Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tư tưởng mặc gia của Trung Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.27 KB, 13 trang )

MẶC GIA
 MỤC LỤC
Mở đầu
Nội dung
I. Khái quát về sự ra đời của Mặc Gia
1. Sự ra đời của Mặc Gia
2. Các tác phẩm tiêu biểu
II. Tư tương của Mặc Gia
1. Về Triết học
2. Về chính trị
III. Gía trị tư tưởng của Mặc Gia
1. Đối với Trung Quốc
2. Đối với phương Đông và Thế giới
Kết Luận
MỞ ĐẦU
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III TCN kéo dài tới
tận thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến.
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong
kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn
đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải
thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng
rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền
theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa thời cổ còn cống hiến
cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Nhiều trường phái triết học
lớn có ành hưởng quan trọng đến thế giới quan triết học sau này ở Trung Hoa và một số nước khác trong khu
vực đã ra đời trong thời đại này, trong đó có cả phái Mặc gia do Mặc Tử sáng lập. Tư tưởng của Mặc Tử đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu với nhiều công trình và khai thác dưới nhiều
góc độ khác nhau. Bài thuyết trình ngày hôm nay xin được trình bày về nội dung trong tư tưởng của Mặc
gia.
NỘI DUNG


I. Khái quát về sự ra đời của Mặc gia
1. Sự ra đời của Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc Tử, sáng lập thời Xuân Thu. Sang
thời Chiến Quốc đã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời
(Nho - Đạo - Mặc). Mặc Tử tên thật là Mặc Địch, người nước Lỗ, thời Chiến Quốc. Ông sinh ra và lớn lên
trong một gia đình tiểu thủ công (khoảng từ 479 -381 TCN). Ông là người vốn gần gũi thực tế xã hội với
người nhân dân lao động.
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm
này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải là do định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực
làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm Thiên
mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh.
Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết về nhận thức, có xu hướng duy
vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức.
Thuyết "Kiêm ái" là một chủ thuyết chính trị - xã hội mang đậm tư tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản
đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân sơ trong học thuyết "Nhân". Ông chủ trương
mọi người yêu thương nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp
Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên phương diện nhận thức luận.
Học thuyết "Mặc Tử" đã nêu lên gồm 10 chủ trương lớn (có thể nói là mười cương lĩnh chính trị của
ông), nội dung được chia thành mười loại: Thượng Hiền, Thượng Đồng, Tiết dụng, Tiết táng, Phi lạc, Phi
mệnh, Thiên chí, Minh quỹ, Kiêm ái, Phi công.
Tư tưởng Mặc gia phát triển cùng thời với Nho giáo, Đạo giáo,Pháp gia và là một trong bốn trường
phái triết học chính trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Tư tưởng của Mặc Gia là “Kiêm ái”. Chủ trương:"
Thiên hạ giai bạch, duy ngã độc hắc, phi công mặc môn, kiêm ái bình sinh". Các đệ tử đời sau kế nhiệm Mặc
Tử đều xưng là Cự Tử. Những đệ tử Mặc Gia muốn trở thành Cự Tử đều phải trải qua một cuộc sát hạch rất
khắc nghiệt để thể hiện khả năng của bản thân. Một đệ tử muốn trở thành Cự Tử thì phải là người văn võ
song toàn, có cả trí tuệ lẫn võ công cao cường. Trong thời Tần, Mặc Gia từng là gia tộc đứng đầu của Bách
Gia Chư Tử, lập ra một lực lượng chống Tần vương.
Trong thời đại đó, Mặc gia là trường phái đối lập với Nho giáo của Khổng Tử. Dưới thời nhà
Tần, Pháp gia được lấy làm tư tưởng chính thức và các trường phái khác đều bị đàn áp. Từ nhà Hán trở về
sau, các triều đại đều lấy Nho giáo làm tư tưởng chủ đạo, Mặc gia với tư cách là một trường phái riêng dần

dần suy tàn.
2.Các tác phẩm tiêu biểu của Mặc gia
Sách Hán chí ghi những sách của Mặc gia gồm 6 quyển, đó là các quyển Mặc tử, Doãn dật, Điền cầu
tử, Ngã tử, Tùy sào tử, Hồ phi tử.
Sách Mặc tử gồm 71 thiên. Ngày nay còn giữ lại được 53 thiên trong đó có hai thiên "Kinh thượng"
và "Kinh hạ" là do ông viết còn lại phần lớn là do các đệ tử, học trò dựa theo lời nói, bài giảng và những việc
làm của ông và các học giả Mặc Gia, ghi chép chỉnh lý thành sách.
53 thiên kể ra như sau :
Quyển 1 : 7 thiên :Thân sĩ, Tu thân, Sở nhiễm, Pháp nghi, Thất hoạn, Từ quá, Tam biện.
Quyển 2 : 3 thiên :Thượng hiền [thượng], Thượng hiền [trung], Thượng hiền [hạ].
Quyển 3 : 3 thiên :Thượng đồng [thượng], Thượng đồng [trung], Thượng đồng [hạ].
Quyển 4 : 3 thiên :Kiêm ái [thượng], Kiêm ái [trung], Kiêm ái [hạ].
Quyển 5 : 3 thiên :Phi công [thượng], Phi công [trung], Phi công [hạ].
Quyển 6 : 3 thiên :Tiết dung [trung], Tiết dung [hạ], Tiết táng [hạ].
Quyển 7 : 3 thiên :Thiên chí [thượng], Thiên chí [trung], Thiên chí [hạ].
Quyển 8: 2 thiên :Minh quỉ [hạ], Phi nhạc [thượng].
Quyển 9: 4 thiên :Phi mạng [thượng], Phi mạng [trung], Phi mạng [hạ], Phi nho [hạ].
Quyển 10: 4 thiên :Kinh [thượng], Kinh [hạ], Kinh thuyết [thượng], Kinh thuyết [hạ].
Quyển 11: 3 thiên :Đại thủ, Tiểu thủ, Canh trụ.
Quyển 12: 2 thiên :Quí nghĩa, Công mạnh.
Quyển 13: 2 thiên :Lỗ vấn, Công thâu.
Quyển 14: 7 thiên :Bị thành môn, Bị cao lâm, Bị thê, Bị thủy, Bị đột, Bị huyệt, Bị nga phụ.
Quyển 15 : 4 thiên: Nghinh địch từ, Kỳ xí, Hiệu lịnh, Tạp thủ.
Sách Doãn dật gồm 2 thiên, Điền cầu tử gồm 3 thiên, Ngã tử gồm 1 thiên, Tùy sào tử gồm 6 thiên, và
Hồ phi tử gồm 3 thiên. Sách Hán chí chép về sách của Mặc gia chỉ có 6 pho, trong 6 pho ấy bây giờ chỉ còn
có 1 quyển Mặc Tử mà thôi.
• Mặc kinh
Mặc kinh cũng được gọi là mặc kiện, là một bộ phận quan trọng trong sách Mặc Tử, bao gồm sáu thiên:
Kinh thượng, Kinh hạ, Kinh thuyết thượng, Kinh thuyết hạ, Đại thủ, Tiểu thủ. Đó là tác phẩm của Mặc gia ở
thời kì sau, có khả năng hình thành vào cuối thời kì chiến quốc.

Trong lĩnh vực chính trị, Mặc kinh đã đề xướng phương pháp pháp trị, phát triển tư tưởng "Thượng
đồng" của Mặc gia thời kì đầu, góp phần củng cố chế độ tập quyền chuyên chế. Trên phương diện luân lí đạo
đức xã hội, tác phẩm “Mặc kinh” đã đưa ra tư tưởng công lợi chủ nghĩa, công khai chứng minh rằng hành vi
đạo đức của con người không thể tách rời công lợi. So với tư tưởng của triết học Mặc gia thời kì đầu, Mặc
kinh đã có sự phát triển. Nhưng tư tưởng của Mặc gia thời kì đầu cả về nhận thức luận, trong sách đã chỉ rõ
muốn nhận thức, cần phải có 3 yếu tố, thứ nhất là giác quan của con người, thứ hai là những sự vật ở bên
ngoài làm đối tượng cho giác quan, thứ ba là sự tiếp xúc của các sự vật hiện tượng của thế giới bên ngoài thì
phát sinh cảm giác. Song cảm giác chỉ là bước đầu của nhận thức, muốn nhận thức đúng đắn sự vật con
người nhận thức phải có tâm, có suy lí,phân tích, so sánh để hiểu được cái mà cảm giác biểu hiện lúc ấy,
người ta mới hiểu được những vật mà ta tiếp xúc biểu hiện là cái gì.
Mặc kinh nêu ra ba nguồn gốc của tri thức, một là văn trị - là tri thức của người khác truyền cho, hai
là thuyết trị - là tri thức do sự hoạt động của tư duy đem lại, ba là thân trị - là tri thức phát sinh từ sự quan sát
cá nhân.
Theo Mặc kinh có tri thức chân thật và tri thức sai lầm. Khi nào những khái niệm hay những danh từ
phù hợp với thực tế thì đó là tri thức chân thật. Tri thức nào mà trái với sự thật thì là tri thức sai lầm và người
ta không thể áp dụng nó để đạt mục đích của mình. Về logic học, trong cuộc đấu tranh chống lại những nhà
ngụy biện, “Mặc kinh” đã tiến hành nghiên cứu và thuyết minh về khái niệm, phán đoán, suy lý. Nó phân
tích những khái niệm của logic học như “phạm trù” và “nguyên nhân”, chia khái niệm ra làm ba loại: một là
tên phổ biến, hai là tên giống loài, ba là tên riêng. Ba hình thái đó là những khái niệm nhằm mục đích biểu
thị đúng đắn tính chất đồng nhất và tính chất khác biệt của sự vật và quan hệ giữa hai tính chất ấy. Mặc kinh
còn đề ra bảy phương pháp xây dựng kết luận, trong đó có những phương pháp giống như quy nạp và diễn
dịch. Mặc gia khẳng định rằng quan hệ giữa “nhất” và “đa”, giữa toàn bộ và những bộ phận của nó thể hiện
rõ ràng bằng cách so sánh (phép “tỷ”) nhưng chỉ có thể so sánh những sự vật và hiện tượng cùng loại thôi,
còn những khái niệm khác loại thì không thể so sánh được. Tuy nhiên các triết gia Hậu Mặc còn sự hạn chế,
nhất là quan điểm đề cao chủ nghĩa kinh nghiệm trong lý luận nhận thức. Với lý luận về nhận thức và logic
học, mặc kinh đã có sự cống hiến nhất định trong lịch sử triết học Trung Quốc.
II. Tư tưởng của Mặc gia
Học thuyết của Mặc gia khác với Đạo gia và đối lập với Nho gia cả về tư tưởng, chủ trương và nền
tảng xã hội. Lão tử cho “đạo” tự nhiên sâu kín, huyền diệu, rộng lớn, tuyệt đối là cơ sở của vạn vật và chủ
trương vô vi thì Mặc Tử gạt bỏ mọi triết lí siêu hình ấy mà đề cao “Kiêm ái”. Khổng Tử thừa nhận “Thiên

mệnh” , thiên lý màu nhiệm, ưa chuộng lễ nghĩa, văn hóa của chế độ xã hội cổ truyền, chú trọng giáo hóa
đạo đức con người với các phạm trù đạo đức cơ bản: “nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “trí”, “dũng”. Mặc Tử thì trái lại,
tuy ông cũng rất chú trọng vấn đề đạo đức, chính trị nhưng ông lại đề cao “Thiên chí”, “Minh quỷ”, chủ
trương “Kiêm ái”, “Thượng đồng”, “Thượng hiền”, “Phi mệnh”, “Phi nho”,… và từ đó ông đã đặt tất cả các
vấn đề luân lí, đạo đức chính trị trên cơ sở công lợi của ông. Chính vì vậy các quan điểm tư tưởng chính trị
xã hội của Nho gia trở thành đối tượng phê phán của Mặc Tử. Trong thiên “Phi nho”, Mặc Tử nói: “Sống lâu
không thể đọc hết sách, trẻ mãi không thể làm hết lễ, của kho cũng không thể tiêu về nhạc. Họ tô vẽ những
món xa hoa đó để khiến vua đi sai đường. Đạo họ không thể dung cho đời; cái học của họ không thể dạy cho
dân”.
1. Về triết học
1. Về triết học
- Thuyết “Phi thiên mệnh”
Trong triết học của mình, Mặc Tử trước hết đã tập trung chống lại thuyết “Thiên mệnh” của Khổng
Tử. Theo như thuyết “Phi Thiên mệnh” của Mặc Tử thì không hề có số phận quyết định và chi phối sự sống
chết, giàu nghèo, thọ yếu, an nguy, trị loạn của con người. Mọi phúc họa, may rủi, thành bại trong cuộc sống
là chính hành vi của con người gây nên, là tại sức người chưa đủ, lực người chưa mạnh, tuyệt nhiên không
phải do định mệnh như Nho gia quan niệm. Theo ông chỉ cần ra sức làm việc thì có thể sẽ làm cho đời sống
đầy đủ và no ấm, không gắng sức làm việc thì sẽ nghèo đói. Ông viết: “ Ngày xưa, vua Kiệt làm cho nước
loạn, vua Thang làm cho trị lại. Ở vào những thời đó, trời không biến dổi mà dân cũng không biến đổi.
Người trên thay đổi chính trị thì dân thay đổi thói tục. Ở thời vua Kiệt, vua Trụ làm cho thiên hạ loạn; ở thời
vua Thang, vua Vũ mà thiên hạ trị. Vậy thiên hạ trị là sức của vua Thang vua Vũ, thiên hạ lọa là tội do cua
Kiệt vua Trụ. Lấy đó mà xét thì sự an nguy, trị loạn chỉ quan hệ ở việc làm chính trị của người trên đó thôi,
sao gọi là định mệnh được” (Mặc Tử, Phi mệnh).
Mặc dù Mặc Tử không tin vào “Thiên mệnh” và định mệnh, nhưng ông đưa ra thế giới quan tôn giáo,
coi ý chí của Thượng đế là nguyên tắc cao nhất của hành vi con người, đồng thời cho rằng sự biến hóa của tự
nhiên cũng bị ý chí của trời chi phối. Mặc Tử cho rằng trời là một đấng anh minh, có ý chí, có nhân cách và
quyền tối cao. Trời chiếu sang cho vạn vật, tạo ra và nuôi dưỡng muôn loài. Trời xoay vần bốn mùa, sinh ra
các tiết, tạo ra hoa lá, cỏ cây, sản vật, con người. Trời luôn thương yêu và làm lợi cho tất cả không phân biệt
trên dưới, sang hèn, thân sơ…
Trời luôn công minh, sáng láng thưởng người hiền và trừng phạt kẻ ác. “Vua Võ, vua Thang, vua

Văn làm việc, trên thì tôn trời, dưới thờ quỷ thần, dưới yên lòng dân cho nên ý trời cho rằng: “Người này
gồm yêu hết thảy những kẻ mà ta yêu, làm lợi hết thảy những kẻ mà ta muốn làm lợi. Những kẻ yêu người
hẳn đã làm cho rộng rãi; những kẻ làm lợi cho người hẳn đã làm cho hậu hĩ”. Bởi vậy trời mới khiến cho
sang thì làm đến thiên tử, giàu có cả thiên hạ, cơ nghiệp để lại cho con cháu muôn đời. Vua Kiệt, vua Trụ,
Vua U, vua Lệ… làm việc, trên thì chê trời, giữa chê quỷ thần, dưới rẻ người, cho nên ý trời cho rằng:
“Người này phân biệt những kẻ ta yêu ra để mà ghét, còn những kẻ ghét người thì hẳn cho được rộng rãi,
những kẻ hại người thì hẳn để hậu hĩ”. Bởi vậy trời mới khiến cho không hết tuổi thọ, không được trọn đời”
(Mặc Tử, Thiên chí).
Tin có trời Mặc Tử cũng tin có quỷ thần. Để chống lại quan điểm “vô quỷ” thời bấy giờ, Mặc Tử đã
dựa vào hai căn cứ để khẳng định có quỷ thần tồn tại. Căn cứ thứ nhất là dựa vào sự thực trước hai mắt trăm
họ. Căn cứ thứ hai là sự thực qua việc làm của những bậc thánh vương xưa. Cùng với chí trời, quỷ thần cũng
là một thế lực đầy quyền uy, linh thiêng giám sát chặt chẽ mọi hành vi của con người để khen thưởng những
người làm việc thiện và trừng phạt những kẻ gây ra điều ác một cách công minh, nên ông mới gọi là “Minh
quỷ”. Những việc làm tốt hay xấu, những hành vi minh bạch hay mờ tối dù mắt ta không thấy, tai ta không
nghe thấy… thì quỷ thần vẫn biết.
 Những mặt tích cực và tiêu cực của thuyết “Phi thiên mệnh”
- Tích cực
Có thể thấy đây là một thuyết tiến bộ lúc bấy giờ, đi ngược lại với những quan điểm sai lầm của Nho
giáo. Thuyết phi thiên mệnh mang những yếu tố duy vật bên trong nó quan niệm không có mệnh trời tức là
đề cao con người, đề cao sự cố gắng, lao động thúc đẩy xã hội tự vận động, phát triển, thay vì trông chờ
vào số trời, mệnh trời… Trái với Nho giáo là tin vào thiên mệnh, số trời sắp đặt vô hình chung đã thủ tiêu đi
sự đấu tranh của người dân đối với giai cấp bóc lột đương thời, đây có thể xem là một điểm tiến bộ đáng kể
của “Phi thiên mệnh”.
- Hạn chế
Tồn tại một sự mâu thuẫn ngay trong chính bản thân thuyết “Phi thiên mệnh” đó là cho rằng không
có số trời nhưng lại tin là có trời. Thuyết “Phi thiên mệnh” vốn theo khuynh hướng duy vật nhưng lại mang
trong mình nhiều yếu tố duy tâm như tin có quỷ thần. Có thể thấy Mặc Gia cũng như Mặc Tử chưa có một
chính kiến, tư tưởng riêng biệt, thoát hẳn ra khỏi sự ảnh hưởng của những tư tưởng đương thời.
- Nhân thức luận
Cống hiến lớn của tư tưởng triết học Mặc Tử là nhận thức luận. Nhận thức luận của Mặc Tử thuộc kinh

nghiệm luận chủ nghĩa duy vật. Ông coi kinh nghiệm cảm giác trực tiếp là nguồn gốc duy nhất của nhận
thức “văn chi kiến chi, tắt tất dĩ vi hữu, mặc văn mặc kiến, tắt tất dĩ vi vô” (điều ta nghe, điều ta thấy, thì tất
là có. Điều ta không nghe, điều ta không thấy, thì tất cả là không có) (Minh quy). Ông cho rằng phán đoán
cái “hữu” (có) và “vô” (không) của sự vật không thể dựa vào nhận xét của bất kỳ cá nhân nào mà phải căn
cứ vào những gì mọi người cùng nhìn thấy, cùng nghe thấy.
Xuất phát từ kinh nghiệm luận chủ nghĩa duy vật chất phát, Mặc Tử đưa ra ba tiêu chuẩn kiểm nghiệm “chân
vị” của nhận thức: “thượng bản chi vô cổ dã thánh vương chi sự hạ nguyên sát bách tính dĩ mục chi
thục phế “pha” dĩ vi hình chính, quan kỳ Trung Quốc gia bách tính nhân dân chi lợi” (gốc trên là việc của
thánh vương xưa, khảo sát những ghi chép của lịch sử về quá khứ, tức kinh nghiệm gián tiếp. Nguyên dưới
là xem xét thực trạng tai nghe mắt thấy lấy kinh nghiệm trực tiếp của quảng đại quần chúng làm căn cứ.
Công bố những chính sách của luật xử tội, xem có phù hợp với lợi ích quốc gia, của nhân dân trăm họ
không) (Phi mệnh). Mặc Tử đã kết hợp "sự", 'thực" và "lợi" lấy kinh nghiệm gián tiếp và trực tiếp, hiệu quả
xã hội làm thước đo, loại bỏ thành kiến chủ quan của cá nhân, phủ định tiêm nghiệm luận của chủ nghĩa duy
tâm.
Trong nhận thức Mặc Tử đặc biệt coi trọng tác dụng của kinh nghiệm cảm giác và đã thấy được vai trò của
thực tế khách quan trong nhận thức, ông cho rằng, cái gì lỗ tai, con mắt , không cảm thấy là không có. Căn
cứ vào đó ông đã bác bỏ những tư tưởng định mệnh luận. Vì ông xuất phát từ chỗ coi trọng kinh nghiệm cảm
quan và bằng chứng xác thực và khách quan, nên học thuyết cũng có những yếu tố duy vật. Nhưng ông quá
đề cao cảm giác, đồng thời coi thường tính khách quan của nội dung kinh nghiệm cảm giác, cho rằng sức
tưởng của con người cũng là cảm giác đúng đắn và lấy đó để chứng minh sự tồn tại của quỷ thần, nên ông đã
quay về với chủ nghĩa duy tâm và rời vào chủ nghĩa kinh nghiêm cực đoan, hạn hẹp. chước trời"(Mặc Tử,
Thiên chí)
Nhưng mặt khác ông lại quan niệm rất đúng về mối quan hệ giữa danh và thực. Ông nói: “Lấy cái danh (tên
gọi) để nêu ra cái thực”. Về quan hệ giữa “danh” và “thực”, Mặc Tử đưa ra mệnh đề “Phi dĩ kỳ danh dã,
dĩ kỳ thủ dã” (nắm danh cho thực) cho rằng không phải lấy “danh” để chứng cho “thực”, mà là lấy “thực”
để chứng cho “danh”, "danh" phải phù hợp với "thực". Tuy nhiên, nhận thức luận của Mặc Tử cũng có rất
nhiều hạn chế, ông đã coi thường vai trò của nhận thức lý tính, cường điệu một cách phiến diện tính chân
thực của kinh nghiệm cảm giác, thường lấy những điều lưu truyền sai lầm cùng với những ảo giác làm chân
lý. Do sách cổ chép có quỷ, trong xã hội cũng có người nói đã thấy quỷ, ông bèn nhận rằng quỷ thần là có
thật. Đó là những kết luận hết sức hoang đường, phản ánh bản tính hẹp hòi của những người sản xuất nhỏ.

Mặc Tử khẳng định rằng tồn tại khách quan là có thực và khái niệm là sự phản ảnh của tồn tại khách quan
vào đầu óc con người. Ông cho rằng sỡ dĩ người ta nhận thức được tồn tại khách quan (trừ thời gian) là do 5
giác quan. Ông nói đối với việc nước, “cố gắng thì trị, không cố gắng thì nguy”. Khanh đại phu “cố gắng thì
sang, không cố gắng thì nhục”. Nông dân “cố gắng thì giàu, không cố gắng thì nghèo, cố gắng thì no, không
cố gắng thì đói”. Nhìn chung, tư tưởng triết học của Mặc Tử vừa có yếu tố duy tâm khách quan vừa có yếu
tố duy vật kinh nghiệm.
Thế giới quan của Mặc Tử tồn tại những mâu thuẫn nội tại vô cùng sâu sắc. Một mặt ông nhấn mạnh
"phi mệnh" và "thượng lực", cho rằng quyết định số phận của con người không phải ở "mệnh" mà là ở
"lực". Ông khẳng định vai trò của nhân lực trong đời sống sinh hoạt và quá trình cải tạo tự nhiên, thể hiện
mong muốn thoát khỏi sự trói buộc của tư tưởng thiên mệnh của những người dân lao động. Mặc khác, Mặc
Tử lại khẳng định vai trò của "thiên chí" và "quỷ". Ông coi "trời" là vị thần nhân cách có ý chí, cho rằng
những người thuận theo ý trời sẽ được thưởng, kẻ nào phản lại ý trời sẽ bị chịu hình phạt. Theo ông "kiêm
tương ái, giao tương lợi" là thuận theo ý trời, "biệt tương ác, giao tương tặc" (khác nhau đối xử không tốt
với nhau, làm hại nhau) là phản lại ý trời. Mặc Tử một đời chủ trương "ái dân" ( yêu dân), "lợi dân" (làm lợi
cho dân) đây là mặc tiến bộ của ông, nhưng ông lại không dám đấu tranh chính diện với những kẻ thống trị,
lợi dụng quyền uy của trời và của thần, để thuyết phục họ làm việc thiện, thể hiện sự yếu đuối và mâu thuẫn
trong tư tưởng của những người sản xuất nhỏ.
2. Về chính trị
Ông cho rằng ý chí sáng láng, công minh của trời và quỷ thần theo ông là khuôn phép, là mực thước
cao nhất cho mọi hành vi, tốt xấu, phải trái của con người, ông viết: “Lấy gì làm khuôn phép cho việc chính
trị mới phải?. Rằng: không gì bằng cứ bắt chước trời. Việc làm của trời rộng rãi mà không riêng tây, sự làm
ơn của trời hậu hĩ mà không hợm hĩnh, sự sang lạng của trời lâu bền mà không suy. Cho nên các đấng thánh
vương mới bắt chước trời. Đã lấy trời làm khuôn phép thì cất nhắc việc gì cũng phải so đo với trời, làm cái
gì trời muốn thì làm, cái gì trời không muốn thì thôi…” (Mặc Tử, Pháp nghi). Khi ta có ý trời thì như “thợ
đóng bánh xe, thợ đóng quan tài thì cầm cái thước tròn, thước vuông để đo hình tròn, hình vuông trong thiên
hạ, nói rằng: “hễ đúng thì phải, không đúng thì không phải” (Mặc Tử, Thiên chí). Thuận theo ý chí của trời,
lấy ý chí của trời làm khuôn phép, nguyên tắc cao nhất trong đời sống xã hội con người phải làm gì?. Mặc
Tử trả lời: tuân theo chí trời, con người ta phải thực hành “Kiêm ái”.
Có thể nói hạt nhân của tư tưởng Mặc gia về mặt chính trị là thuyết “Kiêm ái” (thương yêu mọi
người).

+ Phân biệt hai khái niệm “kiêm” và “biệt” trong quan điểm của Mặc Tử
"Kiêm", theo Mặc Tử là gồm gộp hết thảy như nhau, trái với "biệt" là sự chia rẽ, phân biệt nhau, như
trên dưới, sang hèn, quý tiện "Ái" là yêu, là lòng yêu thương con người, trái với "ố" là thù ghét và làm hại
người. "Kiêm ái" là yêu hết thảy mọi người như nhau, không phân biệt thân - sơ, quý - tiện, trên - dưới; yêu
người như yêu mình, yêu người ngoài cũng như yêu người thân, không có người làng mình, người làng
người; người nước mình, người nước người. "Kiêm ái " vì thế cũng là "nhân nghĩa". "Ái" là nhân, "Kiêm" là
nghĩa. "Kiêm ái" hay nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại lợi lớn cho mọi người nên "kiêm ái" còn có nghĩa là
làm lợi cho người.
“Kiêm ái” là tốt đẹp, là đem lại lợi ích cho thiên hạ. Thực hiện “Kiêm ái’ là thực hiện đúng theo ý chí
của trời. Nhưng căn cứ vào đâu Mặc Tử khẳng định tính đúng đắn của “Kiêm ái”?. Vì thời đó những người
chủ trương “biệt” đã phản đối chủ trương Kiêm ái” và nói rằng lo cho bạn cũng như lo cho mình, chăm sóc
cha mẹ bạn cũng như chăm sóc cha mình là điều vô lí, thậm chí là ảo tưởng.
Mặc Tử đã đưa ra phép “Tam biểu” để xem xét , khẳng định nguyên tắc nào đúng,nguyên tắc nào
sai. Học thuyết “Tam biểu” nói một cách khái quát “biểu” là khuôn mẫu, phép tắc, chuẩn mực để người ta
suy nghĩ, ngôn luận và hành động Với học thuyết "Tam biểu", Mặc Tử đã có sự đóng góp quý giá vào việc
nghiên cứu vấn đề nhận thức của con người. Ông cho rằng, muốn ngôn luận, suy nghĩ chính xác phải căn cứ
vào "Tam biểu" là: "Gốc, nguyên, dụng". "Gốc ở đâu? Thưa trên thì lấy gốc ở chí trời quỷ và việc của thánh
vương xưa. Nguyên (nguồn) ở chỗ nào? Thưa dưới thì dò xét sự thật trước tai mắt trăm họ. Dụng ở chỗ nào?
Thưa là đưa ra việc làm hành chính xem có lợi cho nhà nước trăm họ hay không? (Mặc Tử, Phi mệnh
thượng). Gốc chỉ ý chí trời và thánh xưa. Nguyên là dưới sự dò xét sự thật của tai mắt trăm họ. dụng là đưa
ra việc là hành chính xem có lợi cho trăm họ hay không (Mặc Tử, Phi mệnh thượng). Theo “Tam biểu” và
lấy công lợi làm căn cứ, tiêu chuẩn cao nhất để xem xét, thẩm định giá trị, công dụng của “kiêm” và “biệt”.
Ông khẳng định “kiêm” là đúng, là đem lợi cho dân, “biệt” là trái, là gieo tai họa cho thiên hạ. Ông lập luận:
“Người nhân làm việc ắt vụ cầu lấy điều lợi, trừ điều hại cho thiên hạ. Những điều hại cho thiên hạ
thời nay điều nào lớn hơn cả ?. Như nước lớn đánh các nước nhỏ, nhà lớn cướp nhà nhỏ, mạnh lấn yếu, đông
hiếp yếu, láu lừa ngu, sang khinh hèn, đó là những điều hại lớn cho thiên hạ. Hãy tìm nguồn gốc các điều hại
bởi đâu ra. Có phải bởi yêu người, làm lợi người mà ra chăng ?. Ắt nói rằng không phải. Phân danh trong
thiên hạ thì kẻ ghét người, làm hại người là “kiêm” hay là “biệt” ?. Ắt phải nói là “biệt”. Thế thì những kẻ
giao biệt quả là hại lớn cho thiên hạ chăng ?. Cho nên “biệt” là trái vậy” (Mặc Tử, Kiêm ái trung).
“Kẻ cho người là sai tất phải có gì thay vào… Cho nên ta nói “kiêm” để thay “biệt”. Nhưng “kiêm”

có thể thay “biệt” là vì cớ nào?. Đáp: Nếu coi nước người nhưu nước mình, thì lấy ai đem nước mình đi
đáng nước người?. Vì nguời cũng như mình. Nếu coi đô người cũng như đô mình, thì lấy ai đem đô mình đi
chiếm đóng đô người?. Vì người cũng như vì mình. Nếu coi nhà người cũng như nhà mình, thì lấy ai đem
nhà mình đi loạn nhà người?. Vì người cũng như vì mình.
+ Nội dung chủ yếu của thuyết “Kiêm ái”
- Kiêm ái là yêu thương tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp, sang hèn
“Kiêm ái” là gồm hết thảy mọi người như nhau, không phân biệt thân sơ, quý tiện trên dưới, yêu người
như yêu mình, yêu người ngoài cũng như yêu người thân, không có người làng mình, người làng người,
người nước mình, người nước người. “Kiêm ái” vì thế cũng là “nhân nghĩa”. “Kiêm ái là cái thực của nhân,
là nội dung của nghĩa. “Kiêm ái” hay nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại lợi lớn cho mọi người, cho nên
“Kiêm ái” còn có nghĩa là làm lợi người”. Mặc Tử, thiên Kinh thượng viết: “Lợi là nghĩa vậy” (Nghĩa lợi
dã). Nghĩa là danh, lợi là thực.
“Kiêm ái” là cái đạo của thánh nhân, bậc vương công đại phu nhờ đó mà yên, sự ăn mặc của muôn dân
nhờ đó mà no đủ. Cho nên bậc quân tử không gì bằng xét kĩ đức “kiêm” mà thi hành nó. Thi hành nó thì vua
chúa ắt có lòng huệ, làm bề tôi ắt có lòng trung, làm cha mẹ ắt có lòng từ, làm con ắt có lòng hiếu, làm anh
ắt có lòng thương em, làm em ắt có lòng kính anh… Đó là “cái đạo của thánh nhân mà là cái lợi của muôn
dân” (Mặc Tử, Kiêm ái trung). Cái lợi của “Kiêm ái” còn là “đem cái tai tinh, mắt sáng trông nghe cho nhau,
đem cái tay chân khỏe mạnh làm lụng cho nhau. Cho nên những người già nua mà không vợ con thì có kẻ
hầu nuôi cho trọn tuổi thọ, những kẻ nhỏ yếu mồ côi cha mẹ thì có chỗ nương tựa cho đến khi khôn lớn”
(Mặc Tử, Kiêm ái hạ).
- Mối quan hệ giữa “Kiêm ái” và “lợi”
“Nay mà các nước, các đô không đánh chiếm nhau, các người các nhà không gây loạn nhau, thì ấy là
hại cho thiên hạ chăng ?. Lợi cho thiên hạ chăng ?. Ắt phải nói lợi cho thiên hạ. Hãy tìm nguồn gốc của điều
lợi đó bởi đâu mà ra. Do ghét người, hại người mà ra chăng ?. Ắt phải nói rằng không phải. Phải nói do yêu
người, làm lợi cho người mà ra. Phân danh trong thiên hạ, những kẻ yêu người, làm lợi cho người là “biệt”
hay “kiêm”. Ắt phải nói là “kiêm”. Thế thì những kẻ gieo “kiêm” quả sinh lớn cho thiên hạ chăng ?. Cho nên
ta nói “kiêm” là phải (Mặc Tử, Kiêm ái trung). Vì thế, theo Mặc Tử “Kiêm ái” không chỉ là cái đạo của
thánh hiền mà còn là cái đức căn bản của con người, là lợi ích thiết thực cho muôn dân. Không “Kiêm ái” thì
thiên hạ loạn,”Kiêm ái’ thì thiên hạ trị.
“Kiêm ái” là đạo của thánh nhân, là đức cơ bản của mọi đức tính người,là lợi lớn cho thiên hạ, vì vậy

ngoài việc dung quyền uy anh minh của trời và quỷ thần để thu phục mọi người thương yêu nhau, làm lợi
cho nhau không phân biệt thân sơ, quý tiện, trên dưới.
- Sự thể hiện “Kiêm ái” trong đời sống chính trị và sinh hoạt thường ngày
“Kiêm ái” trong đời sống chính trị với các phạm trù “Phi công”, “Thượng đồng”, “Thượng hiền”.
• Thượng đồng
Ông còn chủ trương dùng sức mạnh và thế lực của nhà nước, thể chế xã hội thống nhất tư tưởng và
hành động của mọi người trong xã hội, khiến người ta thực hiện “Kiêm ái”, bằng nguyên tắc “Thượng
đồng”. “Thượng đồng theo ông là dưới luôn luôn phải thuận ý trên và phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh của bên
trên, là sự thống nhất, tán đồng từ dưới lên trên. Và sự tán đồng cao nhất là phục tùng theo ý trời, thực hiện
“Kiêm ái”.
Theo nguyên tắc “Thượng đồng”, lí trưởng, hương trưởng, quốc dân, thiên tử đều phải là những bậc nhân
nghĩa, “kiêm ái” của xóm, của làng, nước, thiên hạ, nhất nhất dưới phải tán đồng lên trên, và cao nhất là tán
đồng lên ý trời, mưu lợi, trừ hại cho dân, thiên hạ sẽ bình trị. Nhưng theo Mặc Tử, “Thượng đồng” không
chỉ những kẻ ở dưới phải tán đồng và phục tùng tuyệt đối với bên trên, mà còn là “kẻ trên người dưới, tình ý
không đạt”, “người trên nếu có việc ẩn, bỏ sót các lợi, kẻ dưới có thể biết được mà làm lợi cho; kẻ dưới mà
có oan chứa, hại tích, người trên có thể biết được mà trừ khử họ. Cho nên ở ngoài vạn dặm có kẻ làm điều
thiện, người nhà chưa biết khắp, xóm làng chưa nghe khắp, thiên tử đã biết mà thưởng… Có kẻ làm điều bất
thiện, thiên tử đã biết mà phạt (Mặc Tử, Thượng đồng trung).
Nhưng đất thiên hạ rộng, người thiên hạ đông và trước khi có thể chế quốc gia được thiết lập, mọi người
sống trong "trạng thái tự nhiên" mỗi ý, mỗi sở thích, tham vọng riêng, gây ra sự tranh đoạt chia rẽ ,hỗn độn,
làm sao mọi người có thể thống nhất ý kiến và hành động để thực hiện "kiêm ái" như ý trời? Mặc Tử trả lời
rằng: Muốn vậy người ta cần phải có một bộ máy nhà nước, một thể chế chính trị, để thống nhất các nghĩa
trong thiên hạ, giữ gìn trật tự xã hội. Đó chính là ý muốn của dân trong thiên hạ (Mặc Tử, Thượng đẳng
trung) .
Ông nói: “Đời xưa khi dân mới sinh chưa có nhà nước, dân sống trong trạng thái “thiên nhiên”, hỗn độn, lời
nói của họ mỗi người theo mỗi nghĩa khác nhau. Một người thì một nghĩa, hai người thì hai nghĩa, mười
người thì mười nghĩa. Người càng nhiều thì nghĩa càng nhiều. Ai cũng cho nghĩa mình là đúng, nghĩa người
là sai. Cho nên cha con, anh em gây ra oán ghét, lìa tan không thể hòa hợp với nhau, trăm họ thiên hạ đều
dùng nước lửa, thuốc độc làm hại lẫn nhau. Thiên hạ rối loạn như cầm thú vậy”.
“Biết rõ thiên hạ sỡ dĩ rối loạn là do không có người cầm đầu chính trị mà ra, vì vậy họ mới chọn lấy người

hiền tài trong thiên hạ, lập lên làm thiên tử” (Mặc Tử, Thượng đồng trung). Như vậy theo Mặc Tử nhà nước
được thiết lập hầu hết do ý dân.
Ngoài nguyên nhân trên,theo ông sự ra đời của nhà nước còn một nguyên nhân khác, đó là ý trời và quỷ
thần. Ý trời là gồm yêu và làm lợi cho tất cả mọi người như nhau. Để thực hiện ý muốn đó, trời đã lập ra
người đứng đầu thiên nghĩa của muôn dân, tán đồng lên với trời và quỷ thần, thực hiện “Kiêm ái” đem lại no
đủ, yên vui, thái bình cho mọi người:
"Xưa trời, quỷ thần kiến thiết quốc đô, lập người chính trưởng không phải nâng cao tước vị hay gia tăng
bổng lộc cho họ, mà là đem sự yên ổn, thái bình cho mọi người"(Mặc Tử, Thượng đổng trung). Một khi
quốc gia và người đứng đầu thiên hạ đã được lập ra theo ý dân và chí trời thì quyền hành của vua là tuyệt
đối. Người dân "khi nghe điều thiện đều phải báo cho bề trên, điều gì bề trên cho là phải, đều phải cho là
phải, điều gì bề trên cho là trái, đều phải cho là trái" ( Mặc Tử, Thượng đồng trung). Nhà nước và kẻ trị vì
thay trời và quỷ thần giám sát mọi hành vi của con người, trừng phạt kẻ gieo"biệt", khen thưởng người gieo
"kiêm".
• Thượng hiền
Để thực hiện “Kiêm ái” theo nguyên tắc “Thượng đồng” có hiệu quả, Mặc Tử đề cao việc kén chọn
và sử dụng người hiền tài, bất cứ họ ở cương vị nào trong xã hội để trị nước, trị dân, nên ông đưa ra quan
điểm “Thượng hiền”. Qua đó ông cật lực phản đối chế độ chính trị có tính chất cha truyền con nối, theo tông
pháp nhà Chi đã lung lay. Ông vạch ra phép trị nước việc không chọn lựa và trọng dụng người hiền tài mà
dùng những kẻ bất tài nhưng là cốt nhục, phú quý, vây cánh, dễ sai khiến, xu nịnh tất nhiên sẽ dẫn tới hậu
quả làm cho dân phải đói khổ, nước phải suy, xã hội loạn lạc, vì “những kẻ cốt nhục, phú quý, mặt mũi xinh
đẹp há ắt là kẻ khôn và sang đâu? Các đấng vương công, đại nhân vì yêu cái vẻ của họ mà cho cái mình
yêu mà thôi. Thế cho nên kẻ không trị nổi trăm người thì khiến ở chức quan cai quản cả nghìn người, kẻ
không trị nổi nghìn người, thì khiến ở chức quan cai trị muôn người” (Mặc Tử, Thượng hiền trung).
Sự trị nước theo dòng dõi, vây cánh, không trọng người hiền tài còn dẫn tới “thương không nhằm vào người
hiền, phạt không nhằm vào kẻ bạo, kẻ được thưởng cũng không có cớ, kẻ bị phạt cũng không có tội, ấy là
khiến cho trăm họ nản lòng, nhác thể, chán làm điều thiện; để không cái sức chân tay mà giúp đỡ nhau, để
mục cái của dư thừa mà không hổ trợ lẫn nhau, giấu giếm điều hay mà không dạy bảo nhau” (Mặc Tử,
Thượng hiền trung).
• Phi công
Đây là thiên nói về chiến tranh rất nổi tiếng của Mặc Tử. Mặc Tử đã chủ trương “Kiêm ái” nay lại

nhìn thấy những thảm họa chiến tranh do các nước chư hầu gây ra. Ông tỏ thái độ căm ghét chiến tranh,
phản đối các cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, đả phá, mạt sát thái độ hiếu chiến của bọn vua chúa
đương thời.
Trong quan điểm về chính trị - xã hội ông còn phản đối chiến tranh xâm lược phi nghĩa và chủ trương “Phi
công”. Ông đã đem thuyết “chiến tranh luôn bất lợi cho cả hai bên” giảng giải, can ngăn các bậc vua cháu
quý tộc thời đó. Ông chỉ trích những nước lớn cậy thế và lực, đóng thuyền xe, chế tạo vũ khí đánh các nước
nhỏ. Ông cho rằng đó là việc bất nhân, tàn ác nhất và mắc tội lớn nhất mà các bậc vua chúa lại cho là vẻ
vang, thì quả là điều mê muội, nhục nhã và sẽ bị trời, quỷ trừng phạt. Ông lên án những kẻ cố tình không
hiểu cái lẽ đơn giản rằng: “Giết một người gọi đó là bất nghĩa, tất phạm một tội chết. Nếu từ đó suy ra giết
mười người là mười lần bất nghĩa, tất phạm mười tội chết… (Phi công – thượng).
Tuy phản đối chiến tranh xâm lược nhưng ông vẫn bênh vực các cuộc chiến tranh tự vệ, trong thực tế tổ
chức của Mặc gia rất giỏi tự vệ. Tư tưởng này của ông đã bị rất nhiều người phê phán, bởi lẽ họ cho rằng
Mặc Tử tự mâu thuẫn với chính mình. “vừa ghét chiến tranh – vừa ủng hộ chiến tranh”. Thực ra thì trong
“Phi công”, Mặc Tử chỉ bàn về chiến tranh tự vệ hay thuật phòng vệ của một nước nhỏ mà thôi. Vì chiến
tranh chưa thể biết được, nên người ta phải phòng bị thành quách; binh lực như chuốt cái móng nhọn, khi đó
kẻ khác không dám nuôi dã tâm xâm lược mình.
- “Kiêm ái” trong đời sống sinh hoạt thường ngày thể hiện thông qua các phạm trù “tiết dụng”, “phi
nhạc”, “tiết táng”.
Để thực hiện triệt để “Kiêm ái”, lo lợi ích thiết thực cho muôn dân. Mặc Tử còn để ra một loạt chủ
trương, biện pháp, chính sách xã hội khác như: “Phi nhạc”, “Phi công”, “Tiết dụng”, “Tiết táng”, “Đoản
tang”… Ông cho rằng: “Phàm trong thiên hạ sở dĩ còn có những điều oán thù tai vạ tranh cướp nhau đều là
do không yêu thương mà sinh ra”, vì vậy “phải thương yêu ai cũng như nhau”. Biểu hiện cụ thể của tình yêu
thương mọi người “kẻ có sức thì phải giúp đỡ cho người khác, kẻ có của thì phải chia sẻ cho người khác, kẻ
hiểu biết thì phải dạy dỗ người khác”.
• Tiết dụng
Xuất phát từ hạt nhân “Kiêm ái” ấy, ông chủ trương tiết kiệm (tiết dụng), vì nếu sống xa hoa thì phải
“giật cái ăn, cái mặc của dân”. Ở đây, Mặc Tử tập trung vào những mặt cơ bản nhất của cuộc sống là ăn,
mặc, ở, đi lại không phải của dân mà của thánh vương đời xưa để cảnh tỉnh giới quý tộc đương thời. Về ăn
uống, ông cho rằng chỉ cần ăn cho đủ no thôi chứ không cần cầu kì, đòi hỏi món này món nọ. Về mặc, ông
viết: “mùa đông cốt sao cho chống được rét, mùa hè cốt sao cho chống được nóng”. Về ở, Mặc Tử nói: “xây

nhà sao cho che được nắng, có chỗ thờ cúng, ngăn cách các phòng cho đàn ông, đàn bà là được”.
Mặc Tử chủ trương những điều có ích lợi thiết thực và căn bản cho đời sống con người cần phải lo là: ăn, ở,
mặc, và nghỉ ngơi. Những điều đó Mặc Tử gọi là “ba mối to lớn của dân”. Và như thánh vương xưa tất cả
những nhu cầu sinh hoạt ấy chỉ cần vừa đủ tiện lợi cho dân là được.
• Phi nhạc
Hiểu theo nghĩa thông thường là không dùng âm nhạc, nhwung trong cách nhìn của Mặc gia thì nội
dung này rất rộng, nó bao hàm là tất cả những gì làm cho đẹp mắt, vui tai, ngon miệng, êm thân thể. Có thể
hiểu phi nhạc của Mặc gia là nghệ thuật nói chung.
Cũng vì tiết kiệm ông phản đối tất cả các việc nghe âm nhạc linh đình. Trong thiên “Phi nhạc”, Mặc Tử đã
lên án những kẻ cầm quyền bất nhân, chỉ lo ăn chơi, lễ nhạc xa hoa mà làm cho nước nghèo, dân khổ, mặc
dù ông cũng biết rằng: “Thân cũng biết nó yên, miệng cũng biết ngon, mắt cũng biết đẹp, tai cũng biết vui”.
• Tiết táng
Tiết táng là hạn chế tiêu dùng cho ma chay, nhưng nội dung “Tiết táng” được Mặc gia đề cập đến
việc thu ngắn thời gian để tang nên “tiết táng” và “đoản tang” trong Mặc gia thường luôn đi đôi với nhau là
một.
Trong thiên “Công mệnh”, Mặc tử viết: “Nho gia chủ trương chon cất hậu để tang lâu, làm quan thật
nặng, chế ra áo khâm thật nhiều, đưa ma như thể dọn nhà, khóc lóc ba năm, phải nâng mới dậy, phải chống
gậy mới đi được, tai chẳng nghe gì, mắt không nhìn gì, cái đó đủ làm mất thiên hạ. Nho gia chủ trương đàn
hát, ca múa, cái đó đủ làm mất thiên hạ”.
Nhận thấy sai lầm trong ma chay của Nho gia, ông đã đưa ra quan điểm riêng của mình đó là cần phải tiết
kiệm trong ma chay. Theo ông chỉ cần có một chiếc quan tài, 3 bộ quần áo khâm liệm là đủ, không phải chế
đồ tang và không có thời gian cư tang, đám ma xong cuộc sống lại trở về bình thường ngay.
Nhìn chung, ông cho lễ nhạc, ma chay, thú vui, chiến tranh xâm lược thôn tính lẫn nhau của các chư hầu
đều là những cái xa hoa, phù phiếm, tốn kém và tàn bạo, không mang lại lợi ích thiết thực cho đời sống của
nhân dân. Đó cũng là nguyên nhân làm cho thiên hạ loạn. Ông kêu gọi, mọi người hãy bỏ “cái lạc, cái bi, cái
ố, cái ái mà theo nhân nghĩa”. “Tay, chân, miệng, mũi, tai đều phụng sự cái nghĩa”
+ Những mặt tích cực và hạn chế của thuyết “Kiêm ái”
• Mặt tích cực
Thời đại Mặc Tử sống là lúc ngôi thiên tử nhà Chu đã mất hết quyền hành, xã hội xảy ra chiến tranh
liên miên. Người ta đã không từ bất kì thủ đoạn nào, một phương tiện nào để dành chiến thắng và kẻ chiến

thắng sẵn sang chôn sống hàng vạn tù binh của mình. Sống trong hoàn cảnh như vậy, Mặc Tử đã cất tiếng
kêu gọi mọi người “kiêm ái”. Đây là hành động của con người, đầy tính nhân bản. Với tư tưởng “Kiêm ái”
thể hiện qua đời sống chính trị bằng các phạm trù “Phi công”, “thượng hiền”, thượng đồng” và sinh hoạt đời
thường với các phạm trù “phi nhạc”, “tiết dụng”, “tiết táng” đã cho thấy được cách nhìn nhận đúng đắn của
Mặc Tử về xã hội đương thời, trong sự thống trị của Nho gia với những nguyên tắc, quy tắc hà khắc bó buộc
đời sống con người.
Quan điểm “phi công” phản đối kịch liệt chiến tranh xâm lược, thôn tính lẫn nhau giữa các nước là một tư
tương tiến bộ giữa cảnh đất nước đang chiến tranh loạn lạc.
“Thượng hiền” cho thấy việc quan trọng tài năng của con người. Muốn đất nước ngày càng giàu mạnh thêm
cần phải có những người hiền tài đứng ra lãnh đạo đất nước
“Thượng đồng” chỉ ra rằng để xã hội được thịnh trị, yên vui thêm trên dưới cần phải đồng lòng, dân phải
trung thành và nghe lời vua, ngược lại vua phải biết chăm lo cho dân.
“Phi nhạc” xét khía cạnh tích cực của nó trong tư tưởng của Mặc gia là xóa bỏ những thứ văn hóa tinh thần
xa hoa không phù hợp với lợi ích của dân chúng.
“Tiết dụng” của Mặc Tử ở một góc độ nào đó là đúng. Nó được đưa ra nhằm chống lại thói ăn chơi xa hoa
của giai cấp thống trị. Ông đưa ra quan niệm “tiết táng” nhằm chỉ cho mọi người thấy trong cuộc sống chúng
ta cần phải tiết kiệm cả ở việc ma chay, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu đang đeo bám nhiều năm trời của Nho
giáo, tiến hành ma chay một cách đơn giản nhất
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực chúng ta nhận thấy những điểm hạn chế cơ bản trong thuyết
“Kiêm ái” của Mặc Tử
• Mặt hạn chế
Hạn chế lớn nhất của thuyết này đó là ở tính chất không tưởng của nó. Làm sao chúng ta có thể xây
dựng được một khối xã hội tốt đẹp chỉ bằng việc cải thiện về mặt đạo đức, mà không tính đến việc cải thiện
mặt sản xuất xã hội và nhiều vấn đề khác nữa
“Kiêm ái” của Mặc Tử gắn liền với cái “lợi”. Nhưng ông chưa thể chỉ ra một cách rành mạch tính đối lập và
thống nhất về quyền lợi giữa các giai cấp và cái căn nguyên đã tạo thành chế độ giai cấp không thể nhất trí
về quyền lợi được, mà chỉ dừng lại ở khái niệm đơn thuần cùng có lợi cho lẫn nhau. Ở đây chúng ta thấy
được tính chất duy tâm của Mặc Tử
Với quan niệm “thượng đồng”, dường như ở một mức độ nào đó Mặc Tử đã xóa nhòa ranh giới giai cấp, ông
cho rằng chỉ cần mọi người tôn trọng, yêu thương nhau thì xã hội sẽ thịnh trị. Ở đây ông chưa nhận thấy cơ

sở của việc hình thành giai cấp xã hội.
Khi chỉ ra các quan điểm sai lầm của Nho gia về thi, thư, lễ, nhạc, Mặc Tử đã đưa ra ý kiến cần phải xóa bỏ
nhạc hay “phi nhạc”. Đây là một tư tưởng khá cực đoan. Ông chưa nhận thấy bên cạnh đời sống vật chất của
con người cần có đến đời sống tinh thần, mà trong đó “nhạc”, “vũ” là một phần của đời sống ấy.
“Tiết dụng cũng là một phạm trù lớn thể hiện “kiêm ái” bằng cách hạn chế tiêu dùng. Tiết kiệm trong tiêu
dùng của Mặc Tử là thứ tiết kiệm thái quá, khổ hạnh. Nó tạo ra những con người không biết hưởng thụ thành
quả lao động của mình.
Tất cả những mặt tích cực và tiêu cực trên đã đem tới cho triết học Mặc gia một chỗ đứng rất riêng
biệt của mình trong làng triết học.
Như vậy, tư tưởng chính trị của Mặc gia phản ánh yêu cầu của nhân dân lao động chống lại sự lũng
đoạn quyền hành và sự tàn bạo của giai cấp thống trị. Đó là điểm đáng trân trọng. Nhưng thuyết “Kiêm ái”
của ông rõ ràng là mang tính chất không tưởng, vì vậy mặc dầu tư tưởng của ông được truyền bá rộng rãi
trong xã hội Trung Quốc thời Chiến quốc nhưng không được giai cấp thống trị các nước áp dụng.
Nhìn chung, tư tưởng chủ yếu của Mặc Tử là lòng thương người. Tập trung ở một số thuyết như:
thuyết “Phi Thiên mệnh”, thuyết “Kiêm ái”, thuyết “Tam biểu”, một số quan điểm “Thượng đồng”, “Tiết
dụng”, “Tiết táng”… Nhưng thuyết “Kiêm ái” của Mặc gia khác chữ Nhân của Nho gia ở chỗ, đây là tình
thương không có phân biệt thân sơ. Vì thế, Mạnh Tử hay công kích Mặc gia là “không cha”. Đồng thời Mặc
Tử cũng hay nói đến “nghĩa”, tức là làm “tăng thêm cái lợi cho thiên hạ, trừ cái lợi cho thiên hạ”. Trong việc
tổ chức bộ máy nhà nước ông chỉ đề cao những người có tài đức (thượng hiền). Mặc Tử là một nhà
triết học lớn với học thuyết "Kiêm ái" nổi tiếng. Ông là người sáng lập ra trường phái triết học có ảnh hưởng
lớn đến sinh hoạt xã hội Trung Quốc thời cổ đại. Triết học của ông về cơ bản là duy tâm thần bí, nhưng
trong thuyết của Mặc Tử cũng có những yếu tố duy vật, nhất là những đóng góp của ông về mặt nhận thức
luận, với phép "Tam biểu" . Thái độ của Mặc tử đối với tín ngưỡng tôn giáo cổ đại thực chất là biểu hiện tính
chất thỏa hiệp và nhu nhược của tầng lớp tiểu tư hữu bị phá sản ở thời kì chiếm hữu nô lệ đang suy tàn ở
Trung Quốc cổ đại.
III. Gía trị tư tưởng của Mặc gia
1. Đối với Trung Quốc
Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Quốc được nhà Tần thống
nhất năm 256 TCN, tư tưởng Trung Quốc bước vào giai đoạn nở rộ nhất của mình. Tất cả các trường phái tư
tưởng lớn của Trung Quốc đều hiện ra ở giai đoạn không thể tin nổi này của văn hóa Trung Quốc; các nhà sử

học Trung Quốc coi giai đoạn nảy nở văn hóa này là "Giai đoạn trăm nhà đua tiếng" (Bách gia chư tử) (551-
233 TCN).
Tuy không phải là gương mặt quan trọng bậc nhất trong thời kỳ này song không thể không nhắc đến
Mặc Địch với những đóng góp về mặt tư tưởng của ông cho nền lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Mặc gia cũng
được xem là trường phái lớn thứ ba trong thời kỳ này. Trong thời Tần, Mặc Gia từng là gia tộc đứng đầu của
Bách Gia Chư Tử, lập ra một lực lượng chống Tần vương. Về sau, khi Mặc gia bị suy tàn, một trường phái
khác đã xuất hiện, là Danh gia - một trường phái triết học Trung Hoa cổ đại phát triển lên từ phái Mặc
gia trong thời Chiến quốc. Triết lý của Danh gia được cho rằng khá giống với triết lý của người Hy Lạp cổ
đại gọi là những nhà biện chứng, mà nổi tiếng nhất trong Danh gia là Công Tôn Long.
Thời đại Mặc Tử sống là lúc ngôi thiên tử nhà Chu đã mất hết quyền hành, xã hội xảy ra chiến tranh
liên miên. Người ta đã không từ bất kì thủ đoạn nào, một phương tiện nào để dành chiến thắng và kẻ chiến
thắng sẵn sàng chôn sống hàng vạn tù binh của mình. Sống trong hoàn cảnh như vậy, Mặc Tử đã cất tiếng
kêu gọi mọi người “kiêm ái”. Đây là hành động của con người, đầy tính nhân bản.
Triết học của ông về cơ bản là duy tâm thần bí, nhưng trong thuyết của Mặc Tử cũng có những yếu tố duy
vật, nhất là những đóng góp của ông về mặt nhận thức luận, với phép "Tam biểu".
Ngoài ra Mặc Tử còn bác bỏ, đi ngược lại những quan điểm sai lầm của Nho giáo, dẫn đến hoàn
thiện về mặt hệ thống triết học của Trung Quốc.
2. Đối với phương Đông và Thế giới
Phương Đông có rất nhiều nhà triết học và vì mỗi nhà triết học có mỗi quan niệm khác nhau nên
cũng có chỗ đứng khác nhau. Mặc Tử đã đóng góp cho nền triết học phương Đông những nhận thức luận có
giá trị cao, hướng con người đến đời sống thực tế đồng thời làm phong phú thêm cho nền triết học phương
Đông.
Đối với thế giới mà ở đây có thể nói đến là phương Tây, Thượng đế của Công giáo tượng trưng cho
tinh thần bác ái, và từ quan niệm trước Đức Chúa Trời, ai nấy đều bình đẳng, dẫn tới quan niệm trước pháp
luật ai nấy đều bình đẳng. Đồng nghĩa đó, luân lý căn bản của Mặc học là "Kiêm ái", thì đương nhiên cũng
dẫn tới quan niệm bình đẳng phổ quát trong xã hội, không phân biệt giai cấp và tôn giáo. Riêng về chủ
trương "phi công" của Mặc Tử, thì rõ ràng là lập trường phản đối chiến tranh, tinh thần yêu chuộng hòa bình,
đồng thời cũng là phương pháp chính yếu của Mặc Tử, nhằm đạt tới lý tưởng "Kiêm ái”.
Vậy Mặc Tử là một triết gia, giàu nhiệt tình tôn giáo và tinh thần hy sinh, khổ hạnh. Mặc gia tuy là
một tư tưởng có từ thời nhà Tần, trải qua gần 2000 năm lịch sử, nhưng giá trị tư tưởng của Mặc Tử vẫn luôn

tồn tại và phát triển một cách mạnh mẽ. Mặc dù lòng tin của dân chúng vào Mặc gia đã giảm sút từ cuối thời
Tần, những quan điểm của nó vẫn còn để lại dấu ấn trong tư tưởng Pháp gia.
KẾT LUẬN
Mặc Tử là một nhà triết học lớn trong xã hội Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Với
những gì đã xây dựng nên, ông mang tới một cái nhìn mới mẻ về xã hội với các phạm trù mang dấu ấn riêng
của mình như: “Phi công”, “Thượng đồng”, “Thượng hiền”, “Tiết dụng”, “Phi nhạc”, “Tiết táng” và đặc biệt
là học thuyết “Kiêm ái”. Nghiên cứu tư tưởng của Mặc Tử trong giai đoạn này giúp cho chúng ta có thêm
được một cách nhìn khác trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để ứng dụng vào đời sống xã hội
hiện tại. Việc tiếp thu những giá trị tích cực trong tư tưởng của Mặc Tử giúp gạt bỏ mọi nhân tố tiêu cực của
quá khứ để giữ lại và phát huy những tinh hoa của dân tộc và của nhân loại trong mọi lĩnh vực của đời sống”
của dân tộc ta như lời Bác Hồ dạy. Chúng ta đã gạt bỏ đi tính chất duy tâm của tư tưởng ấy và tiếp nhận lấy
quan điểm về việc xây dựng một “xã hội đại đồng”, mà nơi đó mọi người luôn sống trong mối quan hệ gắn
bó với nhau, thêm vào đó là quan điểm về việc gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của xã hội, yêu thương
nhau có nghĩa là làm lợi cho nhau và đồng thời là làm lợi cho xã hội. Hiểu rõ điều này giúp cho chúng ta có
biện pháp phù hợp trong việc phát triển cá nhân dưới tác động của kinh tế thị trường. Có làm được vậy thì xã
hội của chúng ta sẽ có được những con người tài giỏi và có đạo đức cao, họ sẽ góp sức mình để xây dựng
nhanh chóng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lịch sử tư tương phương Đông và Việt Nam, PGS. Nguyễn Gia Phu.
Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại, Doãn Chính, NXB Thanh Niên Hà Nội – 2003
Lịch sử triết học, GS.TS Nguyễn Hữu Vụ, NXB Chính trị Quốc gia
/> />DANH SÁCH NHÓM
1. Vũ Thị Quỳnh Nga (nhóm trưởng)
2. Lê Thị Hà
3. Mai Thị Thuận
4. Lê Văn Phúc
5. Mai Thị Hồng Lạt
6. Trần Thị Phương Thùy

×