Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, năng suất sản xuất cao đã
tạo ra lượng hàng hóa phong phú và đa dạng, đời sống của người dân ngày càng nâng
cao, tiến đến cuộc sống thoải mái hơn về vật chất lẫn tinh thần. Ngoài những nhu cầu
thiết yếu như ăn, ở, mặc thì nhu cầu cuộc sống được nâng cao hơn, như nhà đẹp tiện
nghi, xe cộ hiện đại, du lịch, du học nước ngoài… Tuy nhiên, với mức thu nhập như
hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm
cùng lúc, đặc biệt là những vật dụng đắt tiền, dẫn đến nhu cầu vay mượn để tiêu dùng
tăng lên. Điều này đã tạo ra thị trường cho vay tiêu dùng đối với các ngân hàng
thương mại ngày càng có tính cạnh tranh cao. Đây là một hướng đi không mới ở các
nước phát triển nhưng lại khá mới mẻ ở Việt Nam bởi người dân nước ta vẫn có thói
quen suy nghĩ rằng ngân hàng là nơi phục vụ cho các doanh nghiệp, là một kênh đầu
tư tiền nhàn rỗi. Do vậy, thị trường cho vay tiêu dùng còn khá sơ khai và chưa được
nhiều ngân hàng khai thác.
Xuất phát từ thực tiễn đó, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quang
Trung đã bước đầu triển khai loại hình cho vay tiêu dùng đối với khách hàng cá
nhân và hộ gia đình, tuy nhiên phạm vi cho vay tiêu dùng còn hẹp, chưa đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng và làm giảm khả năng cạnh tranh với các ngân
hàng bạn. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Mở rộng cho vay tiêu dùng
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quang Trung” làm
đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp là mở rộng cho vay tiêu dùng của NHTM.
Phạm vi nghiên cứu là mở rộng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Quang Trung trong thời gian từ năm 2007- 2009.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về cho vay tiêu dùng. Trên cơ sở đó phân
tích, đánh giá thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Quang Trung. Đánh giá những kết quả, những tồn tại và tìm ra nguyên
nhân của những tồn tại đó. Đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng cho
vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quang Trung.
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
1
Chuyên đề tốt nghiệp
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong chuyên đề thực tập bao gồm: phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp logic, tổng hợp,
phương pháp so sánh kết hợp với bảng biểu và đồ thị để phân tích, đánh giá.
5. Kết cấu của đề tài
Chương I/ Những vấn đề cơ bản về cho vay tiêu dùng của NHTM
Chương II/ Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Quang Trung
Chương III/ Giải pháp và kiến nghị mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Quang Trung
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương I/ Những vấn đề cơ bản về cho vay tiêu dùng của NHTM
1.1. Khái niệm và những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Luật Ngân hàng Pháp năm 1994 định nghĩa: “Ngân hàng được coi là những xí
nghiệp hoặc cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức
ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Theo luật nước Mỹ định nghĩa: “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản
tiền gửi cho khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh
doanh hoặc cho vay thương mại được xem là một ngân hàng”.
Luật tổ chức tín dụng do Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 22/12/1997, Điều 20 có viết: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được
thành lập theo quy định của luật này và quy định khác của Pháp luật để hoạt động
kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền
gửi để cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh toán”.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất
là có thể xem xét Ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng
cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế”.
1.1.2 Hoạt động cơ bản của NHTM
- Hoạt động huy động vốn
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được
thì phải có vốn. Riêng đối với NHTM, vốn lại càng là nhân tố quan trọng không thể
thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Các NHTM thực hiện kinh doanh
loại “hàng hóa đặc biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và
thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành
lập theo quy định của pháp luật, các ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi biện pháp
tăng trưởng vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn của NHTM bao
gồm những loại chủ yếu sau đây:
+ Vốn chủ sở hữu
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn khởi đầu và được bổ sung trong quá trình
hoạt động. Nguồn vốn ban đầu tuy không chiếm tỷ trọng lớn, nhưng nó ý nghĩa rất
quan trọng. Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm vốn điều lệ và các quỹ của ngân
hàng.
Vốn điều lệ là vốn được tạo lập ban đầu khi mới thành lập NHTM và được ghi
trong điều kiện của ngân hàng. Vốn điều lệ phải đạt được tối thiểu theo quy định của
pháp luật. Vốn điều lệ được ngân sách Nhà nước cấp nếu đó là ngân hàng công, do
các cổ đông đóng góp theo cổ phần nếu là ngân hàng cổ phần.
Các quỹ của ngân hàng: NHTM cũng là một tổ chức kinh tế, vì vậy các NHTM
đều được quyền trích lập các quỹ như các đơn vị kinh tế khác, để sử dụng cho những
mục đích nhất định. Ngoài ra NHTM hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng, được xem là hoạt động trong lĩnh vực “đặc biệt” nên hầu hết hệ
thống luật ngân hàng ở các nước đều cho phép các NHTM được trích lập Quỹ dự trữ
bổ sung vốn điều lệ thông thường quỹ này được trích theo tỷ lệ quy định (khoảng
5%) từ lợi nhuận ròng hàng năm cho đến khi nào số dư này ngang bằng vốn điều lệ.
+ Vốn huy động từ nguồn tiền gửi
Theo tính chất, vốn huy động từ nguồn tiền gửi được phân thành hai nhóm:
Nhóm 1: Vốn huy động hoạt kỳ, bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của các tổ
chức kinh tế cá nhân, tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức tín dụng khác.
Nhóm 2: vốn huy động định kỳ, gồm tiền gửi định kỳ, tiền gửi tiết kiệm của cá
nhân, tổ chức, tiền phát hành kỳ phiếu trái phiếu…
+ Vốn huy động từ nguồn vốn đi vay
Các NHTM có thể vay từ NHNN và các NHTM khác để giải quyết kịp thời các
nhu cầu chi trả cấp bách hoặc duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHNN quy định hoặc
vay trên thị trường bằng cách phát hành các kỳ phiếu, trái phiếu. Điểm khác nhau cơ
bản trong nguồn vốn của NHTM và các doanh nghiệp phi tài chính là: NHTM chủ
yếu kinh doanh từ nguồn vốn huy động từ các thành phần kinh tế, còn các doanh
nghiệp khác hoạt động bằng nguồn vốn chủ sở hữu là chính.
Vốn đi vay không những chiếm vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của NHTM,
mà nó còn thiết lập sự cân bằng trong cân đối và sử dụng vốn của mỗi NHTM:
Đối với những ngân hàng vừa và nhỏ, tình trạng thiếu vốn kinh doanh diễn ra
thường xuyên cần phải bổ sung nguồn vốn bằng cách đi vay các ngân hàng khác.
Đối với những ngân hàng có điều kiện mở rộng cho vay, thủ tục cho vay đơn
giản, điều kiện cho vay thoáng hơn, lãi suất hấp dẫn hơn sẽ dẫn đến kết quả thiếu
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
4
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn. Trong trường hợp này, NHTM đó cần đi vay để đáp ứng nhu cầu mở rộng tín
dụng, NHTM nào đã sử dụng hết nguồn vốn khả dụng mà vẫn còn phát sinh nhu cầu
vay vốn của khách hàng thì ngân hàng đó đang ở trong trạng thái hưng thịnh, vốn vay
ngân hàng khác vừa giúp họ mở rộng tín dụng, vừa giúp mở rộng và giữ chân khách
hàng.
- Hoạt động sử dụng vốn
+ Hoạt động ngân quỹ
Hoạt động này phản ánh các khoản dự trữ của ngân hàng nhằm đảm bảo an
toàn trong thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do NHNN đề ra. Vì
một trong những chức năng của ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi của khách
hàng với trách nhiệm hoàn trả. Khoản dự trữ này do NHNN quy định theo một tỷ lệ
nhất định trên tổng tiền gửi. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc này thay đổi theo từng thời kỳ
nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Những khoản này bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN, các chứng
khoán có tính thanh khoản cao…
+ Hoạt động tín dụng
Đây là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu của các NHTM, là nghiệp vụ trong đó: Ngân hàng
thỏa thuận với khách hàng để khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định vào mục đích
và thời gian thỏa thuận nhất định với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
+ Hoạt động đầu tư
Đầu tư là hình thức bỏ vốn nhằm thực hiện và thu được một kết quả nhất định
về kinh tế- xã hội. Đầu tư của ngân hàng có thể được phân chia thành 2 nhóm lớn:
đầu tư tài chính và đầu tư trực tiếp.
Đầu tư tài chính: các NHTM dùng vốn của mình để mua các loại chứng khoán
khác nhau có độ rủi ro thấp, năng lực thị trường cao. Hoạt động này mang lại thu
nhập cho ngân hàng, nâng cao khả năng thanh khoản, các NHTM có thể mua chứng
khoán ngắn hạn của Chính phủ, nó vừa tăng thu nhập cho ngân hàng, vừa góp phần
cân bằng thu chi ngân sách thường xuyên. NHTM còn được phép mua cổ phiếu, trái
phiếu của các doanh nghiệp tham gia vào việc thành lập và quản lý các doanh nghiệp.
Tuy nhiên NHTM chỉ được đầu tư chứng khoán có giới hạn không được để hoạt
động này lấn át hoạt động cho vay.
Đầu tư trực tiếp: là hình thức ngân hàng bỏ vốn đầu tư trực tiếp quản lý và sử dụng
phần vốn của mình, để tạo ra lợi nhuận. Các hình thức đầu tư này có thể là hùn vốn để liên
doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác hay mua cổ phần của các công ty, đơn vị kinh
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
5
Chuyên đề tốt nghiệp
tế… Hiệu quả hoạt động đầu tư của NHTM thể hiện ở tỷ lệ sinh lời của các khoản đầu tư,
sự tăng giá các chứng khoán và sự an toàn của các khoản đầu tư đó.
- Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính
Đây là hoạt động của ngân hàng thực hiện các dịch vụ cho khách hàng thông
qua đó nhận được các khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Nền kinh tế càng phát
triển thì dịch vụ này càng mở rộng, bao gồm:
+ Các hoạt động chuyển tiền cho khách hàng, thanh toán hộ khách hàng về các
khoản tiền mua bán dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng bằng hình thức
Sec, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng…
+ Ngân hàng đóng vai trò làm trung gian tài chính trong việc mua bán hộ khách
hàng.
+ Ngân hàng làm đại lý phát hành và bán chứng khoán cho công ty.
1.2. Cho vay tiêu dùng và vai trò của cho vay tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của cho vay ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ
sinh lời chủ yếu. Trong nghiệp vụ tín dụng thì cho vay lại là hoạt động sinh lợi cao
nhất. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa cho vay. Vì vậy, tuỳ theo góc
độ nghiên cứu mà có thể xác định nội dung của nó.
- Khái niệm theo quan điểm của K.Marx thì “Cho vay là quá trình chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một khoảng thời gian
nhất định thu hồi lại một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”.
- Khái niệm theo quy chế cho vay thì “Cho vay là một hình thức theo đó ngân
hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền trong một thời gian nhất định theo
thoả thuận dựa trên nguyên tắc hoàn trả và có lãi”.
- Như vậy, thật khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về cho vay nhưng
trong phạm vi nghiên cứu cho vay là một chức năng cơ bản của ngân hàng thì “Cho
vay là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và
các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một
thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên cho vay đến hạn thanh toán”.
Từ khái niệm trên, bản chất của cho vay là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả và có các đặc trưng sau:
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
6
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Tài sản giao dịch trong quan hệ cho vay ngân hàng bao gồm 2 hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
+ Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả nên người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây
là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị cho vay.
+ Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị cho vay, hay nói cách khác
là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc
này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỉ lệ lạm phát hay phải xác định lãi suất
thực dương.
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – tỉ lệ lạm phát
+ Trong quan hệ cho vay ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn
trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ cho vay như
hợp đồng cho vay, khế ước... thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết
hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng
1.2.2.1. Khái niệm về cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được hiểu là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài chính
quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe
cộ... Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch... cũng có thể
được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng.
1.2.2.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng nằm trong danh mục các khoản cho vay của ngân hàng nên
nhìn chung nó mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động cho vay nói chung. Tuy
nhiên, bên cạnh những đặc điểm chung đó, cho vay tiêu dùng còn có những đặc điểm
riêng:
- Quy mô của từng món vay thường nhỏ nhưng số lượng các món vay lại lớn
Quy mô của các món vay tiêu dùng thường nhỏ là do khi khách hàng có nhu
cầu mua sắm tiêu dùng, họ thường có xu hướng tiết kiệm từ trước và chỉ tìm đến
ngân hàng để bù đắp phần thiếu hụt tạm thời. Chính vì vậy, so với các khoản vay
kinh doanh, các khoản vay tiêu dùng có quy mô nhỏ hơn rất nhiều.
Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế xã hội, thu nhập của người dân cũng tăng
lên. Do đó, nhu cầu hưởng thụ của họ vì thế cũng tăng theo. Tuy nhiên, tại một thời điểm
nhất định thì khoản thu nhập tích luỹ của họ chưa thể đáp ứng được khoản chi tiêu mà họ
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
7
Chuyên đề tốt nghiệp
đang cần. Lúc này họ sẽ tìm đến ngân hàng để vay tiền nhằm có thể thỏa mãn nhu cầu
hiện tại do vậy số lượng những người này thường là tương đối đông.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí cao
Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục cho vay có chi phí cao nhất
trong danh mục cho vay của ngân hàng. Xuất phát từ thực tế là các khoản vay tiêu
dùng có quy mô nhỏ, số lượng nhiều nên chi phí cho khoản vay như lập hồ sơ, thẩm
định... là lớn và tất cả các quy trình này là không thể rút ngắn. Mặt khác, khách hàng
đến vay vì mục đích tiêu dùng thường là cá nhân, thời gian vay không dài nên công
tác thu thập thông tin là khó khăn, không rõ ràng, khó đảm bảo tính chính xác. Vì
vậy, việc ra quyết định cho vay cũng như thanh tra, kiểm tra, giám sát và thu nợ gây
tốn kém nhiều chi phí của ngân hàng.
Ngoài ra, một nguyên nhân khác khiến cho chi phí của các khoản vay này cao là
cho vay tiêu dùng chưa được đông đảo người dân biết đến, gần đây mới được các ngân
hàng chú trọng nhiều hơn. Do đó, ngân hàng phải tiến hành các chương trình quảng
cáo giới thiệu sản phẩm dịch vụ cũng như hình ảnh của ngân hàng. Các hoạt động này
cũng góp phần làm cho chi phí của các khoản cho vay tiêu dùng tăng thêm.
- Lãi suất cho vay tiêu dùng còn khá cao so với lãi suất cho vay doanh nghiệp
Thông thường, các khoản cho vay tiêu dùng được định giá rất cao. Lý do chính
được đưa ra để lí giải cho việc áp dụng mức lãi suất cao với các khoản cho vay tiêu
dùng là các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và rủi ro cao nhất trong danh
mục cho vay của ngân hàng. Hơn nữa, quy mô của từng hợp đồng vay thường nhỏ,
chi phí tổ chức cho vay cao cũng là một yếu tố làm lãi suất các khoản cho vay tiêu
dùng cao.
- Nhu cầu đối với các khoản vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co giãn
với lãi suất
Khi vay tiền, người tiêu dùng thường quan tâm đến khoản tiền mà họ phải trả
hàng tháng hơn là lãi suất (mặc dù rõ ràng chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng
đến quy mô số tiền phải trả). Sở dĩ như vậy là vì khi có nhu cầu, người tiêu dùng cân
nhắc đến việc thu nhập của mình có thể trang trải được khoản vay hay không? Nếu
được họ sẽ vay tiền ngân hàng để phục vụ cho nhu cầu của mình. Chính vì lý do đó
mà khách hàng kém nhạy cảm với lãi suất.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế
Khác với các khoản vay thương mại, nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng
phát sinh theo chu kì kinh doanh lặp đi lặp lại, trong cho vay tiêu dùng, người vay
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
8
Chuyên đề tốt nghiệp
thường ít khi vay nhiều lần. Trong giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tâm lý
người tiêu dùng cũng được chuyển biến theo hướng tích cực, họ cảm thấy lạc quan
hơn về tương lai, nhu cầu tiêu dùng vì thế cũng tăng lên, người dân tìm đến ngân
hàng nhiều hơn. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái, các ngân hàng
ngày càng trở nên khắt khe với các khoản cho vay còn người tiêu dùng thì chi tiêu dè
dặt hơn do đời sống có phần suy giảm, khả năng mua sắm vì thế cũng giảm sút.
- Tư cách của khách hàng là yếu tố góp phần quyết định sự hoàn trả của khoản
vay
Một khoản vay chỉ có thể được chấp nhận khi khách hàng được đánh giá là có
tư cách tốt, mục đích vay đúng đắn, phương án vay khả thi và phù hợp với chính sách
cho vay của ngân hàng. Tuy vậy, tư cách của khách hàng vay là định tính, khó có thể
được đánh giá một cách chính xác, mà chỉ có thể được xác minh và dự đoán trên cơ
sở các thông tin thu thập được về khách hàng. Nếu khách hàng có tư cách đạo đức tốt
thì họ sẽ có ý thức và trách nhiệm hơn trong việc hoàn trả khoản vay đầy đủ và đúng
hạn. Ngược lại, khách hàng là người có tư cách không tốt thì họ chỉ quan tâm đến
việc làm thế nào có thể vay tiền của ngân hàng mà không cần biết có trả nợ ngân
hàng được hay không. Điều này buộc ngân hàng phải đối mặt với rủi ro trong việc
thu nợ.
1.2.2. Vai trò của cho vay tiêu dùng
1.2.2.1. Đối với NHTM
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và sử dụng khoản tiền đó để
kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn đó theo nhiều hình
thức khác nhau như cho vay, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán... trong đó khoản mục
cho vay chiếm tỉ trọng lớn nhất và mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thì cơ cấu các khoản tài trợ của ngân hàng cũng có
nhiều thay đổi nhằm giúp cho ngân hàng có thể thích ứng được với các biến động của
thị trường.
Trong những năm gần đây, khoản mục cho vay tiêu dùng được các ngân hàng
đặc biệt chú trọng nhất là các ngân hàng mới thành lập, có quy mô nhỏ, uy tín chưa
cao khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng có quy mô lớn, uy tín để giành những
khách hàng lớn. Với đặc điểm là quy mô nhỏ, khối lượng lớn, lãi suất cao... các
khoản tín dụng tiêu dùng đó mang lại lợi nhuận đáng kể cho các ngân hàng trong tình
hình cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay.
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Cho vay tiêu dùng giúp NHTM thu hút một lượng khách hàng lớn đặc biệt là
khách hàng cá nhân. Họ đến với ngân hàng không chỉ để vay vốn tiêu dùng mà còn
sử dụng rất nhiều các dịch vụ khác của ngân hàng. Vì vậy, càng thu hút được nhiều
khách hàng thì ngân hàng càng bán được nhiều sản phẩm, dịch vụ và vị thế của ngân
hàng ngày càng được nâng cao.
1.2.2.2. Đối với người tiêu dùng
Trước đây, hầu hết các ngân hàng đều không quan tâm đến cho vay tiêu dùng.
Vài năm trở lại đây, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, đời sống
của nhân dân được nâng lên đáng kể, nhu cầu tiêu dùng vì thế cũng ngày càng đa
dạng. Hơn nữa, khi đời sống được cải thiện thì con người không chỉ dừng lại ở việc
“ăn no mặc ấm ” mà bây giờ họ lại mong muốn được “ăn ngon mặc đẹp”.
Tuy nhiên, không phải lúc nào người tiêu dùng cũng ngay lập tức có đủ tài
chính để chi tiêu. Vì vậy, cho vay tiêu dùng cung cấp cho người tiêu dùng nguồn tài
chính để đáp ứng những nhu cầu chi tiêu cần thiết, giúp nâng cao đời sống gia đình
và đặc biệt là mang lại cho họ các tiện ích mà hiện tại họ chưa có đủ khả năng về tài
chính. Điều quan trọng hơn nữa là cho vay tiêu dùng giúp cho người tiêu dùng trang
trải được những nhu cầu cấp bách trong cuộc sống như tiền viện phí, học phí cho con
cái… Mặt khác, việc mở rộng cho vay tiêu dùng sẽ làm cho việc tiếp cận vốn vay của
người tiêu dùng trở nên dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn.
Ngày nay, có rất nhiều loại hình thức cho vay tiêu dùng phong phú và đa dạng
theo mục đích cho vay cũng như theo thời hạn khoản vay để phục vụ cho nhiều đối
tượng khách hàng khác nhau, mang lại nhiều lợi ích cho họ đồng thời nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người tiêu dùng.
1.2.2.3. Đối với nhà sản xuất
Việc mở rộng cho vay tiêu dùng kéo theo nhu cầu của người tiêu dùng trong
tương lai về hiện tại. Nhà sản xuất thì luôn muốn tiêu thụ được thật nhiều hàng hóa-
dịch vụ, thu hồi vốn một cách nhanh chóng và có lợi nhuận cao. Tuy nhiên, không
phải lúc nào khách hàng của họ cũng đủ khả năng thanh toán ngay, nhất là các sản
phẩm có giá trị như nhà, ô tô… Với sự xuất hiện của cho vay tiêu dùng, người tiêu
dùng nhanh chóng có đủ tài chính để trả cho những nhu cầu chi tiêu đó của mình, do
vậy mà nhà sản xuất nhanh chóng bán được hàng hóa, tăng vòng quay vốn để tiếp tục
mở rộng sản xuất kinh doanh. Cho vay tiêu dùng đã gián tiếp góp phần thúc đẩy sản
xuất, quá trình luân chuyển hàng hóa phát triển; đồng thời đặt ra yêu cầu cho nhà sản
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
10
Chuyên đề tốt nghiệp
xuất phải đổi mới, cải tiến công nghệ, mẫu mã, chủng loại hàng hóa- dịch vụ để tăng
tính cạnh tranh trên thị trường.
1.2.2.4. Đối với nền kinh tế
Cho vay tiêu dùng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo điều kiện tái
sản xuất sức lao động, nâng cao năng lực làm việc từ đó sản xuất ra nhiều sản phẩm
dịch vụ với kiểu dáng và chất lượng ngày càng cao cho xã hội.
Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế. Nếu cho vay tiêu dùng tài trợ cho những nhu cầu chi tiêu về hàng hoá, dịch vụ
trong nước thì nó sẽ có tác dụng kích cầu, kích thích sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp trong nước, đẩy mạnh trao đổi thương mại với nước ngoài. Như vậy,
người tiêu dùng vừa được thỏa mãn nhu cầu của mình, doanh nghiệp bán được nhiều
sản phẩm, ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng sử dụng các loại dịch vụ của
mình và Chính phủ thì thu được một lượng thuế lớn.
Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng cũng góp phần đáng kể vào chính sách kích cầu
của Nhà nước. Các hoạt động sản xuất, trao đổi, lưu thông và tiêu dùng hàng hóa là
một quá trình trong đó có sự gắn kết chặt chẽ, theo đó người tiêu dùng là cái đích của
sản xuất, sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa dịch vụ là để tiêu dùng. Do vậy, cho vay
tiêu dùng giúp cho Nhà nước đạt được những mục tiêu về kinh tế- xã hội nhất định
như tăng mức sống cho người dân, tăng GDP, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh
phát triển; giảm tỷ lệ thất nghiệp…
Như vậy, việc cung cấp các sản phẩm cho vay tiêu dùng của các NHTM có vai
trò to lớn, nó không những thúc đẩy hoạt động tiêu dùng trong xã hội, thỏa mãn nhu
cầu của các chủ thể trong xã hội mà qua đó còn thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh của toàn bộ nền kinh tế phát triển.
1.2.3 Các loại hình cho vay tiêu dùng
1.2.3.1. Căn cứ vào mục đích vay
- Cho vay tiêu dùng cư trú
Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua
sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của các khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
- Cho vay tiêu dùng phi cư trú
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện
đời sống như mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch...
Đặc điểm của những khoản vay này thường có quy mô nhỏ, thời gian ngắn, do đó mà
mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những khoản cho vay tiêu dùng cư trú.
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
11
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
- Cho vay tiêu dùng trả góp
Cho vay tiêu dùng trả góp là loại cho vay ngắn hạn hoặc trung hạn được thanh
toán làm hai hoặc nhiều lần liên tiếp (thường theo tháng hoặc quý). Những khoản vay
này thường dùng để mua những vật dụng đắt tiền (như xe ô tô, đồ dùng và thiết bị gia
đình) hoặc để trang trải các khoản nợ của hộ gia đình hoặc thu nhập từng định kỳ của
người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ. Đối với loại cho vay
tiêu dùng trả góp, ngân hàng thường chú ý đến một số vấn đề sau:
+ Loại tài sản được tài trợ: thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài
sản hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu, lâu dài trong tương lai như: nhà
ở, xe cộ… Vì vậy, ngân hàng thường muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài
sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài.
+ Số tiền trả trước: khách hàng phải trả một phần tiền, phần còn lại ngân hàng
sẽ cho vay và số tiền ngân hàng cho vay khoảng 60%- 70% giá trị hàng hóa, dịch vụ.
Trong trường hợp khách hàng không trả nợ thì ngân hàng buộc phải phát mại tài sản
để thu nợ.
+ Chi phí tài trợ là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử
dụng vốn vay. Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác liên quan.
- Cho vay tiêu dùng phi trả góp
Cho vay tiêu dùng phi trả góp còn gọi là cho vay trả một lần là các khoản vay
ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và được thanh
toán một lần khi khoản vay đáo hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả
góp chỉ được cấp cho các khoản vay có quy mô nhỏ với thời hạn không dài.
- Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép
thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn cho vay
được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập từng kỳ, khách hàng
được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn,
theo một hạn mức cho vay xác định.
Lãi trả mỗi thời kỳ đối với khoản vay này có thể được tính trên số dư nợ đã
được điều chỉnh, số dư nợ ở đây được tính là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ hạn sau
khi khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng. Ngoài ra, lãi trả mỗi thời kỳ đối với
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
12
Chuyên đề tốt nghiệp
khoản vay này có thể được tính trên số dư nợ gốc trước khi điều chỉnh. Đây là số dư
nợ cuối kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán.
1.2.3.3. Căn cứ vào thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách
hàng một khoản cho vay thường được xác định cụ thể ngày, tháng hoặc năm và ghi
trong hợp đồng cho vay. Hay thời hạn cho vay còn được hiểu là thời hạn được tính từ
lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi cuối
cùng phải thu về. Căn cứ theo thời gian, cho vay được phân thành 3 loại:
- Cho vay tiêu dùng ngắn hạn: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ 12 tháng
trở xuống được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân
hoặc để bổ sung vào tài sản lưu động của các doanh nghiệp bởi vì tài sản lưu động
thường có vòng quay trên một vòng thấp hơn một năm. Do vậy, trong một năm doanh
nghiệp có thể hoàn trả được số tiền vay ở ngân hàng.
- Cho vay tiêu dùng trung hạn: là hình thức cấp tín dụng từ 1 năm đến 5 năm.
Hình thức cho vay này được sử dụng chủ yếu để đầu tư sửa chữa, đổi mới thiết bị,
phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải… các trang thiết bị nhanh hao mòn hay
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh từ 1 năm đến
5 năm.
- Cho vay tiêu dùng dài hạn: là hình thức cấp tín dụng trên 5 năm. Mục đích
của hình thức cho vay này nhằm đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà xưởng,
mua sắm máy móc, thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng cầu đường… những công
trình lớn, thu hồi vốn lâu từ 5 năm đến 10 năm có khi lên đến 20 năm.
Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự án có
thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn do ở thời điểm hiện tại doanh nghiệp khó có thể
tính được hết khó khăn sẽ gặp trong tương lai. Do vậy mức độ rủi ro của các khoản
cho vay có thời hạn lớn đối với ngân hàng sẽ tăng lên. Điều này một phần lý giải tại
sao lãi suất các khoản cho vay dài hạn thường cao hơn các khoản cho vay ngắn hạn
và đòi hỏi có thế chấp.
Phân loại các khoản cho vay theo thời hạn có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng thương mại. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh hưởng trực
tiếp đến tính an toàn và sinh lợi của một ngân hàng thương mại.
1.2.3.4. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
- Cho vay tiêu dùng gián tiếp
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các
khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho
người tiêu dùng.
Sơ đồ 1: Sơ đồ cho vay tiêu dùng gián tiếp
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký với nhau hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp
đồng này, ngân hàng sẽ đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu,
số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu.
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết với nhau hợp đồng mua bán chịu
hàng hóa. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ đã ký hợp đồng.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
+ Cho phép ngân hàng có thể dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
+ Cho phép ngân hàng tiết kiệm được một khoản chi phí trong cho vay vì ngân
hàng chỉ phải ký hợp đồng với chính công ty bán lẻ mà thôi.
+ Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động
ngân hàng khác.
+ Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng
gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp vì khi mà ngân hàng ký hợp đồng
với công ty bán lẻ cùng các điều kiện ràng buộc thì trong trường hợp người tiêu dùng
không thanh toán cho ngân hàng, ngân hàng có quyền truy đòi nhà cung cấp về khoản
nợ trên.
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
14
(2)
(1)
(5)
(3)
(4)
Ngân hàng
Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(6)
Chuyên đề tốt nghiệp
Bên cạnh một số ưu điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp còn có một số
nhược điểm sau:
+ Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu do đó
không thể nắm được tình hình thực tế của khách hàng mà ngân hàng tài trợ.
+ Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu
hàng hóa.
+ Kĩ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với
cho vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt động này
thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực
tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này.
Sơ đồ 2: Sơ đồ cho vay tiêu dùng trực tiếp
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay với nhau
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản vẫn còn thiếu cho công ty bán lẻ
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng
So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số ưu
điểm sau:
+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng
gián tiếp.
+ Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp, ngân hàng có thể tận dụng được trình độ
kiến thức và năng lực của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
15
(2)
(3)
(5)
(4)
(1)
Ngân hàng Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
Chuyên đề tốt nghiệp
chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực cho vay nên các quyết định cho
vay trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng
được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của các công ty
bán lẻ.
+ Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể
phát sinh, có nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng các sản phẩm, dịch vụ khác của
ngân hàng và như vậy quyền lợi của cả ngân hàng và khách hàng đều được thỏa mãn
trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp giữa hai bên.
Bên cạnh đó, việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng cũng tạo điều kiện cho
ngân hàng có thể xử lý, giải quyết linh hoạt những vướng mắc của khách hàng. Việc
khách hàng tiếp xúc trực tiếp với ngân hàng cũng giúp cho quan hệ giữa khách hàng
và ngân hàng gần gũi hơn, quảng bá được hình ảnh của ngân hàng đến với nhiều
người hơn...
Tuy nhiên, với hình thức này, ngân hàng phải tiếp xúc với từng khách hàng nhỏ
lẻ do vậy chi phí sẽ cao, thời gian để ngân hàng tăng quy mô khách hàng là chậm và
ngân hàng sẽ là người duy nhất gánh chịu rủi ro.
1.3 Nội dung cơ bản của mở rộng cho vay tiêu dùng
1.3.1. Quan niệm về mở rộng cho vay tiêu dùng
Mở rộng cho vay tiêu dùng được xác định trên cơ sở việc thực hiện đa dạng
hóa đối tượng khách hàng, đa dạng hóa các hình thức cho vay tiêu dùng, tăng giá trị
các khoản vay tiêu dùng… trong một thời gian nhất định. Mức tăng trưởng cho vay
được tính bằng số tương đối hay số tuyệt đối của số lượng cho vay kỳ sau so với kỳ
trước. Số tương đối thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh hay chậm, số tuyệt đối thể
hiện quy mô tăng trưởng cho vay.
Cho vay tiêu dùng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan như: quy mô hoạt
động của Ngân hàng; các chiến lược, chính sách cho vay; nguồn nhân lực; trình độ
công nghệ… và các nhân tố khách quan như: môi trường kinh tế- chính trị- xã hội; tư
cách, khả năng tài chính của người đi vay...
1.3.2. Sự cần thiết của mở rộng cho vay tiêu dùng tại các NHTM
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, tình hình cạnh tranh trên
thị trường tài chính nước ta ngày càng trở lên gay gắt khi hàng loạt các ngân hàng
mới thành lập và liên tục tuyên bố nâng cao vốn điều lệ, mở rộng thị phần của mình.
Trong tình trạng thị phần cho vay trung và dài hạn gần như đã bão hòa do ảnh hưởng
của cuộc suy thoái kinh tế, kèm theo đó là chính sách thả nổi tiền tệ với việc cho
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
16
Chuyên đề tốt nghiệp
phép các NHTM cho vay trung và dài hạn theo lãi suất thỏa thuận làm lãi suất trên thị
trường tăng cao gây khó khăn cho các doanh nghiệp vay vốn. Lúc này thị trường cho
vay tiêu dùng chính là cứu cánh cho các ngân hàng. Tuy dư nợ cho vay tiêu dùng còn
chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ của hoạt động cho vay, song đây là một lĩnh
vực đầy tiềm năng mà các ngân hàng còn chưa khai thác hết và trong tương lai đây sẽ
là loại hình tín dụng đóng vai trò quan trọng trong ngân hàng.
Trong những năm gần đây, ngành ngân hàng đang trong quá trình đổi mới
mạnh mẽ cả về chất và lượng. Việc không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động cũng
như đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng là rất cần thiết trong điều kiện
nền kinh tế thị trường cạnh tranh như hiện nay. Nếu một ngân hàng cứ duy trì quy mô
ban đầu, không tích cực hoàn thiện và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của mình
thì rất khó có thể tồn tại lâu dài. Hơn nữa, ngành ngân hàng đang ngày càng phải đối
mặt với nhiều sự cạnh tranh. Chính vì vậy, để tăng tính cạnh tranh thì các NHTM cần
phải đặc biệt quan tâm đến việc phát triển mở rộng cho vay tiêu dùng một cách toàn
diện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nắm bắt được những nhu cầu ngày càng cao đó,
các ngân hàng đã và đang đưa ra các sản phẩm, dịch vụ cho vay tiêu dùng nhằm thỏa
mãn tốt nhất những nhu cầu vô cùng phong phú và đa dạng.
Một lý do nữa khiến cho việc mở rộng cho vay tiêu dùng là cần thiết, đó là hoạt
động cho vay tiêu dùng luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Và việc mở rộng cho vay tiêu
dùng góp phần đa dạng hóa danh mục cho vay của ngân hàng, từ đó giúp đa dạng hóa
rủi ro. Nếu ngân hàng chỉ tập trung vào một số nghiệp vụ thì nguy cơ rủi ro rất cao và
lợi nhuận của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng khi doanh thu từ các nghiệp vụ kinh
doanh đó chịu những ảnh hưởng mạnh từ thị trường. Ngoài ra, việc mở rộng cho vay
tiêu dùng còn giúp ngân hàng có thêm nguồn thu khác từ phía các khách hàng là cá
nhân ngoài nguồn thu từ khách hàng là các doanh nghiệp.
Muốn mở rộng sản xuất thì tất yếu phải mở rộng tiêu dùng bằng việc khuyến
khích tiêu dùng, cho vay tiêu dùng giúp cho Nhà nước đạt được những mục tiêu về
kinh tế- xã hội nhất định như tăng mức sống cho người dân, tăng GDP, thúc đẩy quá
trình sản xuất kinh doanh phát triển; giảm tỳ lệ thất nghiệp…
Vậy, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, sự đòi hỏi ngày càng cao và
phong phú của người dân, sự cạnh tranh mang tính sinh tồn thì việc mở rộng cho vay
tiêu dùng đối với các ngân hàng là một tất yếu khách quan của nền kinh tế.
1.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay tiêu dùng
1.3.3.1. Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng cho vay trong một thời kỳ nhất
định, thường được tính theo năm tài chính. Đây là chỉ tiêu mang tính thời kỳ nên nó
phản ánh một cách khái quát nhất về sự mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng.
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng tuyệt đối
Chỉ tiêu này cho biết doanh số cho vay tiêu dùng năm t so với năm trước đó về
số tuyệt đối là bao nhiêu. Chỉ tiêu này được tính bằng hiệu số giữa tổng doanh số cho
vay tiêu dùng năm tài chính với doanh số cho vay tiêu dùng năm trước.
Công thức tính:
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng tương đối
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng của năm t
so với năm trước. Chỉ tiêu này được tính bằng thương số giữa giá trị tăng trưởng
doanh số cho vay tiêu dùng tuyệt đối với tổng doanh số cho vay tiêu dùng năm trước
đó.
Công thức tính:
- Chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng cho vay tiêu dùng
Chỉ tiêu này cho biết mức đóng góp doanh số cho vay của cho vay tiêu dùng.
Mức đóng góp này qua các năm tăng lên cho thấy cho vay tiêu dùng ngày càng chiếm
vị trí quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Chỉ tiêu này được tính bằng tỉ lệ % giữa tổng doanh số cho vay tiêu dùng với
tổng doanh số cho vay của toàn ngân hàng.
Công thức tính:
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
18
Giá trị tăng trưởng
doanh số tuyệt đối
Tổng doanh số
CVTD năm t
=
Tổng doanh số
CVTD năm (t-1)
-
Giá trị tăng trưởng
doanh số tương đối
=
Giá trị tăng trưởng doanh số tuyệt đối
Tổng doanh số CVTD năm (t-1)
x 100%
Tỷ trọng doanh
số CVTD
=
Tổng doanh số CVTD
Tổng doanh số CV
x 100%
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.3.2. Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng
Dư nợ cho vay tiêu dùng phản ánh số tiền mà khách hàng đang nợ ngân hàng
tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý hay cuối năm tài chính.
Chỉ tiêu này mang tính thời điểm, nó thường được sử dụng kết hợp với chỉ tiêu doanh
số cho vay tiêu dùng nhằm phản ánh thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân
hàng tại thời điểm nghiên cứu.
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ tuyệt đối
Chỉ tiêu này cho biết dư nợ năm t tăng (giảm) so với năm (t-1) về số tuyệt đối
là bao nhiêu. Chỉ tiêu này tăng lên cho thấy số tiền ngân hàng cho khách hàng vay
tăng lên.
Chỉ tiêu này được tính bằng hiệu số giữa tổng mức dư nợ cho vay tiêu dùng
năm t với tổng dư nợ cho vay tiêu dùng năm (t-1).
Công thức tính:
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tương đối
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng (giảm) dư nợ cho vay tiêu dùng năm t so với
năm (t-1). Chỉ tiêu này tăng chứng tỏ khách hàng vay NH để tiêu dùng ngày càng
nhiều. Nó được tính bằng tỉ lệ % giữa giá trị tăng trưởng tuyệt đối với tổng dư nợ cho
vay tiêu dùng năm (t-1).
Công thức tính:
- Chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng cho vay tiêu dùng
Chỉ tiêu này được tính bằng tỉ lệ % giữa tổng dư nợ cho vay tiêu dùng với tổng
dư nợ cho vay chung của toàn ngân hàng.
Công thức tính:
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
19
Giá trị tăng trưởng
dư nợ tuyệt đối
Tổng dư nợ
CVTD năm t
Tổng dư nợ
CVTD năm (t-1)
=
-
Giá trị tăng
trưởng tương đối
=
Giá trị tăng trưởng dư nợ tuyệt đối
Tổng dư nợ CVTD năm (t-1)
x 100%
Tỷ trọng
=
Tổng dư nợ CVTD
Tổng dư nợ từ hoạt động CV
x 100%
Chuyên đề tốt nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết dư nợ cho vay tiêu dùng chiếm tỉ lệ bao nhiêu trong tổng
dư nợ từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Tỷ trọng này càng cao chứng tỏ CVTD
chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
1.3.3.3. Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng số lượng khách hàng
Số lượng khách hàng là tổng số khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng trong
một thời kỳ nhất định. Trong cho vay tiêu dùng, số lượng khách hàng được thể hiện
thông qua số khoản vay tiêu dùng mà ngân hàng cấp cho khách hàng.
Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng số lượng khách hàng được tính bằng hiệu số
giữa số lượng khách hàng năm t với số lượng khách hàng năm (t-1).
Công thức tính:
1.3.3.4. Chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng của loại hình cho vay tiêu dùng
Chỉ tiêu này phản ánh sự đa dạng về loại hình cho vay tiêu dùng mà ngân hàng
cung cấp cho khách hàng bao gồm: cho vay mua nhà, cho vay mua ô tô, cho vay
CBCNV, cho vay NLĐXK… Khi các loại hình cho vay trên được mở rộng thì sẽ
thỏa mãn tốt hơn nhu cầu, mong muốn của khách hàng qua đó thể hiện cho vay của
ngân hàng đang có sự tăng trưởng, cách thức mà ngân hàng cung cấp dịch vụ cho vay
tiêu dùng cho khách hàng cũng đa dạng hơn.
Tỷ trọng của các sản phẩm cho vay tiêu dùng được tính theo công thức:
1.3.3.5. Lợi nhuận từ cho vay tiêu dùng
Lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng mà các ngân hàng hướng tới.
Lợi nhuận cho vay được tính theo công thức sau:
Lợi nhuận CVTD= Doanh thu từ CVTD – Chi phí CVTD
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
20
Mức tăng (giảm)
số lượng khách hàng
Số lượng
khách hàng năm t
Số lượng
khách hàng năm (t-1)
-
=
Tỷ trọng
=
Dư nợ CVTD sản phẩm (i)
Tổng dư nợ từ hoạt động CVTD
x 100%
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong đó:
Doanh thu từ cho vay tiêu dùng bao gồm lãi cho vay và các khoản phí thu
được.
Chi phí cho vay tiêu dùng gồm chi phí huy động vốn ( chi phí trả lãi tiền gửi,
tiền vay), chi phí marketing và các chi phí cho vay khác.
Lợi nhuận thu được từ cho vay tiêu dùng càng lớn cũng một phần thể hiện hoạt
động cho vay tiêu dùng của ngân hàng đang ngày càng được mở rộng.
1.3.3.6. Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng
Nợ quá hạn trong hoạt động cho vay là khoản nợ đến thời hạn thanh toán mà
khách hàng không có khả năng hoàn trả và không được ngân hàng cho gia hạn nợ hay
giãn nợ. Nợ quá hạn sẽ dẫn đến khả năng mất vốn, đem lại rủi ro cho ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn cho vay
tiêu dùng và tổng dư nợ CVTD của ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định,
thường được tính theo năm tài chính.
Nếu NHTM có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có độ rủi ro cao. Ngược
lại, ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp đồng nghĩa với việc là ngân hàng đó có khả
năng quản lý và thu hồi vốn tốt, do đó sẽ làm tăng niềm tin của người tiêu dùng vào
ngân hàng hơn.
Như vậy, mở rộng cho vay tiêu dùng là sự tăng lên về số lượng khách hàng, giá
trị khoản vay và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp. Nếu một ngân hàng đạt
được cả ba tiêu chí này thì cho vay tiêu dùng của ngân hàng đã được mở rộng. Tuy
nhiên, trong thực tế rất khó để một ngân hàng đạt được cùng lúc cả ba tiêu chí trên,
do đó trong từng giai đoạn phát triển của mỗi ngân hàng mà ngân hàng đó sẽ ưu tiên
mở rộng cho vay tiêu dùng bằng các cách khác nhau trong những cách trên.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng
1.3.4.1. Các nhân tố bên trong ngân hàng
- Chính sách cho vay của ngân hàng
Trên cơ sở định hướng phát triển chung của toàn ngân hàng, ngân hàng cần xây
dựng các chính sách cho vay đảm bảo phù hợp với các mục tiêu đã đề ra. Có thể hiểu
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
21
TL nợ quá
hạn CVTD
=
Tổng dư nợ quá hạn CVTD
Tổng dư nợ CVTD
x 100%
Chuyên đề tốt nghiệp
chính sách cho vay của ngân hàng là những nguyên tắc, phương pháp chỉ đạo về tiêu
chuẩn đối với danh mục cho vay của ngân hàng.
Chính sách cho vay bao gồm các yếu tố như: hạn mức cho vay đối với một
khách hàng, kỳ hạn của khoản cho vay, lãi suất cho vay, các loại hình cho vay được
thực hiện, hướng giải quyết phần cho vay bị vượt giới hạn, các khoản vay có vấn đề,
quy định về tài sản đảm bảo, cách thức thanh toán nợ… Tất cả những yếu tố đó đều
tác động trực tiếp đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Do đặc điểm
của cho vay tiêu dùng là số lượng các món vay rất lớn trong khi quy mô của từng
món vay thường nhỏ nên việc áp dụng mức lãi suất, kỳ hạn cho vay cần phải linh
hoạt, có những ưu đãi nhất định nhằm thu hút được người tiêu dùng sử dụng các sản
phẩm, dịch vụ cho vay tiêu dùng của Chi nhánh.
Nếu ngân hàng cho rằng cần phải mở rộng cho vay tiêu dùng trong thời gian tới thì
ngân hàng sẽ phải đề ra kế hoạch chi tiết cho việc thu hút khách hàng, tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng vay vốn. Nếu xác định giai đoạn tới chỉ dừng lại ở việc mở
rộng mạng lưới và đa dạng hóa các loại sản phẩm, dịch vụ thì để đạt mục tiêu này có thể
các yếu tố như lợi nhuận và chất lượng có thể được xét đến sau. Nhưng nếu giai đoạn
này ngân hàng lại xác định cần phải tập trung tăng trưởng đồng thời nâng cao chất lượng
cho vay thì lợi nhuận và chất lượng lại là yếu tố trọng tâm cần giải quyết hàng đầu.
Trong trường hợp cho vay tiêu dùng không nằm trong chính sách cho vay của
ngân hàng thương mại thì các cá nhân và hộ gia đình sẽ không có cơ hội vay được
những khoản tiền từ ngân hàng để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Việc xây
dựng một chính sách cho vay riêng cho khoản mục này sẽ giúp cho ngân hàng xác
định rõ hơn mục tiêu cần hướng tới cũng như phân bổ và sử dụng các nguồn lực bên
trong ngân hàng một cách có hiệu quả nhất. Nếu các yếu tố trong chính sách cho vay
của ngân hàng đưa ra đúng đắn, linh hoạt, phù hợp với sự thay đổi của môi trường
kinh tế xã hội, đáp ứng được các nhu cầu đa dạng khác nhau của khách hàng sẽ giúp
cho ngân hàng dễ dàng hơn trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng cho vay tiêu dùng.
Trái ngược với chính sách cho vay hợp lý là chính sách cho vay cứng nhắc sẽ gây cản
trở cho chính bản thân ngân hàng, làm giảm tính cạnh tranh của ngân hàng.
- Quy trình cho vay
Quy trình cho vay quy định các bước cần thiết phải thực hiện trong quá trình
cho vay bao gồm từ khi chuẩn bị cho vay, giải ngân, thu nợ, đảm bảo an toàn vốn cho
vay, được tiến hành từ khi bắt đầu phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi được cả vốn
lẫn lãi. Sự kết hợp nhịp nhàng giữa các bước sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng phát
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
22
Chuyên đề tốt nghiệp
hiện kịp thời các khuyết điểm, nắm được diễn biến của các khoản cho vay để có biện
pháp can thiệp nhanh chóng nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào và trong mọi trường hợp đều thực hiện
đúng như trong quy trình đã nêu ra một cách cứng nhắc mà cần có sự linh hoạt trong
từng món vay để không gây ra sự khó khăn cho khách hàng, gây mất thời gian và chi
phí cho chính bản thân ngân hàng. Đối với những món vay có quy mô nhỏ quá thì
Chi nhánh có thể giảm bớt các thủ tục, giấy tờ, không cần tài sản đảm bảo. Nếu ngân
hàng vẫn áp dụng đầy đủ thủ tục cho những khoản vay có giá trị quá nhỏ thì sẽ rất
mất thời gian cho cán bộ tín dụng và làm giảm hiệu quả công việc đồng thời làm mất
đi khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng, từ đó một phần làm cản trở việc mở
rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng.
- Chất lượng và tính da dạng của các sản phẩm dịch vụ cho vay tiêu dùng
Đây là một nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng. Một ngân hàng sẽ bị hạn chế trong mở rộng cho vay tiêu dùng nếu các sản
phẩm dịch vụ cho vay tiêu dùng mà nó cung cấp cho khách hàng quá đơn điệu, thêm
vào đó là chất lượng không cao, đáp ứng không tốt nhu cầu của khách hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, nhiều ngân
hàng thương mại đẩy mạnh dịch vụ cho vay tiêu dùng với nhiều sản phẩm hấp dẫn cả
về chất lượng lẫn chủng loại, hạn mức cho vay cũng được nâng lên từ vài chục triệu
đến gần tỷ đồng.
- Cán bộ tín dụng
Trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, thái độ phục vụ... của cán bộ tín
dụng có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nó có thể tạo
nên hình ảnh tốt cho ngân hàng nhưng cũng có thể gây nên những ấn tượng xấu cho
ngân hàng vì chính cán bộ tín dụng ngân hàng là những người tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng là cá nhân, hộ gia đình khi họ có nhu cầu vay vốn. Do số lượng các món
vay tiêu dùng là rất lớn nên một ngân hàng cần phải có số lượng cán bộ tín dụng hợp
lý, phân công công việc cụ thể để không xảy ra trường hợp một cán bộ tín dụng phải
quản lý quá nhiều các khoản vay hay có quá nhiều cán bộ tín dụng sẽ làm tăng chi phí
của ngân hàng, thực hiện tốt những điều đó sẽ góp phần cho ngân hàng có thể mở
rộng, phát triển không chỉ mình hoạt động cho vay tiêu dùng mà tất cả các hoạt động
khác.
Mặt khác, trong giai đoạn mà sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng như
hiện nay, nếu ngân hàng muốn đáp ứng tốt các nhu cầu đa dạng khác nhau của khách
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
23
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng bằng các sản phẩm cho vay tiêu dùng thì nhân tố nguồn nhân lực phải được
quan tâm đúng mức. Cán bộ ngân hàng không chỉ có trình độ chuyên môn cao mà cần
phải có đạo đức nghề nghiệp để có thể tránh xa các cám dỗ vật chất; đánh giá khách
hàng một cách trung thực không vì tư lợi cá nhân, có như vậy mới có thể đưa ra các
quyết định khách quan và chính xác.
- Quy mô hoạt động của ngân hàng
Đây là một nhân tố quan trọng quyết định cấu trúc danh mục cho vay của ngân
hàng. Thông thường, những ngân hàng lớn nhất có ưu thế về chi phí trong việc cho vay
kinh doanh bất động sản và cho vay tiêu dùng trả góp. Các ngân hàng có quy mô trung
bình đạt mức chi phí thấp nhất đối với các khoản vay theo thẻ tín dụng. Các ngân hàng
có quy mô nhỏ nhất chỉ có lợi thế trong cho vay thương mại.
Khả năng huy động vốn: Vốn huy động của ngân hàng được hình thành chủ
yếu từ tiền gửi cá nhân và các tổ chức trong nền kinh tế. Phần lớn vốn huy động sẽ
được ngân hàng đưa ra cho vay. Do hoạt động của ngân hàng cần phải được đa dạng
hóa để giảm thiểu rủi ro nên khi vốn huy động của ngân hàng được tăng cường thì
ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc triển khai thêm sản phẩm, dịch vụ khác nhau
nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, làm tăng khả năng cạnh tranh và vị thế của
ngân hàng mình với các ngân hàng hay các định chế tài chính khác.
- Công nghệ thông tin
Trong xu hướng phát triển hiện nay, việc nắm bắt được nhiều thông tin chính
xác, kịp thời sẽ tạo nên sức cạnh tranh vô cùng to lớn cho bản thân các ngân hàng.
Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ vào phân tích thông tin cho vay cũng góp phần
giảm thiểu những sai sót không đáng có trong hoạt động cho vay nói chung và hoạt
động cho vay tiêu dùng nói riêng của ngân hàng.
Do đặc điểm của cho vay tiêu dùng, số lượng các khoản vay rất lớn nên việc ứng
dụng công nghệ tiên tiến sẽ giúp cho các ngân hàng có thể quản lý danh sách khách
hàng vay tiêu dùng một cách dễ dàng, tiết kiệm được nhân công cũng như chi phí
quản lý góp phần giảm giá thành sản phẩm dịch vụ, tăng tính cạnh tranh của ngân
hàng trên thị trường.
Khi công nghệ phát triển đến mức hiện đại thì việc giải quyết các thủ tục cũng
được nhanh chóng, chính xác, thay vì phải đến ngân hàng, khách hàng có thể ngồi tại
nhà cũng có thể gửi đơn xin vay đến ngân hàng, các cán bộ cho vay tiêu dùng cũng có
thể nắm bắt được thông tin về khách hàng từ nhiều phía và nhanh chóng đưa ra quyết
định cho vay hay từ chối khi nhận được đơn xin vay của khách hàng.
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
24
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.4.2. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
- Từ phía khách hàng
+ Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng
Các sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng chủ yếu là nhằm tài trợ cho nhu
cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình, những sản phẩm
mang tính dịch vụ nên nhu cầu của khách hàng chính là yếu tố quyết định các hình
thức cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Xuất phát từ những nhu cầu đó mà ngân hàng
xây dựng chiến lược, đưa ra các sản phẩm tiêu dùng nhằm thỏa mãn một cách tốt
nhất các nhu cầu của khách hàng.
Tuy nhiên trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển mà nhu cầu về các sản
phẩm tiêu dùng của khách hàng sẽ có những thay đổi và ngân hàng cần phải xác định
được sự thay đổi trong nhu cầu đó để đưa ra được các sản phẩm, dịch vụ phù hợp ở
thời điểm hiện tại và đón đầu được trong tương lai. Nếu phát hiện các nhu cầu một
cách chậm chạp sẽ khiến các ngân hàng bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và có thể đưa ra các
sản phẩm lỗi thời không còn phù hợp với nhu cầu hiện tại, trong khi đó nếu ngân
hàng đưa ra thị trường các sản phẩm mới nhưng người tiêu dùng chưa có nhu cầu sử
dụng thì sản phẩm đó sẽ không được tiêu thụ và nó sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận
của ngân hàng.
+ Khả năng tài chính của khách hàng
Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay tiêu dùng và khả
năng trả nợ của khách hàng. Do vậy, xem xét mức thu nhập của người tiêu dùng có
vai trò quan trọng trong việc quyết định cho vay hay không cho vay của các ngân
hàng. Các khoản cho vay tiêu dùng sẽ có độ an toàn cao khi người tiêu dùng có thu
nhập cao và ổn định. Bên cạnh đó, với những người có thu nhập cao và ổn định, họ
sẽ có ý thức cao trong việc thanh toán nợ cho ngân hàng để tránh những rắc rối về
mặt pháp lý có thể ảnh hưởng đến công việc của họ. Ngược lại, với những cá nhân
hay hộ gia đình có thu nhập thấp hoặc không ổn định thì việc thanh toán khoản vay
cho ngân hàng có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động chi tiêu khác trong gia đình và
người tiêu dùng không thể xác định được khi nào thì họ có thu nhập, nó có thể không
trùng khớp với thời điểm mà ngân hàng thu nợ, do vậy ngân hàng sẽ gặp khó khăn
trong thu nợ. Tuy nhiên, trong thực tế, thu nhập của người tiêu dùng là nhân tố có
tính biến động cao, có thể tại thời điểm ký hợp đồng thì thu nhập là cao và ổn định
nhưng vì một yếu tố khó có thể tránh khỏi như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn... của chính
khách hàng hoặc của người thân cũng làm thay đổi tính ổn định về thu nhập của họ
Đặng Hoàng Lan Lớp: Tài chính doanh nghiệp 48B
25