Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Vương xương linh với bài thơ khuê oán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.38 KB, 3 trang )

Vương Xương Linh với bài thơ Khuê oán
November 14, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THPT - Tác giả: Thu Huyền
Đề bài: Vương Xương Linh với bài thơ Khuê oán (Nỗi oán của người
phòng khuê)
Vương Xương Linh (? -756) tự là Thiếu Bá, quê ở Kinh Triệu (nay thuộc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây). Vì ông đã từng làm
ở Giang Ninh, Long Tiêu, nên cũng được gọi là Vương Giang Ninh, Vương Long Tiêu. Năm khai Nguyên thứ 15 (727), ông đỗ
tiến sĩ, sau đó lại đỗ khoa thi Bác học hành từ. Tuy đỗ cao nhưng Vương Xương Linh chỉ được giữ những chức quan nhỏ và bị
biếm trích nhiều lần. Trong loạn An – Sử, ông lánh nạn ở vùng Giang, Hoài, bị tên thứ sử Lư Khâu Hiểu giết hại.
Vương Xương Linh là nhà thơ kiệt xuất thời Thịnh Đường, thường viết về đề tài biên tái, quân lữ, cũng oán, khuê tình và tống
biệt; đề tài nào ông cũng có những tác phẩm xuất sắc. Thơ ông rất tinh tế, trang nhã, thanh tân, ý cảnh thâm thuý. Ông sành các
thể thơ nhưng đặc biệt sở trường ở thế thất ngôn tuyệt cú. Nhiều bài tuyệt cú của Vương Xương Linh đứợc người thời Đường gọi
là thần phẩm. Thơ Vương Xương Linh hiện còn 186 bài; trong đó những bài như Xuất tái, Thái liên khúc, Phù Dung lâu tống Tân
Tiệm, Khuê oán… rất được hâm mộ.


KHUÊ OÁN (Nỗi oán của người phòng khuê)
Phiên âm:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Dịch nghĩa:
Người đàn bà trẻ nơi phòng khuê (ngây thơ) không biết buồn,
Ngày xuân trang điểm xong bước lên lầu đẹp.
Chợt thấy màu dương liễu đầu đường,
Hối hận đã để chồng đi tòng quân để tìm kiếm ấn phong hầu.
Dịch thơ:

Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương
Nhác trông vẻ liễu bên đường,
"Phong hầu", nghĩ dại, xui chàng kiếm chi.
(Tản Đà dịch)
Nhan đề là Khuê oán mà câu mở đầu lại là:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Vì sao câu mở đầu lại là một phản đề như vậy? Vì sao chồng ra trận mà người khuê phụ lại không buồn?
Vương Xương Linh là nhà thơ kiệt xuất thời Thịnh Đường, thường viết về đề tài biên tái, quân lữ, cũng oán, khuê tình và tống
biệt
Thời Thịnh Đường, Trung Quốc là một nước giàu mạnh và có lãnh thổ rộng lớn. Nhà Đường đã phái quân đội ra trấn thủ biên
cương và nếu có điều kiện thuận lợi thì mở mang lãnh thổ (khai biên). Hoàn cảnh ấy làm dấy lên tinh thần "kiến công lập nghiệp"

ở các tướng sĩ. Nhiều người ra biên cương với hi vọng lập công để được phong hầu:
Công danh chỉ hướng mã thượng thủ,
Chân thị anh hùng nhất trượng phu.
(Công danh giành được trên lưng ngựa,
Mới thật anh hùng xứng trượng phu.)
(Sầm Tham)
Thân nhân của họ cũng ủng hộ ước nguyện ấy. Thời phong kiến ở Trung Quốc, người vợ được gọi là nội. Họ yên tâm với cái định
lí:
Phụ nhân bất hạ đường,
Hành tử tại vạn lí.
(Thiếp không ra khỏi cửa,
Chàng muôn dặm viễn hành.)

(Hàn Dũ)
Bởi vậy, người thiếu phụ có chồng ra trận mà lòng vẫn bình yên. Và nàng vẫn làm công việc bình thường, hàng ngày, cũng là
công việc muôn thuở của người phụ nữ khuê các: trang điểm. Trang điểm xong lên lầu ngắm cảnh cũng như là chuyện đương
nhiên. Nhưng hình như trong đệng tác thướng thuý lâu còn có một động cơ tinh tế nào đó, đôi khi tự người thiếu phụ cũng chưa
thật rõ. Khi xưa Dự Nhượng nói: Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, người con gái làm dáng vì kẻ yêu mình. Nay, người thiếu phụ trang
điểm rồi hình như nàng cảm thấy trống vắng. Kinh thi từng nói:
Sang đông từ đó chàng đi,
Đầu tóc thiếp rối khác chi cỏ bồng.
Phần con nào phải thiếp không,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Làm dáng rồi nhưng kẻ yêu mình đâu?
Đọc thơ Đường chúng ta nhận thấy mỗi khi lên cao là mỗi khi con người có nỗi niềm tâm sự. Lên cao là để nhìn xa (đăng cao

vọng viễn). Đặt trong hệ thống không gian nghệ thuật thơ Đường, ta cảm nhận được hình như có một động cơ tâm li mơ hồ nào
đó tiềm ẩn trong người thiếu phụ đã khiến nàng lên lầu đẹp. Nhưng, hai câu rồi, nghĩa là nửa bài tuyệt cú rồi, vẫn chưa thấy dấu
hiệu của sự oán. Trong thơ tuyệt cú, câu thứ tư (câu hợp hay câu kết) là quan trọng nhất vì nó là kết tinh ý nghĩa của toàn bài.
Nhưng câu khó nhất là câu thứ ba, vì nó là câu chuyển, nó là bước chuẩn bị cho sự xuất hiện của câu kết.
Lên lầu rồi:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
(Chợt thấy màu dương liễu ở đầu đường)
Lập tức người thiếu phụ:
Hói giao phu tế mịch phong hầu.
(Hối hận đã để chồng đi tòng quân để tìm kiếm ấn phong hầu.)
Tại sao thấy màu dương liễu nàng lại hối hận? Trong tiếng Trung Quốc, chữ liễu và chữ lưu có âm đọc gần giống nhau. Người
Trung Quốc xưa có một phong tục: Lúc chia tay, người ở lại bẻ một cành dương liễu tặng cho người ra đi để biểu thị niềm lưu

luyến. Bởi vậy trong thơ cổ Trung Quốc, đặc biệt là trong thơ Đường, màu dương liễu, cành dương liễu hay động tác bẻ liễu là
một hình ảnh ước lệ, tượng trưng cho sự li biệt. Màu dương liễu là tín hiệu của mùa xuân, cũng là biểu tượng của li biệt, nó như
một giọt xúc tác nhỏ vào nỗi lòng của người khuê phụ khiến phản ứng tâm lí lập tức xảy ra, nàng như bừng tỉnh, hối hận đã để
chồng đi tòng quân để tìm kiểm ấn phong hầu. Sao ta lại để cho chồng ra trận, vào chỗ chết để tìm, công danh? ấn phong hầu mà
làm chi khi vợ chồng tuổi còn xuân mãi phải phân li? Mà biết đâu cũng là tử biệt? Bởi xưa nay chinh chiến mấy ai về (Vương
Hàn).
Chữ hốt (bỗng, chợt) ở đầu câu thứ ba đánh dấu một sự chuyển, một sự đột biến, vượt cấp của xúc cảm, nhận thức. Nó là chiếc
bản lề khép mở hai vùng trời của thế giới tâm trạng, ở cái khoảnh khắc hốt kiến… dương liễu sắc, tâm trạng người thiếu phụ xảy
ra một sự đột biến, từ bất tri sầu sang hối hận. Hối hận còn da diết, còn đáng sợ gấp mấy sầu. Trước đây nàng bất tri sầu vì nàng
đang đam mê, nàng không hiểu bản chất của sự thật. Nàng loá mắt không thấy được tử thần ẩn nấp đằng sau cái ấn phong hầu
hào nhoáng. Chữ hối chính là cánh cửa hé mở, người chinh phụ phát hiện ra tâm hồn mình và người đọc cũng từ sự hé mở ấy mà
hiểu được tâm tư nàng.

Tứ thơ đi theo một quá trình tâm lí:
Bất tri sầu – hốt – hối
Mê – đốn – ngộ
Cùng với người thiếu phụ, người đọc đốn ngộ: Chiến tranh là tai hoạ. Sau sự hối đó là sự oán: oán cái ấn phong hầu, oán chiến
tranh phi nghĩa Câu cuối cùng, câu kết đã giải thích nhan đề của bài thơ: Khuê oán. Nhan đề cũng là chủ đề – Phản đề đã tìm
được đáp án.
Với 28 chữ của một bài tuyệt cú, Vương Xương Linh đã thể hiện được tiếng nói phản đối chiến tranh phi nghĩa của nhân dân thời
Đường, cũng là của nhân loại từ xưa đến nay. Công bằng mà nói, trước Vương Xương Linh, cùng thời với ông, và cả về sau nữa,
khuê oán là một đề tài thường gặp trong thơ. Nhưng cấu tứ đặc biệt của bài thơ này đã thể hiện được quá trình tâm lý, bộc lộ
được cả phần tiềm ý thức của con người, khiến nó đầy sức thuyết phục. Hay, như cách nói của người thời Đường, nó đã trở thành
một thần phẩm, đại biểu cho tiếng nói phần nói phản đối chiến tranh.
Read more: />

×