Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh ấu trùng sán lợn (cysticercosis) của albendazole và praziquantel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 49 trang )

BỘ Y TÊ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Dược HÀ NỘI

^ »o Oo -N f*

ĐẶNG MINH THÀNH
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐlỂU TRỊ
BỆNH ÂU TRÙNG SÁN LỢN (<CYSTICERCOSIS)
CỦA ALBENDAZOLE VÀ PRAZIQUANTEL
© A I.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Dược SỸ KHÓA 2002
/v inóVx0
4
_________
\ '
Cịiúo DỈèu íitùUnỊ J(III: ThS. Lê Thi Thu Hương
ThS. Đoàn Thị Hạnh Nguyên
Qlổi thục hiệtt: Khoa khám bệnh chuyền ngành
Viện Sốt rét — ký einh trùng —
côn trùng trung ương
Q^hòì ạian thưe hiên: 01/2004 " 12/2000
Hà Nội, Tháng 05/2007
í
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp hoàn thành khóa luận tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời
cảm ơn chân thành tới:
ThS. Lê Thị Thu Hương — Giảng viên Bộ môn Vi sinh - sinh học,
trường Đại học Dược Hà Nội. Người thầy đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình
chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô trong Ban Giám


Hiệu, Phòng Đào Tạo và các bộ môn khác Trường Đại Học Dược Hà Nội đã
dạy dỗ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
ThS. Đoàn Thị Hạnh Nguyên — Trưởng khoa khám bệnh chuyên ’
ngành - Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng trung ương cùng tập thể bác
sĩ, cán bộ trong khoa đã hướng dẫn tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu hoàn thành khóa luận tại khoa khám bệnh
chuyên ngành - Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng trung ương.
ThS. Đặng Cẩm Thạch — Trưởng khoa ký sinh trùng - Viện sốt rét -
ký sinh trùng - côn trùng trung ương.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân
trong gia đình và bạn bè, những người đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
MỤC LỤC
Đăt vấn đề 1
Phần I: Tổng quan tài liệu 3
1.1 Đặc điểm hình thái và chu kỳ phát triển của sán dây lợn 3
1.1.1 Hình thể 3
1.1.2 Chu kỳ phát triển 4
1.2 Dịch tễ bệnh ấu trùng sán lợn 5
1.2.1 Đường lây nhiễm của bệnh 5
1.2.2 Tình hình dịch tễ bệnh ấu trùng sán lọn 6
1.3 Các biểu hiện lâm sàng của bệnh ấu trùng sán lợn 6
1.3.1 Bệnh ấu trùng sán lợn ở da và cơ 6
1.3.2 Bệnh ấu trùng sán lợn ở hệ thần kinh trung ương 7
1.3.3 Bệnh ấu trùng sán lợn ở mắt 8
1.4 Các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán bệnh ấu trùng sán lợn 9
1.4.1 Sinh thiết nang sán dưới da 9
1.4.2 Chụp X quang 9
1.4.3 Chẩn đoán bằng phản ứng miễn dịch men (ELISA) 9

1.5 Điều trị bệnh ấu trùng sán lợn 10
1.5.1 Praziquantel 10
1.5.2 Albendazole 12
1.6 Lịch sử nghiên cứu 14
Phần II: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 17
2.1 Thiết kế nghiên cứu 17
2.2 Địa điểm thực hiện nghiên cứu 17
2.3 Đổi tượng nghiên cứu 17
I
í
2.4 Phương pháp nghiên cứu 18
2.4.1 Thăm khám lâm sàng 18
2.4.2 Các xét nghiệm cận lâm sàng 18
2.4.3 Điều trị 18
2.4.4 Đánh giá kết quả điều trị 19
2.5 Phương pháp sử lý số liệu 19
Phần III: Kết quả nghiên cứu 20
3.1 Kết quả về dịch tễ của bệnh 20
3.1.1 Phân bố bệnh theo vị trí địa lý 20
3.1.2 Phân bố bệnh theo nhóm tuổi và giới tính 21
3.1.3 Phân bố bệnh theo nghề nghiệp 22
3.2 Triệu chứng lâm sàng thường gặp ở những bệnh nhân mắc ATSL 22
3.3 Kết quả chụp CT scanner hoặc MRI 23
3.4 Kết quả điều trị 24
3.4.1 Kết quả về hiệu quả điều trị của thuốc đối với các TCLSTK 24
3.4.2 Kết quả về hiệu quả điều trị của Albendazole trên các nang sán 26
dưới da
3.4.3 Kết quả hiệu quả điều trị của thuốc trên các nang sán trên não 26
3.5 Các tác dụng không mong muốn gặp trong quá trình sử dụng thuốc 31
Phần IV: Bàn luận 33

4.1 Dịch tễ bệnh ấu trùng sán lợn 33
4.2 Triệu chứng lâm sàng thường gặp ở BN nhiếm ấu trùng sán lợn 34
4.3 Kết quả điều trị 36
4.4 Các TDKMM xuất hiện trong quá trình sử dụng thuốc 37
Kết luân 39
Kiến nghị 40
CÁC KÝ HIỆU VIỂT TẤT
ATSL : Ấu trùng sán lợn
BN : Bệnh nhân
CT : Computed tomography
DEC : Diethylcarbamazin citrat
ĐT : Điều trị
ELISA : Phản ứng miễn dịch men (The enzyme - liked
immunsorbent assay)
HĐ : Hoạt động
MRI : Cộng hưởng từ hạt nhân (Magnetic resonance
imaging)
SGOT : Serum glutamate oxaloacetat transaminase
SGPT : Serum glutamate pyruvate transaminase
S
RKSTCTTW : sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng trung ương
T. solium : Taenia solium
TCLS : Triệu chứng lâm sàng
TCLSTK : Triệu chứng lâm sàng thần kinh
TDKMM : Tác dụng không mong muốn
ĐẶT VẤN ĐÈ
Bệnh ấu trùng sán lợn ở người (iCystisercosis) là bệnh mắc phải do ăn phải
trứng của sán dây lợn (T. solium). Sau khi vào cơ thể thì trứng phát triển
thành ấu trùng và có thể cư trú ở nhiều nơi trong cơ thể như dưới da, trong cơ
hay sâu trong các cơ quan nội tạng và tạo thành các nang sán ở những cơ quan

này. Đặc biệt khi ấu trùng sán lợn (ATSL) cư trú ở hệ thần kinh trung ương
thì sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng và nó được coi là một bệnh gây tổn
thương hệ thần kinh trung ương nguy hiểm nhất trong các bệnh do ký sinh
trùng gây ra.
Bệnh gặp ở nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển ở
châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh. Việt Nam là một nước có vị trí địa lý
nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ và độ ẩm môi trường hàng năm
thường cao, đồng thời là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ dân trí và
các điều kiện sinh hoạt còn thấp kém do đó mà các bệnh ký sinh trùng nói
chung và bệnh ATSL nói riêng khá phát triển. Đặc biệt ở một số vùng nông
thôn còn tập quán dùng phân tươi đê bón ruộng, chăn nuôi lợn thả rông,
không có hố xí, nghiêm trọng hơn đó là thói quen ăn các đồ ăn chưa được nấu
chín như thịt tái, nem thính, tiết canh, rau sống ở nhiều địa phương. Đây
chính là những yếu tố thuận lợi làm cho bệnh ATSL ngày càng gia tăng ở
nước ta. Bệnh gặp nhiều ở lứa tuổi từ 20-50 là lứa tuổi lao động chính của xã
hội do đó việc nghiên cứu điều trị bệnh một cách hiệu quả là rất cần thiết.
Ở Việt Nam hiện nay, những bệnh nhân (BN) mắc bệnh ATSL ở miền bắc
hầu hết do Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng trung ương (Viện
SRKSTCTTW) điều trị. Đe điều trị bệnh ATSL hiện nay người ta thường
dùng Praziquantel hoặc Albendazole. Tuy nhiên hiệu quả điều trị còn phụ
thuộc vào liều dùng, thời gian điều trị và đáp ứng của BN với từng loại thuốc.
Chính vì vậy, để góp phần tăng cường hiệu quả điều trị bệnh ATSL chúng tôi
1
tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh ấu trùng sán
lợn (cysticercosis) của Albendazole và Praziquantel” với các mục tiêu sau:
- Tìm hiểu về dịch tễ và bệnh ATSL trên người ở miền Bắc Việt Nam
hiện nay.
- Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh ATSL của Albendazole và Praziquantel
trên các bệnh nhân tại khoa khám bệnh chuyên ngành - Viện SRKSTCTTW
từ 01/2004 đến 12/2006.

2
PHÀN I
TÒNG QUAN TÀI LIỆU
1.1) Đặc điểm về hình thái, chu kỳ phát triển của sán dây lợn ợ.solium):
1.1.1) Hình thể: [1,12,13,24]
- T.solium là một loài sán lớn sống ký sinh trong ruột non người. Sán
trưởng thành có chiều dài từ 2-8 m.
- Cơ thể sán được cấu tạo từ nhiều đốt sán, được chia thành đầu sán, cổ
sán và các đốt thân sán. Đầu sán nhỏ, hình cầu có đường kính khoảng 1 mm,
trên đỉnh đầu có một phần nhô ra trên đó có các móc và được gọi là vòng
móc, phần đầu này giúp cho sán có thể bám vào ruột người bệnh, cổ sán là
đốt thứ 2 nối tiếp với đầu sán có tác dụng tới sự phát triển của thân sán. Các
đốt sán phát triển theo kiểu nảy chồi từ cổ sán tạo thành các đốt sán già. Thân
sán bắt đầu từ đốt thứ 3 trở đi và gồm nhiều đốt sán, những đốt sán này có
chiều dài tăng dần. Mỗi đốt sán trưởng thành là một đơn vị sinh sản hoàn
chỉnh có đầy đủ cả bộ phận sinh dục đực và sinh dục cái, tuy nhiên bộ phận
sinh dục đực xuất hiện trước bộ phận sinh dục cái nên việc thu tinh không thể
thực hiện được trên cùng một đốt mà phải thực hiện giữa hai đốt khác nhau.
Bộ phận sinh dục đực gồm có tinh hoàn được cấu tạo thành từng chùm, chúng
được nối với nhau bằng các ống dẫn tinh rồi đổ vào ống dẫn tinh chính và dẫn
tới bộ phận giao hợp đực. Bộ phận sinh dục cái gồm 2 buồng trứng, tuyến
dinh dưỡng, tuyến làm vỏ trứng và tử cung. Tử cung của T. solium là một lỗ tịt
do đó nó không đẻ trứng mà trứng cùng các đốt sán già được thải ra ngoài
môi trường theo phân.
- Trứng sán: có hình cầu, đường kính 30-40 Ị.im bên ngoài có vỏ bọc dày
màu nâu sẫm, bên trong có chứa phôi có 6 móc. Trứng sán bị tiêu diệt ở
100°c sau vài phút hoặc ở -20°c trong 12 giờ.
- Ấu trùng: là một túi giống như hạt đu đủ mọng nước, bên trong có nang
trùng màu trắng trông giống như hạt gạo có đường kính 2-3 mm. Ấu trùng
trong nang thường sống được từ 2-6 tháng và có thể lên tới 5 năm.

3
a b c
Hình 1 : Hình thể T.solỉum
a: đầu sán, b: đốt sán già, c: các đốt thân sán và cổ sán
Hình 3: Ấu trùng sán lợn
1.1.2) Chu kv phát triển: n.12.13.23.241
Trứng của T.soỉium theo đốt sán già rụng ra ngoài ngoại cảnh, trong trứng
có ấu trùng có 6 móc. Nếu trứng được vật chủ thích hợp (lợn, người ) ăn
phải thì khi vào bộ máy tiêu hoá trứng sán sẽ mất vỏ và nhờ có hệ thống vòng
móc mà ấu trùng chui qua được thành ống tiêu hoá để vào hệ thống tuần hoàn
tĩnh mạch cửa, qua gan, lên tim để theo dòng máu đi khắp các cơ quan, tạng
4
phủ trong cơ thể. Ấu trùng thường dừng lại ở những nơi mao mạch nhỏ hẹp
hoặc những nơi có dòng máu chảy chậm như ở mô dưới da, cơ vân, não rồi
phát triển thành nang sán.
Lợn là loài nhiễm ATSL nhiều nhất, nếu người ăn phải thịt lợn nhiễm
ATSL chưa được nấu chín thì ATSL sẽ vào cơ thể người và thoát khỏi vỏ
nang ở trong đường tiêu hóa người. Đầu sán sẽ bám vào thành ruột non rồi
phát triển dài dần thành sán trưởng thành ký sinh ở ruột. Thông thường lợn
nhiễm bệnh ATSL còn người nhiễm sán dây lợn trưởng thành tuy nhiên người
cũng có thể nhiễm bệnh ATSL do: người ăn phải trứng T.solium. Như vậy
người vừa là vật chủ chính vừa là vật chủ phụ của T.solium.
Hình 4: Chu kỳ phát triển của T.soỉium
1.2) Dịch tễ bệnh ATSL:
1.2.1) Đường lây nhiễm của bênh: [1,12,24]
Bệnh ATSL thường được lây nhiễm qua hai con đường chính:
- Do người ăn phải trứng của T.solium có trong thực phẩm, nước uống
hoặc do tay bị nhiễm phân của người mắc bệnh sán dây lợn trưởng thành.
Tự lây nhiễm: Thường gặp ở những người nhiễm sán dây lợn trưởng
thành. Khi đốt sán rụng ra, vì một lý do nào đó nó không bị đào thải ra môi

5
trường mà lại bị đẩy ngược từ ruột lên dạ dày, dưới tác dụng của dịch vị,
trứng sán thoát ra khỏi đốt sán rồi phát triển thành ấu trùng.
1.2.2) Tinh hình dich tễ của bênh ATSL: [7,17,18,23,31]
Bệnh ATSL là một bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới tuy nhiên bệnh
thường lưu hành ở một số vùng nhất định. Bệnh thường gặp ở những nước
đang phát triển, đặc biệt là ở Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ La Tinh là những
nơi còn nhiều nước nghèo nàn lạc hậu, điều kiện vệ sinh thấp kém và thói
quen ăn uống những thức ăn không được nấu chín. Một số nước có tỉ lệ nhiễm
bệnh ATSL cao trên thế giới như: Benin là 1,54%, Tôgô là 1,3-2,7% Bệnh
hiếm gặp ở Anh, Mỹ, Nhật Một số công trình nghiên cứu cho thấy những
BN mắc bệnh ATSL ở Mỹ chủ yếu là những người di cư từ nước khác đến.
Ở Việt Nam, bệnh ATSL phổ biến là do nhiều nguyên nhân, như điều kiện
vệ sinh thấp kém, thói quen ăn thức ăn chưa nấu chín, chăn nuôi gia súc thả
rông Theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh ATSL của Bộ Y Te ban
hành-năm 2004 [23] thì bệnh ATSL phân bố rải rác ở ít nhất 49 tỉnh trong cả
nước, tỷ lệ nhiễm khoảng 5-7%
1.3) Các biểu hiện lâm sàng của bệnh ATSL:
ATSL có thể cư trú ở bất kỳ bộ phận nào trong cơ thể nhưng thường hay ký
sinh ở da, cơ, mắt và thần kinh trung ương. Tuỳ theo sổ lượng ký sinh trùng
và vị trí ký sinh mà nó gây ra những biếu hiện lâm sàng khác nhau.
1.3.1) Bênh ATSL ở da và cơ: [7,8,12,17,23,27]
Biểu hiện lâm sàng của bệnh thường là xuất hiện trên da những nang sán
dưới dạng các u nhỏ có đường kính khoảng 1-1,5 cm, các u này rất chắc, cứng
và rất linh động khi ấn vào thì u sẽ di chuyển sang vị trí xung quanh ngón tay,
khi ấn thì không cảm thấy đau.
Khi mắc bệnh ATSL ở da và cơ thì trên lâm sàng chỉ thấy có những nang
sán này mà không có biểu hiện nào kèm theo. Các nang sán dưới da này
không ảnh hưởng nhiều đến các sinh hoạt của BN.
6

Hình 5: Hình ảnh nang sán dưới da
1.3.2) Bênh ATSL ở hê thần kinh trung ương: [7,8,12,17,23,27]
Nhiều trường hợp bệnh không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, BN có thể
phát hiện ra ATSL do vô tình đi chụp CT scanner hoặc MRI do các nguyên
nhân khác.
Các trường hợp có triệu chứng lâm sàng thì các biểu hiện thường gặp là:
- Co giật kiểu động kinh: là do các nang sán ở trên não kích thích gây các
cơn động kinh.
- Tăng áp lực nội sọ: thường biểu hiện là nhức đầu, buồn nôn, nôn, thị
lực giảm, suy giảm trí nhớ các biểu hiện này là do nang sán làm tắc nghẽn
dịch não tuỷ trong hệ thống não thất gây ra.
Kén sán trên não phát triển theo 4 giai đoạn:
- Giai đoạn nang: là giai đoạn đầu tiên khi ấu trùng sán định vị trong não.
Nang được bao bọc bởi một màng mỏng, bên trong chứa đầy dịch không màu
trong suốt. Trong túi dịch có chứa đầu sán nằm lệch sang một bên. Tổ chức
não xung quang nang có phản ứng viêm gây xung huyết và phù nề nhẹ.
- Giai đoạn nang keo: Nang sán bắt đầu thoái hoá, ấu trùng đã chết, nang
sán co nhỏ lại, vỏ nang dày hơn do các mô sợi liên kết tăng sinh. Dịch trong
nang sán trở nên đục. Ấu trung sán lợn khi chết giải phóng ra các sản phẩm
chuyển hoá, dịch trong nang thấm qua vỏ nang mang nhiều protein lạ với tổ
chức não, ở giai đoạn này phản ứng viêm của não xảy ra mạnh hơn, hàng rào
máu não bị phá vỡ gây hiện tượng xung huyết, phù nề rộng hơn quanh nang.
7
- Giai đoạn nốt hạt: Nang co nhỏ lại từ 2-4mm, vỏ nang dày hơn, đầu sán
vôi hóa toàn bộ, hiện tượng phù nề tổ chức quanh não giảm nhiều.
- Giai đoạn vôi hóa: Nang sán được vôi hóa toàn bộ, nốt sán vôi hóa có
kích thước l-3mm. Ở giai đoạn này thì không còn hiện tượng phù nề và xung
huyết xung quanh nang sán. Các nốt vôi hoá ngày càng nhỏ dần và tiêu biến.
Trong 4 giai đoạn phát triển của nang sán thì giai đoạn nang và nang keo là
thời kỳ hoạt động của nang sán (gọi chung là giai đoạn hoạt động), các biểu

hiện lâm sàng thần kinh rõ rệt. Giai đoạn nốt hạt và nốt vôi là giai đoạn không
hoạt động của nang sán (gọi chung là giai đoạn vôi hóa).
Hình 6: Hình ảnh tổn thương trên não do ATSL gây ra
1.3.3) Bênh ATSL ở mắt: [12,23,27]
ATSL có thể cư trú ở bất kỳ vị trí nào trong hốc mắt, kết mạc, thuỷ tinh dịch
hay vống mạc. Các triệu chứng lâm sàng thường gặp là: chói mắt, đau quanh
ổ mắt, nhìn mờ, thị lực giảm nhanh chóng Khi soi đáy mắt thì thấy ATSL
di chuyển ứong thuỷ tinh dịch.
Hình 7: ATSL ở mắt
Ngoài ra ATSL cũng có thể cư trú ở các phủ tạng khác như tim, phổi, thận
nhưng rất hiếm gặp và không có triệu chứng lâm sàng đặc hiệu.
8
1.4) Các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán bệnh ATSL: [5,23]
1.4.1) Sinh thiết nang sán dưới da:
Trước đây phương pháp này được sử dụng đế chấn đoán cả những trường
hợp mắc ATSL ở não nhưng hiện nay với kỹ thuật chụp CT scanner và chụp
cộng hưởng từ hạt nhân MRI thì sinh thiết không còn được sử dụng để chẩn
đoán ATSL trên não nữa mà chỉ được sử dụng để chẩn đoán bệnh ATSL ỏ'
dưới da và cơ.
Sinh thiết nang dưới da cho kết quả dương tính là một nang hình bầu dục,
màu trắng bóng, chứa dịch bên trong có đường kính từ 0,5-1,5 cm, dưới kính
hiển vi có thể thấy đầu sán có 4 hấp khẩu và vòng móc.
1.4.2) Chup X quang:
Đây là kỹ thuật chẩn đoán tỏ ra rất hiệu quả trong các trường hợp BN nghi
bị nhiễm ATSL trên não.
- Chụp X quang thường: chủ yếu phát hiện các nang sán đã calci hoá.
- Chụp CT scanner: kỹ thuật này được áp dụng từ đầu thập kỷ 70 của thế
kỷ XX, hiện nay nó vẫn đang chứng tỏ được vai trò trong chẩn đoán và đánh
giá kết quả điều trị bệnh ATSL ở thần kinh trung ương. Qua phim chụp ta có
thể phát hiện được vị trí và các giai đoạn phát triển của nang sán trên não.

- Chụp cộng hưởng từ hạt nhân MRI: đây là phương pháp chẩn đoán mới
được áp dụng khoảng hơn 10 năm gần đây. kỳ thuật này tỏ ra hiếu quả hơn
CT scanner trong việc chẩn đoán các nang sán đang trong thời kỳ hoạt động
nhưng lại khó phát hiện các tổn thương đã vôi hoá. Hiện nay việc chẩn đoán
ATSL trên não tại viện SRKSTCTTW thường được kết hợp cả chụp CT
scanner và chụp MRL
1.4.3) Chẩn đoán bằng phản ứng miễn dich men (ELISA):
Chẩn đoán bằng phản ứng miễn dịch là một cách gián tiếp xác định sự có
mặt của T.solium trong cơ thể BN. Có nhiều phương pháp được áp dụng như
phản ứng ngưng kết hồng cầu, phản ứng miễn dịch phóng xạ, miễn dịch
huỳnh quang Tuy nhiên các phương pháp này có độ đặc hiệu không cao do
9
có thể có phản ứng chéo với các ký sinh trùng khác do đó nó trở nên khó khăn
khi BN mắc nhiều ký sinh trùng khác nhau cùng lúc.
Ngoài ra còn có một số xét nghiệm hỗ trợ khác giúp định hướng cho việc
chẩn đoán như: xét nghiệm công thức máu, xét nghiệm phân tìm trứng sán
dây bên cạnh đó thì cũng cần phải chú ý đến tiền sử đi ngoài ra đốt sán.
1.5) Điều trị bệnh ATSL: [5,12,23,27]
Mặc dù bệnh ATSL đã được biết đến từ rất lâu nhưng cho đến gần đây bệnh
mới được điều trị một cách hiệu quả. Việc điều trị bệnh có thể bằng phương
pháp phẫu thuật hoặc điều trị nội khoa Trong đề tài này chúng tôi chỉ đề cập
đến điều trị nội khoa. Các thuốc có thể sử dụng trong điều trị nội khoa là
DEC-delagyl, Praziquantel, Albendazole. Hiện nay hầu hết các cơ sở y tế chỉ
còn sử dụng Praziquantel và Albendazole để điều trị bệnh ATSL do đó trong
nghiên cứu này chúng tôi cũng chỉ đề cập đến hai loại thuốc này.
1.5.1) Praziquantel: [2,3,5,9,22]
- Công thức hoá học: C19H24N2O2
- Công thức cấu tạo:
Tên khoa học: 2-cyclohexylcarbonyl-l,2,3,6,7,llb-hexahydro-4H-pyrazino-
[2,l-l]isoquinolin-4-on

- Tính chất lý hoá:
Thuốc có dạng bột kết tinh màu trắng, vị đắng, nóng chảy ở 136-140°c.
Thuốc ít tan trong nước, tan tốt trong ethanol, cloroíòrm và các dung môi hữu
cơ khác.
n
o
10
I
- Dược động học:
Thuốc ít tan trong nước, hấp thu tốt ở đường tiêu hoá và có sinh khả dụng
cao (>80%). Mức độ hấp thu của thuốc phụ thuộc vào liều dùng, thức ăn làm
tăng sinh khả dụng của thuốc. Sau khi uống từ 1-3 giờ thì thuốc sẽ đạt nồng
độ đỉnh trong huyết tương từ 0,2-2 microgam/ml. Thuốc có khả năng thấm
qua được màng não và đạt nồng độ trong dịch não tuỷ bằng khoảng 25% so
với nồng độ trong huyết tương.
Thuốc bị chuyển hoá rất mạnh chủ yếu là ở gan cho sản phẩm chuyển hoá
dạng mono và polyhydroxy hoá. Các sản phẩm chuyển hoá này có được một
vài tác dụng dược lý nhất định. Thời gian bán thải của thuốc là 1-1,5 giờ,
thuốc thải trừ chủ yếu qua đường nước tiểu dưới dạng đã bị chuyển hoá, chỉ
có khoảng 1 % dưới dạng ban đầu.
- Tác dụng dược lý:
Praziquantel có hoạt phổ chống sán rộng bao gồm cả các loại sán lá, sán
máng và sán dây. Có tác dụng trên cả sán trưởng thành và ấu trùng sán. Thuốc
có tác dụng phá huỷ các nang sán dưới da và trong nội tạng, mà đặc biệt là ở
não, thuốc diệt tốt các ấu trùng còn sống mà không ảnh hưởng đến các nang
sán đã vôi hoá.
Cơ chế tác dụng: Thuốc làm tăng tính thấm của màng nguyên sinh chất của
ký sinh trùng với ion calci do đó làm ký sinh trùng mất ion calci nội bào dẫn
đến làm co cứng và liệt hệ thống cơ của ký sinh trùng. Trên sán trưởng thành
thuốc tác dụng lên vỏ của phần cổ sán. Thuốc tạo các không bào trên da sán

rồi vỡ ra làm con sán chết. Trên ấu trùng sán, Praziquantel xâm nhập qua vỏ
nang để làm liệt ấu trùng trong nang sán.
- Liều lượng:
Trước năm 1985, để điều trị bệnh ATSL thì đa số các tác giả đều sử dụng
liều lượng là 50mg/kg/ngày và sử dụng trong 15 ngày tuy nhiên với liều điều
trị này thì có những nghiên cứu cho thấy rằng BN gặp phải nhiều tác dụng
không mong muốn, các phản ứng viêm xảy ra rất dừ dội, thậm chí có trường
11
hợp tử vong [28,31,35]. Hiện nay tại hầu hết các cơ sơ điều trị bệnh ATSL
đều sử dụng phác đồ 30mg/kg/ngày và sử dụng trong 14 ngày X 3 đợt, sau mỗi
đợt điều trị thì ngừng sử dụng thuốc 1 tháng.
- Tác dụng không mong muốn:
Nhìn chung thuốc tương đối an toàn ít tác dụng không mong muốn. Đôi khi
BN cảm thấy đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nổi mề đay Thuốc có thể làm
tăng SGOT, SGPT nhưng không ảnh hưởng đến chức năng gan của người
bệnh. Các tác dụng không mong muốn chủ yếu do độc tố của sán tiết ra khi
chết, để giảm các tác dụng không mong muốn của thuốc có thể sử dụng phối
hợp với các corticoid như Dexamethason hoặc Prednisolon.
- Chống chỉ định:
Thuốc không dùng cho trẻ em dưới 4 tuổi, phụ nữ có thai và cho con bú.
Không dùng thuốc cho những người mẫn cảm với các thành phần của thuốc.
1.5.2) Albendazole: [2,3,5,9,22]
- Công thức hoá học: C12H15N3O2S •
- Công thức cấu tạo:
Tên khoa học: Methyl[5-(propylthio)-lH-benzimidazol-2-yl]carbamat
- Tính chất lý hoá:
Thuốc có dạng bột kết tinh màu trắng hoặc hơi vàng, ít tan trong nước, tan
trong acid formic khan, ít tan trong dicloromethan, không tan trong ethanol.
- Dược động học:
Albendazole hấp thu tốt qua đường uống, sau khi uống thì thuốc nhanh

chóng được hấp thu và chuyển hoá thành albendazole sulphoxide là sản phẩm
có hoạt tính. Sau khi uống từ 1 dến 4 giờ thì thuốc đạt nồng độ đỉnh trong
huyết tương và chất chuyển hoá của albendazole dưới dạng sulphoxide dao
động trong khoảng 0,04 - 0,55 microgam/ml. Sở dĩ có sự dao động lớn về
nồng độ albendazole trong huyết tương đó là do sự khác nhau trong quá trình
hấp thu và chuyển hoá giữa các cá thể. Những thức ăn có hàm lượng chất béo
cao làm tăng nồng độ thuốc trong huyết tương. Albendazole sulphoxide liên
kết với protein huyết tương khoảng 70%, nồng độ của albendazole sulphoxide
trong nang sán đạt khoảng 20% so với nồng độ trong huyết tương. Thuốc có
thể qua được màng não và đạt nồng độ trong dịch não tuỷ bằng khoảng 1/3
nồng độ trong huyết tương.
Trong cơ thể sau khi albendazole được oxy hoá thành chất có hoạt tính là
albendazole sulphoxide và gây ra tác dụng dược lý thì nó sẽ tiếp tục bị oxy
hoá thành chất không có hoạt tính là albendazole sulphone. Thuốc có thời
gian bán thải từ 8-9 giờ, được thải trừ chủ yếu qua nước tiểu, một phần nhỏ
qua phân.
- Tác dụng dược lý:
Albendazole là một thuốc có tác dụng tốt trên các loại giun, có hoạt phổ
chống giun rộng. Đến năm 1987 thì thuốc được sử dụng phổ biến để điều trị
bệnh ATSL. Thuốc có tác dụng tốt trên các nang sán cả dưới da, nội tạng và
trên não, tuy nhiên thuốc ít có tác dụng trên sán trưởng thành.
Cơ chế tác dụng: Thuốc ức chế tổng hợp các vi cấu trúc hình ống nên ức
chế sự sinh sản của ký sinh trùng. Thuốc còn ức chế quá trình sử dụng
glucose của ký sinh trùng ở cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành do đó làm
giảm dự trữ glycogen và giảm tạo thành ATP dẫn đến làm tê liệt và chết ký
sinh trùng.
- Liều lượng:
Đẻ điều trị ATSL thì nhiều tác giả đã sử dụng với liều lượng 15mg/kg/ngày
và sử dụng trong 30 ngày. Hiện nay tại viện SRKSTCTTW đang sử dụng
phác đồ 20mg/kg/ngày và sử dụng trong 20 ngày X 3 đợt. Sau mồi đợt điều trị

thì dừng thuốc một tháng.
13
- Tác dụng không mong muốn:
Nhìn chung Albendazole là một thuốc tương đối an toàn, ít tác dụng không
mong muốn. Tuy nhiên thuốc có thể gây ra một số biểu hiện như đau đầu,
buồn nôn, nôn, ỉa chảy, đau thượng vị Các tác dụng không mong muốn của
thuốc chủ yếu là do độc tố của sán giải phóng ra khi chết. Ngoài ra
albendazole làm tăng SGOT và SGPT tuy nhiên không ảnh hưởng đến chức
năng sống của BN.
- Chống chỉ định:
Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai và trẻ em dưới 3 tuổi. Không dùng
thuốc cho những người mẫn cảm với thành phần của thuốc.
1.6) Lịch sử nghiên cứu:
Bệnh ATSL là một bệnh đã được biết đến từ rất lâu trong lịch sử y học, tuy
nhiên trong một thời gian dài bệnh được coi là vô phương cứu chữa và phải
đến thập kỷ 70 của thế kỷ XX thì mới có nhiều đề tài nghiên cứu về bệnh, các
phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh.
- Năm 1979 Bostero và Castano đã sử dụng Praziquantel để điều trị
bệnh ATSL ở Colombia và đã xác nhận sự mất đi của ATSL trên não thông
qua phim chụp CT scanner.
- Năm 1983 Lawrece điều trị cho BN ATSL bang Praziquantel trong 14
ngày kết hợp với Dexamethason. Trong quá trình điều trị BN có đau đầu và
sốt, tuy nhiên theo dõi sau 4 tháng điều trị các tổn thương đã biến mất.
- Năm 1987 Escobedo F, Renagos p, Sotelo J, và cộng sự điều trị bằng
Albendazole cho 7 BN bị nang sán trên não với liều lượng 15mg/kg/ngày và
rút ra kết luận có thể dùng Albendazole để điều trị ATSL trong nhu mô não có
hiệu lực cao.
- Năm 1990 Marelo Cruz đã so sánh tác dụng điều trị của Praziquantel và
Albendazole trên 100 BN nhiễm ATSL. Ông đã nhận xét rằng cả hai loại
14

thuốc đều có tác dụng với ATSL ở liều điều trị tuy nhiên Albendazole có
phản ứng toàn thân nhẹ nhàng và tốt hơn.
- Cũng trong năm 1990 Jung đã nghiên cứu nồng độ của Albendazole và
Praziquantel trong dịch não tuỷ thì thấy rằng Albendazole có nồng độ trong
dịch não tủy cao hơn Praziquantel.
- Năm 1994, tại hội nghị quốc tế lần II về các bệnh thần kinh nhiệt đới tổ
chức tại Pháp, Horton J, Chritodonlons H đã công bố nghiên cứu về hiệu quả
điều trị cho 1186 BN bị kén sán não bang Prziquantel hoặc Albendazole.
Theo nghiên cứu này thì cả 2 loại thuốc trên đều có hiệu quả tốt để điều trị
bệnh kén sán não. Tuy nhiên dùng Albendazole có nhiều lợi ích hơn.
Tại Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu trong điều trị bệnh ATSL
- Năm 1980 Kiều Tùng Lâm (viện SRKSTCTTW) dùng DEC điều trị
cho BN đã làm vôi hoá các nang sán dưới da và cơ nhưng không làm thay đổi
nang sán ở não.
- Năm 1985 Phạm Hoàng Thế đã điều trị bằng Praziquantel cho 8 BN và
thấy rằng thuốc có tác dụng diệt ATSL trong da, cơ, nội tạng và đặc biệt là ở
não. Tuy nhiên muốn lành bệnh cần dùng thuốc 2 đến 3 đợt cách nhau 1 tháng
- Năm 1988 Kiều Tùng Lâm và cộng sự điều trị bệnh ATSL bằng
Praziquantel với liều lượng 25mg/kg/ngày trong 10 ngày. Điều trị 2 đợt cách
nhau 10 ngày cho 6 BN. Kết quả cho thấy nang sán dưới da xẹp đi và số cơn
động kinh của BN giảm đi
- Năm 1989 Đặng Bá Quí (trường đại học Y Hà Nội) nghiên cứu đánh
giá tác dụng của Praziquantel đã kết luận thuốc có khả năng điều trị khỏi hoàn
toàn bệnh ATSL ở người.
- Năm 1994 Hoàng Đức Kiệt và Kiều Tùng Lâm theo dõi các BN điều trị
bệnh ATSL bằng Praziquantel và Albendazole trên phim chụp CT scanner thì
thấy các nang sán trên da tiêu biến 99% ở những BN dùng Albendazole và
96% ở người dùng Praziquantel.
15
- Năm 1995 Ngô Đăng Thục điều trị cho 65 BN bị ATSL bằng

Praziquantel và Albendazole đã nhận xét Praziquantel có tác dụng tốt hơn
Albendazole.
- Năm 1996 Đoàn Thị Hạnh Nguyên điều trị cho 111 BN thì nhận thấy
rằng cả Albendazole và Praziquantel đều có hiệu lực điều trị ATSL như nhau
Qua các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước chúng tôi thấy rằng
cả Praziquantel và Albendazole đều có tác dụng diệt ATSL trên da, cơ, nội
tạng và não tốt. Tuy nhiên kết quả điều trị của các nghiên cứu còn có những
điểm khác nhau do liều dùng và thời gian điều trị khác nhau và cũng còn phụ
thuộc vào đáp ứng của BN với từng loại thuốc cũng như các chủng T.solium
khác nhau. Chính vì vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm
góp phần điều trị bệnh ATSL đạt hiệu quả cao hơn.
16
PHẦN II
ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ử u
2.1) Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu cắt ngang
2.2) Địa điểm thực hiện nghiên cứu:
Đe tài này của chúng tôi được thực hiện tại khoa khám bệnh chuyên ngành-
Viện SRKSTCTTW từ 01/2004 đến 12/2006.
2.3) Đối tượng nghiên cứu:
- Các BN được chẩn đoán và điều trị bệnh ATSL tại khoa khám bệnh
chuyên ngành Viện SRKSTCTTW từ 01/2004 đến 12/2006
- Các tiêu chuẩn lựa chọn BN:
+ BN bị nhiễm ATSL dưới da và/hoặc trên hệ thần kinh trung ương
+ BN không có các chống chỉ định với thuốc.
+ BN không có các bệnh lý khác kèm theo.
- Số lượng BN nghiên cứu:
Cỡ mẫu trong nghiên cứu được tính theo công thức:
_ z ^ p .q .F
11 D2

Ấn định: mức ý nghĩa a= 0,05 —> Zj.a/2 = 1,96
Lực mẫu: 0,90 —»tra bảng có F = 10,5. Ta có n ~ 330
Trong thời gian từ 01/2004 đến 12/2006 chúng tôi đã nghiên cứu và điều trị
được 342 BN.
- Lựa chọn BN vào 2 nhóm điều trị bằng Praziquantel hoặc Albendazole
Các BN có nang sán dưới da sẽ được chỉ định vào nhóm điều trị bằng
Albendazole còn những BN chỉ có nang sán trên não đơn thuần sẽ được chỉ
định điều trị bằng Praziquantel.
Do đó:
Nhóm điều trị bằng Praziquantel có 91 BN
Nhóm điều trị bằng Albendazol có 251 BN
2.4) Phương pháp nghiên cứu: [5,12,21,23,30] /
Đối với những BN đến khám bệnh tại khoa hoăp^ấược chuyển đến từ các
bệnh viện hay trung tâm y tế khác đều được chủng tôi tiến hành chẩn đoán và
điều trị theo trình tự sau:
2.3.1) Thăm khám lâm sảng:
- Khám các nang ATSL dưới da và các lớp cơ nông bằng cách sờ trực
tiếp vào nang.
- Hỏi kỹ các triệu chứng lâm sàng của BN trước khi đến khám như: tiền
sử đi ngoài ra đốt sán, thời gian xuất hiện nang sán dưới da và các triệu chứng
cơ năng như động kinh, co giật, nhức đầu, suy giảm trí nhớ
- Hỏi BN tập quán chăn nuôi, ăn uống, sinh hoạt ở nơi cư trú, công tác
2.3.2) Các xét nghiêm cân lâm sàng:
Đối với những BN sau khi được thăm khám thấy có đầy đủ các triệu chứng
lâm sàng để nghĩ đến việc BN bị nhiễm ATSL thì chúng tôi tiến hành các xét
nghiệm cận lâm sàng đế có thế chấn đoán chính xác và xác định được mức độ
tiến triển của bệnh trên BN đó. Các xét nghiệm thường được áp dụng là:
- Sinh thiết nang dưới da.
- Xét nghiệm phân bằng phương pháp ly tâm lắng cặn formalin-ether tìm
trứng của sán dây lợn (T.solium)

- Xét nghiệm công thức máu.
- Chụp CT scanner hoặc MRI để đánh giá tổn thương trên não của BN do
ATSL gây ra. Đây là một xét nghiệm có ý nghĩa rất quan trọng để xác định
tổn thương trên não BN do ATSL gây ra.
- Ngoài ra để hỗ trợ cho việc sử dụng thuốc và đánh giá tác dụng không
mong muốn của thuốc trong quá trình điều trị chúng tôi tiến hành làm xét
nghiệm men gan SGOT và SGPT.
2.3.3) Điều tri:
Với những BN đã được chẩn đoán nhiễm ATSL thì chúng tôi sử dụng một
mẫu bệnh án nghiên cứu thống nhất, trong đó ghi đầy đủ các mục về bệnh
18
cảnh lâm sàng của BN. Sau đó chúng tôi tiến hành điều trị cho BN tại khoa
khám bệnh chuyên ngành viện SRKSTCTTW, trong quá trình điều trị, chúng
tôi tiến hành đánh giá những biến đổi lâm sàng cụ thể.
Chúng tôi tiến hành chọn BN vào hai nhóm điều trị: 1 nhóm điều trị theo
phác đồ sử dụng Albendazole với liều 20mg/kg/ngày X 20 ngày và điều trị 3
đợt, mỗi đợt cách nhau 1 tháng, 1 nhóm điều trị theo phác đồ Praziquantel với
liều 30mg/kg/ngày X 14 ngày và điều trị 3 đợt, mỗi đợt cách nhau 1 tháng.
2.3.4) Đánh giá kết quả điều tri: ¿r? JjxC-t Ux. /ứ>' fn/'"
Trong quá trình điều trị chúng tôi tiến hành đánh giá kết quả điều trị của BN.
Ngoài việc so sánh các triệu chứng lâm sàng, số lượng nang sán dưới da trước
và sau điều trị, các tác dụng không mong muốn thì sau khi điều trị đủ ba đợt
theo đúng phác đồ đã được lựa chọn những BN này được chụp CT scanner
hoặc MRI để đánh giá hiệu quả của thuốc với các tổn thương trên não trong
điều trị. BN được đánh giá là khỏi khi:
- Các nang sán dưới da tiêu đi hoặc bị vôi hóa nhỏ lại
- Không còn các triệu chứng tổn thương thần kinh do nang sán trên não
gây ra
- Trên phim CT scanner hoặc MRI sau điều trị không còn thấy các nang
sán đang ở giai đoạn hoạt động. Các nang sán này phải mất đi hoặc vôi hoá.

2.5) Phương pháp xử lý số liệu: [6,19,20]
Các công thức sử dụng trong nghiên cứu bao gồm:
• Tính cỡ mẫu theo công thức:
„ zi.«/2p-q-F
D q = i- p
• Dùng test %2 để so sánh kết quả điều trị của 2 loại thuốc.
PHẢN III
KÉT QUẢ NGHIÊN c ứ u
3.1) Kết quả về dịch tễ của bệnh ATSL:
3.1.1) Phân bố bênh theo vi trí đỉa lý:
STT
Tỉnh Sô
BN
Tỉ lệ %
STT
Tỉnh Sô
BN
Tỉ lệ %
1
Băc Ninh
62
18,15 9
Yên Bái 12
3,51
2 Băc Giang 55 16,08
10
Hà Tây 12
3,51
3
Hải Phòng 30 8,77

11
Nam Định 12
3,51
4
Hà Nội
30 8,77
12
Quảng Ninh
10
2,92
5
Thanh Hoá 28
8,19 13
Cao Băng 9 2,63
6
Hải Dương 27 7,89
14
Ninh Bình
5
1,46
7
Băc Kạn 21
6,14
15
Hòa Bình
3 0,88
8
Vĩnh Phúc 14 4,09
16
Các tỉnh khác 12

3,51
r r
Bảng 1: Tỉ lệ măc bệnh phân bô theo vị trí địa lý
18.15
20 _ 16.08
15
10 _
5
0
8.77 8.77 8.19 7.89
6.14
4.09
3.51 3.51 3.51 2 92 2 63 351
146 0.88
n n n n n r-Ị
1 I I I I I I I I I I III I I
BN BG HP HN TH HD BK VP YB HT NĐ QN CB NB HB khác
Biểu đồ 1: Tỉ lệ mắc bệnh phân bố theo vị trí địa lý
Nhân xẻt:
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì bệnh ATSL có mặt tại 22/25 tỉnh phía
bắc, 3 tỉnh không có BN nào là Hà Giang, Điện Biên và Tuyên Quang. Trong
đó tỉ lệ BN sống tại tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang là cao nhất (18,15% và
16,08%). Qua điều tra dịch tễ thì được biết người dân trong 2 tỉnh này thường
20

×