Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

VĂN HÓA LÀNG : Một số vấn đề về hương ước làng xã Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.55 KB, 15 trang )

MỤC LỤC :
MỤC LỤC : 1
Câu 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HƯƠNG ƯỚC LÀNG XÃ VIỆT NAM 2
1.Hương ước cổ trong làng xã Việt Nam : 2
a.Nguồn gốc: 2
b.Nội dung : 3
c.Vai trò : 4
d.Kết luận : 5
2.Hương ước làng xã Việt Nam hiện nay : 6
3.Kết luận : 8
Câu 2 : VĂN HÓA LÀNG XÃ VIỆT NAM 9
1.Sự hình thành và phát triển của làng xã Việt Nam : 9
2.Đặc điểm cùa làng xã Việt Nam : 10
VỀ KINH TẾ 10
VỀ CƠ CẤU LÀNG XÃ : 12
3.Tổ chức và vai trò của làng xã : 13
4. Kết luận : 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO : 14
1
Câu 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HƯƠNG ƯỚC LÀNG XÃ VIỆT NAM
1. Hương ước cổ trong làng xã Việt Nam :
a. Nguồn gốc:
Hương ước là thuật ngữ gốc Hán, khi du nhập vào Việt Nam nó vẫn được
giữ nguyên nghĩa.
Hương ước là danh từ thông dụng và có ý nghĩa đầy đủ nhất để gọi bản ghi chép hệ
thống lệ làng. GS.Đinh Gia Khánh viết:“Hương ước là bản ghi chép các điều lệ liên
quan đến tổ chức xã hội cũng như đến đời sống xã hội trong làng, các điều lệ hình
thành dần trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết”(1, tr.62).
Hương ước còn có các tên gọi khác như : hương biên, hương lệ, hương khoán,
khoán làng
Trong làng xã Việt Nam xưa, luật lệ tồn tại dưới nhiều hình thức, từ luật lệ truyền


miệng đến luật lệ thành văn. Một số hương ước thành văn đã thể hiện, chính nó đã kế
thừa luật lệ truyền miệng trước đó. Điều đó chứng tỏ rằng, từ rất sớm các công xã cổ
truyền rồi đến công xã nông thôn đã xuất hiện các khoán ước mà phổ biến là quy ước
truyền miệng.
Về thời điểm xuất hiện hương ước, các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc học từ trước
đến nay vẫn chưa khẳng định. Bằng vào các thư tịch cổ, chúng ta mới chỉ biết rằng
đến triều đại vua Lê Thánh Tông triều đình đã ra sắc lệnh thể chế hoá hương ước. Bộ
luật Hồng Đức đã ghi lại chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông về việc biên soạn và thi hành
hương ước như sau:
- Các làng xã không nên có khoản ước riêng vì đã có luật chung của nhà nước.
2
- Riêng làng xã nào có những tục khác lạ thì có thể lập khoán ước và cấm lệ
- Trong trường hợp đó, thảo ra hương ước phải là người có trình độ nho học, có đức
hạnh, có chức và có tuổi tác.
- Thảo xong, phải được quan trên kiểm duyệt và có thể bị bác bỏ.
- Khi đã có khoán ước rồi, mà vẫn có người không chịu tuân theo, cứ nhóm họp
riêng, thì những kẻ ấy sẽ bị quan trên trị tội.
Như vậy, có thể thấy rằng, đến đời vua Lê Thánh Tông đã có hương ước rồi nhưng
hiện nay chúng ta vẫn chưa tìm thấy bản hương ước nào được soạn thảo vào thế kỷ
XVI chứ chưa nói gì đến thế kỷ XV.
b. N ội dung :
Tìm hiểu các văn bản hương ước có thể thấy chúng luôn được điều chỉnh sửa đổi
qua các thời kỳ. Xét một trong những bản hương ước thành văn cổ nhất mà chúng ta
hiện có là hương ước làng Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Thương Hồng (nay là
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) ra đời từ năm 1665 sau đó đã được sửa đổi, bổ
sung tới 16 lần, từ 30 điều ban đầu lên tới 82 điều ở bản cuối cùng (2, tr.160).
Nhìn chung, nội dung của hương ước là các vấn đề cụ thể gắn với hoàn cảnh, phong
tục tập quán lâu đời của từng làng, đến lợi ích thiết thân của dân làng. Hương ước ra
đời dựa trên các nguyên tắc đạo đức, các quan niệm tín ngưỡng truyền thống, xuất
phát từ nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc, cơ sở xã hội là thiết chế làng xã với

nhiều hình thức tổ chức và các quan hệ đan xen chồng chéo, cơ sở kinh tế là chế độ
công điền, công thổ.
Hương ước được soạn thảo thành văn, nhưng cũng có khi bất thành văn. Có loại được
soạn thảo với đầy đủ các quy định về mọi lĩnh vực như cơ cấu tổ chức, các quan hệ xã
hội, văn hóa giáo dục, tôn giáo, tín ngưỡng, vệ nông, vệ sinh, trật tự, an ninh…, nó
được xem như một bộ luật của làng. Có loại hương ước chỉ đề cập đến một vấn đề
như sử dụng công điền, tế tự. Hương ước thành văn có loại được viết trên giấy, hàng
năm được đọc trước dân làng để duy trì, bổ sung, sửa đổi, có loại được khắc vào bia
đá, chuông đồng để lưu truyền (như thể lệ cúng giỗ, ruộng công).
Dù được duy trì dưới dạng văn bản hay truyền miệng thì hương ước vẫn là sản phẩm
văn hoá của làng, là một thứ luật tục buộc mọi thành viên trong làng phải thực hiện.
3
(Trang cuối Hương ước làng Quýt Lâm, phủ Mộ Đức)
Nội dung của các bản hương ước thường gồm 4 quy ước:
- Quy ước về chế độ ruộng đất
- Quy ước về khuyến nông, bảo vệ sản xuất, môi trường
- Quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm các chức dịch của làng
- Quy ước về văn hoá tinh thần và tín ngưỡng
Trong các quy ước trên thì quy ước về chế độ ruộng đất có vị trí quan trọng nhất, bởi
vì đại đa số người dân cua các làng đều làm nông nghiệp là chủ yếu.
Ngoài bốn loại quy ước cơ bản trên, có làng lại ghi thêm vào hương ước những điều
khoản về sự đóng góp các loại công quỹ, về tổ chức khao vọng, về “lễ ra làng” (lễ
thành đinh)…
c. Vai trò :
Hương ước tồn tại song song cùng luật pháp, giữ vai trò là công cụ để điều chỉnh
các mối quan hệ trong cộng đồng và quản lý làng xã. Trong làng xã Việt Nam xưa,
người nông dân tập hợp lại với nhau bằng nhiều hình thức tổ chức: xóm ngõ, dòng họ,
phe giáp, phường hội và theo các thiết chế của bộ máy chính trị - xã hội ở địa phương.
Mỗi thiết chế hoặc tổ chức ấy có quy định riêng, độc lập, tách biệt với nhau. Hương
ước đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà các thiết chế, là sợi dây ràng buộc

hữu cơ mọi thành viên, tổ chức.
Hương ước là phương tiện để chuyển tải pháp luật và tư tưởng Nho giáo vào làng xã ,
hỗ trợ và bổ sung cho pháp luật khi cần xử lí những việc cụ thể nảy sinh từ nếp sống
đặc thù của làng. Nó phản ánh văn hoá làng, uốn dân làng vào khuôn phép, gắn bó họ
thành một cộng đồng chặt chẽ vì trách nhiệm và quyền lợi chung của làng.
Hương ước cũng là công cụ để Nhà nước can thiệp, quản lý, điều hoà lợi ích giữa làng
xã với Nhà nước. Khi Nhà nước phong kiến củng cố địa vị và quyền lực của mình thì
4
làng xã trở thành các đơn vị cống nạp cho chính quyền trung ương. Tuy nhiên Nhà
nước chỉ tập trung quản lý các nguồn thuế, lính và phu, còn lại làng tự điều chỉnh các
mối quan hệ của mình. Nhờ vậy, làng xã có quyền tự trị tương đối để duy trì những
tập tục mà nội dung không đối lập với luật pháp của triều đình.
Qua việc thực hiện hương ước, truyền thống hiếu nghĩa, hoà thuận đạo hiếu gia đình,
tình làng nghĩa xóm và sự gắn kết cộng đồng được củng cố, việc công ích, nghĩa vụ
với nhà nước được thực hiện tốt. Và hơn hết, việc thực hiện hương ước đã làm phong
phú đời sống văn hoá làng xã, giữ gìn được các giá trị truyền thống. Tuy nhiên, có thể
thấy hương ước còn thể hiện tư tưởng bè phái, cục bộ, địa vị, ngôi thứ, đẳng cấp trong
các quan hệ ứng xử làng xã, và thực tế đã xẩy ra việc tranh chấp địa vị, sự thao túng
của các chức sắc có đẳng cấp cao. Tuy vậy, hương ước vẫn giữ vai trò quan trọng
trong việc ổn định cuộc sống trong làng. Sức mạnh của hương ước một phần dựa vào
các hình phạt (nộp tiền phạt, làm cỗ lớn để tạ tội, nặng hơn nữa là đánh đòn giữa sân
đình, đuổi ra khỏi làng) đối với kẻ vi phạm, ngoài ra còn ở sự khen thưởng nhằm biểu
dương những người đã làm được việc có ích cho làng. Tuy nhiên, sức mạnh của
hương ước chủ yếu bắt nguồn từ không khí xã hội, từ dư luận khen chê, vì vậy, từ chỗ
là quy ước về lối sống, hương ước đóng vai trò là “Cương lĩnh tinh thần” điều chỉnh
các hoạt động của mọi tổ chức và cá nhân trong làng xã.
d. K ết luận :
Như vậy, có thể thấy rằng, trong suốt chiều dài lịch sử xã hội phong kiến hương
ước luôn giữ vị trí quan trọng trong việc ổn định cuộc sống của dân làng, là công cụ
đắc lực để Nhà nước điều chỉnh và quản lý làng xã.

Thực dân dân Pháp khi đặt ách đô hộ vào Việt Nam đã lợi dụng bộ máy và cơ chế
hoạt động sẵn có của làng xã để cai trị nhân dân ta. Cuộc “Cải lương hương chính” đã
được thực hiện trong những năm đầu thế kỷ XX với mục tiêu củng cố bộ máy chính
quyền thực dân phong kiến ở nông thôn Việt Nam. Nhà nước thực dân phong kiến đã
trực tiếp quản lý hương ước của các làng xã bằng cách soạn thảo “Hương ước mẫu”,
buộc các làng lấy đó làm căn cứ để soạn thảo hương ước cho từng làng. Hương ước
cải lương đã được tổ chức soạn thảo và thực hiện ở hầu hết các làng xã (nhất là ở
vùng đồng bằng Bắc Bộ). Mặc dù với mục đích dùng hương ước để nắm và quản lý
làng xã theo định hướng có lợi cho chính quyền thực dân nhưng nhiều bản hương ước
thời kỳ này cũng có những yếu tố tích cực. Đó là những điều giáo huấn về nếp sống,
về bảo vệ tính mệnh và tài sản chung của làng xã
5
2. Hương ước làng xã Việt Nam hiện nay :
Cùng với hiện tượng sống lại của các giá trị văn hóa tốt đẹp là sự nẩy sinh những
mâu thuẫn mới. Việc chuyển biến về tổ chức và quản lý trong sản xuất nông nghiệp
kéo theo sự chuyển đổi cơ bản của các hoạt động văn hoá xã hội. Lúc này, nhu cầu về
văn hoá tinh thần của người dân đòi hỏi phải mở rộng và nâng cao thì điều kiện đáp
ứng về hưởng thụ và tham gia sinh hoạt văn hoá cho cho họ lại có phần giảm sút. Việc
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước dẫn đến việc xoá bỏ chế độ bao cấp về văn hoá. Ở hầu hết các xã, thôn,
làng, bản, các thiết chế nhà văn hoá, thư viện, câu lạc bộ, đội văn nghệ quần chúng
ngừng hoạt động hoặc hoạt động hết sức khó khăn. Cùng lúc đó, hủ tục rượu chè, cờ
bạc, mê tín dị đoan trỗi dậy ở nhiều địa phương, tác động không tốt tới truyền thống
văn hoá - đạo đức - thẩm mỹ của dân tộc. Tình trạng đan xen yếu tố tích cực và tiêu
cực qua việc phục hồi các hình thức sinh hoạt văn hoá và tiếp thu cái mới thiếu chọn
lọc khiến cho tình hình xã hội ở nông thôn trở nên phức tạp.
Trước thực tế đó, các cấp chính quyền và ngành văn hoá - thông tin ở một số địa
phương đã đề ra biện pháp quản lý, chỉ đạo là, trên cơ sở hương ước cũ, tiếp thu có
chọn lọc để xây dựng hương ước mới (Quy ước làng văn hóa).
Cơ sở khoa học và thực tiễn về việc lựa chọn đơn vị cơ sở để xây dựng làng (thôn, ấp,

bản ) văn hoá được rút ra từ đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Làng văn
hoá Thanh Hoá” mang ký hiệu KX 01 - 15 do Trung tâm khoa học Xã hội và Nhân
văn Quốc gia thực hiện. Kết quả đã khẳng định: làng là mô hình tổ chức quản lý các
hoạt động văn hoá, xã hội ở nông thôn phù hợp với giai đoạn chuyển biến sâu sắc của
đất nước. Đây là đơn vị cộng đồng dân cư có tính ổn định tương đối về thiết chế tổ
chức và các mối quan hệ xã hội. Làng (thôn, ấp, bản ) còn là nơi lưu giữ các giá trị
văn hoá truyền thống đã được thử thách qua nhiều thời kỳ lịch sử, thể hiện bản sắc và
bản lĩnh riêng của nền văn hoá Việt Nam. Các giá trị văn hoá của làng (thôn, ấp,
bản ) là cơ sở cho việc tổ chức xây dựng làng (thôn, ấp, bản ) văn hoá.
Về mặt đường lối, Đảng đã khẳng định rõ, cần khuyến khích việc ban hành hương
ước, quy ước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc đã nêu : “Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hoá, nâng
cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn
minh ”.
6
Định hướng này lại được nhấn mạnh trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII: “Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân, làm chủ thông qua đại
diện là các cơ quan dân cử và các đoàn thể, làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân
dân tự quản, bằng hương ước, quy ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp nhà nước”.
Trước đây, Hương ước chủ yếu là do các vị có vai vế trong làng bàn bạc để xây dựng
nên. Tuy nhiên, đến ngày nay, Hương ước cũng có đôi chút thay đổi. Theo quy định
của Chỉ thị 24/1998/CT- TTg về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước
của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư do Chính Phủ ban ngày 19/06/1998 tại
điểm 2 thì: “ Dự thảo hương ước, quy ước phải được nhân dân trên địa bàn thảo luận,
được hội nghị cử tri hoặc hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, bản, thôn, ấp, cụm dân
cư thông qua và được ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành nhằm
bảo đảm nội dung của hương ước, quy ước không trái với các quy định của pháp luật
hiện hành, không chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề, các khoản phí và lệ phí có
thể gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”.

Hương ước được xây dựng và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với vùng, miền
mới tạo ra những gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa. Những hủ tục lạc hậu của
làng sẽ không được chấp nhận đưa vào hương ước.
(Tọa đàm 15 năm xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước)
“Nước thì có pháp quốc, làng thì có lệ, bây giờ chúng ta gọi là hương quy. Hương
ước, quy ước của chúng ta ban hành lại khác hẳn về bản chất so với lệ làng cũng như
hương ước, quy ước của làng xã cổ trước kia. Vì trước đây “phép vua thua lệ làng”.
Chính nhờ có hương ước được vận dụng một cách sáng tạo, không trái với chủ trương
pháp luật thì chúng ta mới có gia đình văn hóa, làng văn hóa.
Xưa nay, làng được coi là một tổ chức xã hội quan trọng của nông thôn Việt Nam nói
riêng. Mọi tập tục, thói quen sinh hoạt và bản sắc văn hóa Việt Nam cũng được hình
thành, gìn giữ một cách bền chặt từ làng. Hương ước vốn là một phần của văn hóa
7
làng nên phải được xây dựng trên tinh thần, nguyện vọng của chính người dân sinh ra
và lớn lên trên mảnh đất đó.
• Nội dung chính của Hương ước làng xã hiện nay :
Tìm hiểu nội dung các bản hương uớc mới (Quy ước làng văn hóa) ở một số địa
phương khu vực đồng bằng Bắc Bộ, có thể thấy cấu trúc của nó, ngoài phần mở đầu
và kết luận, văn bản được chia thành các chương (hoặc các phần)
- Chương 1: Nguyên tắc chung.
- Chương 2: Các quy định về lễ nghi, tôn giáo (chủ yếu là quy định về lễ hội)
- Chương 3: Quy định về nếp sống văn hoá nói chung (chủ yếu là xây dựng Gia
đình văn hoá, việc cưới, việc tang)
- Chương 4: Đạo lý gia đình và xã hội,
- Chương 5: An ninh trật tự, bảo vệ môi trường,
- Cuối cùng là Điều khoản thi hành.
Một số bản Quy ước làng văn hóa chỉ chia thành 3 phần lớn, đó là: Nguyên tắc chung,
Những quy định cụ thể, Điều khoản thi hành.
Nguyên tắc chung nêu khái quát tình hình lịch sử, quá trình hình thành, truyền thống
văn hoá, cách mạng của địa phương, tình hình hiện tại, những thuân lợi, khó khăn

trong xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời nêu nguyên tắc chung khi soạn
thảo, giá trị pháp líý và phạm vi hiệu lực của văn bản.
Những quy định cụ thể: Là quy định về xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng nếp
sống văn hoá trong các sinh hoạt hàng ngày, giữ gìn trật tự an ninh, quy định về ngày
lễ, ngày giỗ, ngày hội, việc cưới, việc tang, về bảo vệ và phát triển sản xuất, bảo vệ
các công trình công cộng, vệ sinh môi trường và các quy định khác (về khuyến học,
khuyến nông…)
Về điều khoản thi hành: Việc theo dõi thi hành quy ước của các thôn làng thường
giao cho trưởng thôn, trưởng làng chịu trách nhiệm cùng với sự phối hợp với các đoàn
thể của địa phương. Các hoạt động diễn ra đều có sự chỉ đạo của cấp uỷ đảng địa
phương, sự theo dõi, quản lí.
3. Kết luận :
Từ ngàn xưa, hương ước là nền tảng để xây dựng làng xã Việt Nam, là văn phạm
quy phạm pháp luật trên khuôn khổ làng xã. Qua nhiều giai đoạn, hương ước phát
8
triển theo nhiều hướng khác nhau. Có thể bây giờ, khi nhắc đến hương ước lệ làng
không còn thấy khắt khe như trước nữa nhưng trong long lại cảm thấy tự hào xiết bao
về cha ông ta, dân tộc ta. Có thể nói, hương ước có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc ổn đinh trật tự làng xã, sức mạnh của nó một phần dựa vào hình
phạt(cao nhất là đuổi khỏi làng), một phần dựa vào phần thưởng. Tiếp thu
những yếu tố tích cực của hương ước cũ để xây dựng các hương ước mới ở các làng
hiện nay là viêc làm vô cùng cần thiết, góp phần xây dựng và nâng cao đời sống văn
hóa ở các làng xóm.
Câu 2 : VĂN HÓA LÀNG XÃ VIỆT NAM
1. Sự hình thành và phát triển của làng xã Việt Nam :
Khi người Việt cổ còn sinh sống bằng hái lượm, săn bắn thì chưa có xóm làng. Lúc
bấy giờ họ sinh sống phân tan thành từng nhóm nhỏ.
Có người nói “Việc định cư lập làng xảy ra vào thời văn hóa Bắc Sơn, cách đây trên
dưới vạn năm. Từ hái lượm theo mùa, con người chuyển dần sang trồng lúa ở vùng
thung lũng, vùng rộc, vùng cham” ( Theo Diệp Đình Hoa : Tìm hiểu làng Việt, NXB

Khoa học Xã hội, 1990, trang 47 )
Cổng làng Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội)
Xóm làng xuất hiện khi tổ tiên ta trồng lúa nước. Vì có nhiều việc phải làm, phải
“chung lưng đấu cật” đắp bờ giữ nước, rồi tiến đến làm các công trình thủy lợi, phát
triển mương mán dẫn nước.
Ruộng lúa trờ thành cơ sở sản xuất của xóm làng. Lúc này xóm làng trở thành đơn vị
dân cư, chưa phải đơn vị hành chính.Lúa nước ngày càng phát triển, xóm làng cảng
mở rộng tập hợp những người cùng thị tộc, chung một dòng máu theo quan hệ họ
9
hàng. Quan hệ lân cư ( láng giềng ) kết hợp với quan hệ họ hàng thể hiện sự phong
phú, bền chặt, tăng thêm sức mạnh của làng xã, giúp cho kinh tế lúa nước ngày càng
phát triển.
Suốt nhiều thế kỷ, làng là đơn vị tụ cư cổ truyền lâu đời ở nông thôn người Việt và là
nhân tố cơ sở cho hệ thống nhà nước quân chủ tại Việt Nam. Từ thời Hùng Vương,
làng được gọi là chạ. Đơn vị này có thể coi tương đương với sóc của người Khơme,
bản, mường (của các dân tộc thiểu số phía Bắc), buôn (của các dân tộc thiểu số Tây
Nguyên-Trường Sơn). Làng của những người làm nghề chài lưới được gọi là vạn hay
vạn chài.
Làng truyền thống điển hình thời trung và cận đại là một tập hợp những người có thể
có cùng huyết thống, cùng phương kế sinh nhai trên một vùng nhất định. Làng ‰được
xem có tính tự trị, khép kín, độc lập, là một vương quốc nhỏ trong vương quốc lớn
nên mới có câu "Hương đảng, tiểu triều đình". Năm 1428 vua Lê Thái Tổ phân chia
lãnh thổ thành các đơn vị gọi là tiểu xã, trung xã và đại xã. Thời nhà Lê đánh dấu việc
nhà nước tăng cường kiểm soát làng xã. Viên quan cai trị làng lúc đó gọi là "xã quan".
Năm 1467 thì bỏ "xã quan", thay bằng "xã trưởng."Viên chức này không còn do triều
đình bổ nhiệm nữa mà là do dân làng tuyển cử. Từ đó trở đi triều đình chỉ kiểm soát
từ cấp huyện trở lên còn xã được coi như tự trị. Chức xã trưởng đến triều Minh Mệnh
nhà Nguyễn thì đổi là "lý trưởng".
Trước đây, trên làng là xã, huyện, châu, phủ, lộ, đạo; dưới làng là thôn, xóm, ấp tùy
theo từng thời kỳ. Ngày nay, tổ chức trên làng là xã, huyện, tỉnh, quốc gia; tổ chức

dưới làng có xóm.
2. Đặc điểm cùa làng xã Việt Nam :
V Ề KINH TẾ
- Kinh tế tiểu nông :
Lúc chuyển sang thời kì đá mới, nông nghiệp của ta bắt đầu xuất hiện nền kinh tế nhỏ.
Trong lịch sử Việt Nam, sản xuất nhỏ mà chủ yếu là tiểu nông có sức sống lâu dài, có vai
trò vô cùng to lớn . Thiên tai ác liệt diễn ra thường xuyên, những cuộc chiến tranh đẫm
máu dồn dập đến… biết bao thăng trầm thử thách với dân tộc ta. Sản xuất nhỏ xây dựng
dựa trên cơ sở hộ gia đình, đơn vị kinh tế cơ bản xuyên suốt lịch sử, như một hằng số của
quá trình phát triển xã hội nước ta.
- Kinh tế hàng hóa nông thôn truyền thống :
10
• Chợ có vai trò quan trọng nhất
(Lễ hội Cầu Ngói - Chợ Lương, xã Hải Anh)
• Thị trấn : Ở đồng bằng và ven biển, nơi nào cũng có thị trấn, mà phần lớn là
huyện lỵ, phủ lỵ. Việc mua bán ở đây dựa vào tiền lương hoặc do tiền của các
gia đình làng quê cung cấp để mua bán sản phẩm của những người sản xuất
nhỏ.
• Làng buôn : Ờ các TK XVII, XĨ , giữa TK XX ở Bắc Bộ xuất hiện một loại
làng, đa số dân làng lấy việc buôn bán làm nghiệp chính và nguồn sống chính.
Mặc dù nó giữ chức năng kinh tế của thành thị nhưng vẫn mang nét của một
làng phong kiến. Nó biểu hiện quá trình phát triển quang co của nông thông và
của thương nghiệp Việt Nam thời trung đại.
- Tư tưởng kinh tế truyền thống :
Tư tưởng kinh tế truyền thống của làng xã Việt Nam có những biểu hiện sau đây :
• Trọng ruộng đất - trọng nông nghiệp – dĩ nông vi bản :
Tục ngữ Việt Nam có câu “Tấc đất, tấc vàng” – “Dĩ nông vi bản”,… Đất và lúa
gạo là tài sản vô giá đối với con người. Chính vì vậy mà người ta đặc biệt quan tâm đến
ruộng đất, nên nông nghiệp.
• Coi thương công thương nghiệp :

11
Suốt chiều dài lịch sử, các thế hệ người Việt Nam đều thể hiện “Trọng nông, ức
thương” . Tư tưởng này còn để lại dấu ấn trong cuộc sống hiện nay, cho buôn bán là “bóc
lột” là “lừa gạt”, thiếu tình nghĩa, thiếu trung thực.
Lấy nông làm gốc là đúng đắn. Nhưng từ nhận thức này mà coi thường thương nghiệp,
thủ công nghiệp là không đúng. Nó cản trở bước phát triển của kinh tế hàng hóa.
• Quý nghĩa khinh lợi :
Đây là nếp nghĩa nhà nho, được giai cấp phong kiến đề cao,coi đó là khuông phép
ứng xử, là định hướng cao đẹp của người đương thời.
Khinh lợi, có nghĩa là không quan tâm đến vật chất,không bon chen lợi ích riêng tư.
Hệ quả của “quý nghĩa”, “khinh lợi” dẫn đến từ bỏ kinh doanh hàng hóa, hạ thấp lao
động chân tay, không khuyến khích đi vào lao động kĩ thuật.
• Bình quân dân chủ :
Nếp nghĩ của người nông dân ở nông thôn, nhất là qua việc chia đất, chia ruộng
công làng xã - thể hiện sâu sắc hiện tượng “bình quân chủ nghĩa”
Tuy nhiên quan niệm này cản trở sự tìm tòi, sáng tạo, tháo gỡ khó khăn, làm chủ thiên
nhiên và xã hội.
• Đề cao hà tiện :
Tiết kiệm, chống xa xỉ là đúng đắn. Song quá nhấn mạnh điều này dẫn đến hà tiện, rồi trở
thành lối sống, lại là tiêu cực.
VỀ CƠ CẤU LÀNG XÃ :
- Từ xưa, làng và xã không đồng nhất với nhau :
Làng là điểm cư dân, thì đơn vị hành chính của nhà nước phong kiến là xã.
- Gia đình :
Gia đình là thành tố cơ bản của làng và nước.
Ở Việt Nam gia đình được xem là tế bào của xã hội.
- Về dòng họ :
Làng Việt Nam là một phức hợp nhiều tổ chức xã hội, nhiều quan hệ, trước hết là dòng
họ. Có thể coi cộng đồng làng là tập hợp nhiều dòng họ.
- Về xã hội :

Làng Việt Nam cũng thể hiện loại hình kinh tế “công – nông – thương”, trong đó,
phường hội chi phối hoạt động của con người, ngoài tổ chức họ.
- Tính tự trị của làng xã :
12
Với chế độ quân điền, ruộng đất của mỗi làng do làng ấy sử dụng. Nhà nước phong kiến
không trực tiếp phân chia ruộng đât, làm cho tính tự trị của làng xã càng được củng cố.
Tính tự trị của làng xã còn thể hiện trong việc lập hương ước.
3. Tổ chức và vai trò của làng xã :
- Tổ chức :
Làng chủ yếu có ba cơ quan: cơ quan nghị quyết, cơ quan chấp hành, và cơ quan trị
an. Thời nhà Lê thì hội đồng kỳ dịch là cơ quan nghị quyết, có hương trưởng (sau gọi
là tiên chỉ) đứng đầu. Hương mục lãnh trách nhiệm trông coi tài sản công tư của xã.
Trị an, tự vệ thì giao cho trùm trưởng (sau gọi là tuần đinh). Hương mục và trùm
trưởng cũng là thành viên của hội đồng kỳ dịch.
Hội đồng kỳ dịch thường là các hương hào danh tiếng có phẩm hàm, học thức, hoặc là
hưu quan trong xã. Điều kiện vào hội đồng không nhất định mà tùy theo hương ước
của làng. Có làng xét ngôi thứ trong hội đồng theo "thiên tước" tức là ai cao tuổi nhất
thì là tiên chỉ. Có làng xét theo "nhân tước" và ai đỗ cao nhất hay có phẩm hàm cao
nhất thì ngồi chiếu tiên chỉ.
Hội đồng kỳ dịch thường nhóm họp một tháng hai lần vào ngày mồng một (sóc) và
ngày rằm (vọng) sau khi lễ thành hoàng ở đình. Công việc cấp xã gồm quyết định chi
thu các ngạch thuế đinh, tiền cheo, tiền vạ cùng những việc tế tự. Hội đồng kỳ dịch
còn có quyền xét xử những vụ hình luật nhỏ.
Chấp hành là xã trưởng, tức lý trưởng do dân bầu ra để thi hành những nghị quyết của
hội đồng kỳ dịch cùng là đại biểu của xã khi liên lạc với triều đình như các quan từ
cấp huyện trở lên khi nhà nước thu thuế, mộ lính, hay bắt dân làm tạp dịch. Giúp xã
trưởng là phó xã trưởng.
- Vai trò của làng xã trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước:
• Công cuộc trị thủy - thủy lợi :
Trị thủy và thủy lợi là như cầu bức thiết của làng xã nông nghiệp Việt Nam. Làng xã

cổ truyển thường có tính cục bộ. Tuy vậy , công việc trị thủy – khách quan, do bản
chất của nó, đã góp phần thúc đẩy sự phát triển tinh thần cộng đồng, vượt ra ngoài
khuôn khổ của làng xã.
• Vai trò của làng xã trong sự nghiệp giữ nước :
+ Cung cấp kịp thời và vô tận nhân tài và vật lực cho chiến trang
+ Xây dựng thế trận – các cuộc chiến đấu tại chỗ có nhiều tác dụng khác nhau.
13
• Vai trò của làng xã trong quá trình đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng
Ngoài những vai trò to lớn, làng xã cổ truyền Việt Nam còn có những tiêu cực như :
- Tín cục bộ địa phương
- Tính tự cấp , tự túc, ít giao lưu kinh tế, văn hóa của làng xã.
- Trong tàn dư làng xã cũng phải kể đến tính gia tộc thái quá
- Chủ nghĩa bình quân trong phân phối.
4. Kết luận :
Trong xã hội hiện đại, xét về mặt cấu trúc, kiến trúc, làng Việt Nam đã thay đổi toàn
diện về mọi lĩnh vực. Trong xu thế đô thị hoá, CNH-HĐH hầu như còn rất ít làng còn
giữ được các biểu tượng truyền thống mang tính cổ điển của làng như luỹ tre, cây đa,
bến nước, sân đình. Tuy vậy, những đặc trưng tốt đẹp trong văn hoá làng của người
Việt vẫn tồn tại và được thừa kế, phát huy. Trong tâm khảm mỗi người con đất Việt,
dù đi đâu, về đâu đều hướng về ngôi làng thân thương của mình, cộng đồng thân
thuộc của mình, đều mang trong mình tinh thần đoàn kết, đùm bọc nhau cũng như ý
thức tự lực tự cường, đó chính là ngọn nguồn của lòng yêu nước bất diệt của dân tộc
Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Tài liệu : Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử của GS.
Phan Đại Doãn.
2. Từ điển bách khoa mở : Wikimedia
14
3. Website www.vov.vn

4. Bài viết làng Việt, hương ước Quảng Ngãi
5. Bài viết một số vấn đề văn hóa làng xã Việt Nam (Hội thảo do PGS, TS sử
học Bùi Xuân Đính, Viện Dân tộc học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và
PGS, TS sử học Đinh Khắc Thuân, Viện Hán-Nôm, Viện Khoa học xã hội
Việt Nam thuyết trình - 20 Tháng 6 Năm 2012 - 18h00 - Hội trường Trung
tâm Văn hóa Pháp )
6. Website www.nghiencuulichsu.com
7. Bài viết cuộc sống và văn hóa ở làng quê trên website www.hivietnam.net
15

×