (mười
ngày), kể từ ngày niêm yết. Sau khi cả hai việc này hoàn tất thì hội nghị chủ nợ
mới có thể được tiến hành. Theo đó, tại khoản 1 Điều 61 Luật Phá sản quy định:
+ Trường hợp nếu việc kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản kết thúc trước ngày lập xong danh sách chủ nợ trong thời
hạn 30 ngày (ba mươi ngày) kể từ ngày lập xong danh sách chủ nợ, Thẩm phán

phải triệu tập hội nghị chủ nợ.
+ Nếu việc kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản kết thúc sau ngày lập xong danh sách chủ nợ thì hội nghị chủ nợ được tiến
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 18 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

hành trong thời hạn 30 ngày (ba mươi ngày) kể từ ngày kiểm kê xong tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Đối với thời điểm triệu tập hội nghị chủ nợ lần tiếp theo, theo khoản 2
Điều 61 Luật Phá sản thì các hội nghị chủ nợ tiếp theo có thể được Thẩm phán
triệu tập vào bất kì ngày làm việc nào trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản
theo đề nghị của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, hoặc của các chủ nợ đại diện cho ít
nhất 1/3 (một phần ba) tổng số nợ không có bảo đảm.
Như vậy, trong thời hạn 30 ngày (ba mươi ngày) kể từ ngày lập xong danh
sách chủ nợ hoặc kể từ ngày kê biên tài sản (nếu việc kiểm kê tài sản hoàn thành
sau việc lập xong danh sách chủ nợ) thì Thẩm phán phải ra quyết định triệu tập hội
nghị chủ nợ. Sau khi đã tổ chức xong hội nghị chủ nợ, nếu xét thấy cần tổ chức
thêm hội nghị chủ nợ tiếp theo, theo đề nghị của Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoặc
chủ thể có quyền yêu cầu nộp đơn mở thủ tục phá sản đại diện cho ít nhất 1/3 (một
phần ba) tổng số nợ không có bảo đảm thì Thẩm phán có thể triệu tập hội nghị chủ
nợ vào bất kỳ thời gian nào. Thời hạn gửi giấy triệu tập hội nghị chủ nợ chậm nhất
là 15 ngày (mười lăm ngày) trước ngày khai mạc hội nghị chủ nợ, đi kèm với giấy
triệu tập hội nghị chủ nợ phải có chương trình hội nghị chủ nợ, nội dung của hội
nghị chủ nợ và các tài liệu khác (nếu có).

Quy định này nhằm đảm bảo cho những
người có quyền cũng như những người có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ có
đủ thời gian cần thiết để nghiên cứu các tài liệu và bố trí, sắp xếp thời gian hoặc
thậm chí phải đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản. So với Luật Phá sản Doanh

nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 không yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác
xã phải có bản sao phương án hòa giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp,
20
đi kèm với giấy triệu tập hội nghị chủ nợ.
Khác với quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, hội nghị chủ
nợ theo quy định của Luật Phá sản 2004 không còn là thủ tục bắt buộc trong tiến
trình giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Khi tiến hành thủ tục phá sản,
Thẩm phán có thể không cần triệu tập hội nghị chủ nợ nếu thuộc trường hợp
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã được Nhà nước áp dụng biện
pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn không phục hồi được
và không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì Tòa án
ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp mà không cần phải
triệu tập hội nghị chủ nợ để xem xét việc áp dụng thủ tục phục hồi được quy định

20
Điều 27, Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993
Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 19 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

tại điều 78 của Luật phá sản 2004.
21
Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản mà không thuộc trường hợp được Nhà Nước áp
dụng biện pháp dặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh thì thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh chỉ được áp dụng nếu Thẩm phán triệu tập được hội nghị
chủ nợ đã thông qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động
kinh doanh. Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh sau khi hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với các

giải pháp tổ chức các lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các
chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh.
22

Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán triệu tập để giải quyết các nội dung quy
định tại Điều 64 của Luật Phá sản 2004. Nội dung là thảo luận về tình hình kinh
doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã; kết quả kiểm kê tài sản;
danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ và các nội dung khác nếu xét thấy cần
thiết do Tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản thông báo; thảo luận ý kiến của chủ
doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của chủ doanh nghiệp, hợp tác xã về các nội
dung của Tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản đã thông báo, cùng với các giải
pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, khả năng và thời hạn thanh toán nợ do
doanh nghiệp, hợp tác xã đề xuất thông qua nghị quyết hội nghị chủ nợ về các nội
dung đã được thảo luận.
Luật Phá sản năm 2004 có quy định cơ chế chủ nợ tham gia giải quyết phá
sản thông qua một thiết chế là hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ là cơ quan quyền
lực cao nhất của các chủ nợ, bao gồm các chủ nợ có trong danh sách chủ nợ, đại
diện cho người lao động hoặc đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền
có quyền quyết định những vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến các quyền lợi của
các chủ nợ. Đối với hội nghị chủ nợ lần tiếp theo, thì như tinh thần quy định tại
Luật Phá sản năm 2004 thì hội nghị chủ nợ do Thẩm phán triệu tập và chỉ có các
chủ nợ đại diện cho ít nhất 1/3 (một phần ba) tổng số nợ không có bảo đảm, Tổ
quản lý, thanh lý tài sản mới có quyền yêu cầu Thẩm phán triệu tập hội nghị chủ
nợ để giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ.
2.1.2. Điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ
Khác với thủ tục đòi nợ theo trình tự tố tụng dân sự, các chủ nợ thường đòi
nợ một cách riêng rẽ, độc lập, thì thủ tục phá sản thực sự là một thủ tục đòi nợ và

21

Tiến sĩ Nguyễn Văn Tý - Giáo trình Luật thương mại tập II, NXB Công an nhân dân - Hà Nội - Năm
2009
22
Điều 68, Luật Phá sản năm 2004

Những quy định của pháp luật về hội nghị chủ nợ theo Luật Phá Sản

GVHD: Phạm Mai Phương 20 SVTH: Ngô Thị Kim Yến

thanh toán nợ một cách tập thể. Điều đó có nghĩa là trong quá trình giải quyết vụ
việc phá sản, các chủ nợ không thể xé lẻ ra để đòi nợ riêng, mà tất cả đều phải tập
hợp thành một chủ thể pháp lý duy nhất gọi là hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ
này sẽ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết phá sản. Để
hội nghị chủ nợ được tiến hành một cách hợp lệ thì phải có đầy đủ điều kiện quy
định tại Điều 65 của Luật Phá sản năm 2004, cụ thể hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi
có đủ các điều kiện sau đây:
- Quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3 ( hai phần ba)
tổng số nợ không có bảo đảm tham dự.
- Có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ. Theo quy
định tại Điều 63 Luật Phá sản năm 2004 là những người nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản như là doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; chủ sở
hữu doanh nghiệp Nhà nước; các cổ đông của công ty cổ phần; thành viên hợp
danh của công ty hợp danh có nghĩa vụ tham gia vào hội nghị chủ nợ. Trường hợp
những người có nghĩa vụ tham gia mà không tham gia được thì phải ủy quyền
bằng văn bản cho người khác tham gia hội nghị chủ nợ. Người được ủy quyền có
nghĩa vụ như người ủy quyền. Còn đối với doanh doanh nghiệp tư nhân, nếu chủ
doanh nghiệp đã chết thì người thừa kế hợp pháp của doanh nghiệp đó phải tham
gia hội nghị chủ nợ.
23


Như vậy, so sánh giữa hai Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật
Phá sản năm 2004 ở đây có sự khác biệt đó là quy định về điều kiện tại Luật Phá
sản 2004 khắt khe hơn.
24
Đối với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì điều
kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ chỉ cần quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3
(hai phần ba) tổng số nợ không có bảo đảm, điều này cũng tức là nếu có quá nửa
số chủ nợ có bảo đảm một phần đại diện cho từ 2/3 (hai phần ba) tổng số nợ không
có bảo đảm trở lên tham gia thì hội nghị chủ nợ vẫn được tiến hành. Còn đối với
Luật Phá sản năm 2004 thì chỉ có chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ 2/3
(hai phần ba) tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia thì hội nghị chủ nợ
mới được tiến hành. Bên cạnh đó, Luật Phá sản 2004 còn được bổ sung thêm điều
kiện phải có sự tham gia của những người có nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ.
Theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 thì sự hiện diện của các chủ nợ có bảo
đảm một phần tại hội nghị chủ nợ không có ý nghĩa cho việc xem xét điều kiện

23
Trần Huỳnh Thanh Nghị, Bài giảng Pháp luật về chủ thể kinh doanh - Trường đại học kinh tế TP. Hồ Chí
Minh tháng 11 năm 2009.

24
Điều 30 Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 quy định về hội nghị chủ nợ có thể được hoãn một lần: 1. không
có quá nữa số chủ nợ đại diên cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm tham gia; 2. Đa số chủ nợ có mặt
ở hội nghị chủ nợ biểu quyết hoãn hội nghị chủ nợ.

×