Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH & THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.02 KB, 72 trang )


PHẦN MỞ ĐẦU
Trên thế giới mỗi ngày có hàng trăm nghìn doanh nghiệp ra đời và cũng với một
số lượng doanh nghiệp như vậy thất thế, phá sản. Sự quyết liệt của thương
trường thực sự là một thách thức lớn đối với các doanh nhân. Doanh nhân là
người chủ doanh nghiệp nhạy cảm với tình thế, nắm vững những nguyên lý cơ
bản trong cạnh tranh là yếu tố quyết định thành công hay thất bại của doanh
nghiệp. Vậy làm thế nào để Doanh nghiệp luôn đứng vững trên thương trường
với tư thế tự chủ?
Bằng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp thống
kê toán, phương pháp tổng hợp so sánh và phân tích số liệu đồng thời trong
phạm vi nghiên cứu có hạn là báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty trong 2 năm trở lại đây là năm 2006, 2007, bài viết này hy vọng sẽ có thể
thực hiện được các mục tiêu đã sau:
Một mặt, hệ thống hoá các vấn đề lý thuyết về cạnh tranh, mặt khác đi sâu
tìm hiểu về năng lực cạnh tranh của công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Ngọc
Hoa trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh văn phòng phẩm.
Bên cạnh đó, phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty TNHH
Ngọc Hoa, qua đó đánh giá điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và nguy cơ
ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của công ty.
Cuối cùng là đề xuất giải pháp nhằm nâng cao nâng cao năng lực cạnh
tranh của công ty TNHH Ngọc Hoa và kiến nghị đối với các chính sách chủ quan
của Nhà nước.
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
1

Mặc dù có rất nhiều vấn đề trong nền kinh tế cần được chúng ta nghiên
cứu và làm sáng tỏ đặc biệt là những vấn đề liên quan tới năng lực cạnh tranh
của doanh ngiệp. Tuy nhiên với chuyên đề này, tôi chỉ xin đề cập đến đối tượng
nghiên cứu chính là năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Ngọc Hoa trong lĩnh
vực sản xuất và kinh doanh văn phòng phẩm để từ chỗ cho chúng ta cái nhìn về


một doanh nghiệp mà có thể tiến tới nghiên cứu thêm các doanh nghiệp vừa và
nhỏ khác trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đây chúng ta sẽ dần có cái nhìn tổng quan
về năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế Việt.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Hồ Thị Bích Vân cùng các cán bộ, nhân
viên của công ty trách nhiệm hữu hạn Ngọc Hoa đã giúp đỡ tôi hoàn thành
chuyên đề này. Trong thời gian có hạn, bài viết này còn rất nhiều sai sót, tôi rất
mong nhận được sự đóng góp để bài viết có thể hoàn thiện hơn.
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
2

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH & THỰC TRẠNG
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.Lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.Khái niệm cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các khái niệm có liên quan
Cạnh tranh là một từ đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử muôn loài vạn vật
dưới hình thức ban đầu là đấu tranh sinh tồn. Mọi sinh vật từ khi sinh ra đều phải
cạnh tranh với các sinh vật cùng loại hay đấu tranh với các sinh vật khác để tồn
tại và phát triển trong thế giới của mình. Đó là cạnh tranh về thức ăn, lãnh thổ,
về các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống của mình. Những cuộc đấu tranh này đôi
khi không hề đơn giản, chúng có thể vô cùng khốc liệt dẫn đến một mất một còn.
Sinh vật nào có đủ bản lĩnh sẽ sinh tồn và ngược lại. Cuộc sống con người chúng
ta cũng bắt đầu và phát triển như vậy. Cạnh tranh như một quy luật khách quan
không thể tách khỏi hoạt động sống của con người từ xã hội cộng sản nguyên
thuỷ cho đến chủ nghĩa tư bản. Từ hoạt động cạnh tranh với tự nhiên để sinh tồn,
con người cũng cạnh tranh với nhau để phát triển. Cạnh tranh tuy được thấy từ
mọi góc cạnh của cuộc sống con người nhưng ở đây chúng ta chỉ đề cập đến
cạnh tranh trong kinh tế, giữa các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển trên thị
trường nhiều biến động.

Ai đó đã nói "Cùng ngành nghề chứ không cùng lợi nhuận, cạnh tranh là
sự tất yếu của thương trường. Cạnh tranh là sự so sánh, đối chứng sức mạnh cơ
bản giữa các doanh nghiệp, những đe doạ thách thức hoặc cơ hội của doanh
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
3

nghiệp, chủ yếu có được từ quá trình đối kháng của sức mạnh này. Cạnh tranh
trên nhiều phương diện: Thương hiệu - Chất lượng - Mẫu mã - Giá cả... Chúng ta
đã và đang tiến tới xây dựng một thương trường lành mạnh, một môi trường kinh
doanh có văn hoá - sự phát triển vững bền cho doanh nghiệp nói riêng và nền
kinh tế đất nước nói chung...
Xin trân trọng giới thiệu tới các doanh nghiệp, doanh nhân mười phương
kế hữu hiệu trong cạnh tranh giành thắng lợi.
Đây là một nguyên tắc được dùng phổ biến nhất trong đấu tranh quân sự
và chính trị, và nó cũng thích hợp trong cạnh tranh kinh tế thời hiện đại vì doanh
nghiệp là một hệ thống lớn kiểu mở cửa, luôn muốn trao đổi thông tin và trao đổi
năng lượng với môi trường toàn xã hội.
Bảo thủ là điều tối kị trong cạnh tranh, phải xem xét đánh giá tình hình,
biết trước, làm trước là "pháp bảo" của thắng lợi. Các doanh nghiệp phải biết
nhìn xa trông rộng và có sáng kiến để đối phó những thay đổi, những sự cố đột
biến, tránh tình trạng không kịp đề phòng, không kịp trở tay.
Trên thương trường, hạt nhân của "bất ngờ, đánh vào chỗ không chuẩn bị"
được thể hiện ở chữ "kỳ" Mưu lược "xuất kỳ bất ý" mà các ông chủ hiện đại
thường dùng đều dốc tâm sức vào chữ "kỳ". Nếu muốn thành công đòi hỏi bạn
phải có tư tưởng kinh doanh xuất kỳ (lạ thường), đưa ra sản phẩm lạ thường, xảo
thuật kinh doanh lạ thường, phương thức tiêu thụ và thái độ phục vụ khác lạ.
"Thời gian là vàng bạc" thực sự là kinh nghiệm cạnh tranh hiện đại bởi nó
ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị của đồng tiền, đến chiếm dụng và tốc độ quay
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
4


vòng của đồng tiền, đến việc năm bắt cơ hội. Với một doanh nghiệp mà nói, cơ
hội thường là điểm chuyển hướng của thăng tiến, là nơi mở ra thành công, chỉ có
nắm chắc được thời cơ thì chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mới có thể
mang lại hiệu quả. Người cạnh tranh hiện đại phải rất coi trọng "cơ hội" phải
tranh thủ thời gian từng giây, từng phút, nếu có cơ hội phải quyết đoán, dứt
khoát bắt tay vào làm ngay.
Binh pháp có phép dùng binh: "Đánh đòn phủ đầu, lùi trước tiến sau".
Người hành động sau trong cạnh tranh cũng có thể thắng được người khác - trên
tất cả các mặt đều tỏ ra ưu thế hơn người hành động trước, họ có thể tiếp thu bài
học thất bại của người đi trước để giành được hiệu quả kinh tế tương đối tốt.
Nhưng người làm sau phải nhằm đúng thời cơ, hành động dứt khoát, quyết đoán,
quyết không thể hành động mù quáng để dẫn đến thất bại quá sớm, cũng không
nên do dự chần chừ mà để lỡ thời cơ
Cạnh tranh kinh tế thực chất là cuộc cạnh tranh về nhân lực, vật lực và tài
lực. Nhưng bất kỳ cá nhân, tập thể nào cũng đều bị hạn chế trong những nguồn
này. Trong tình hình như vậy, phải sử dụng nguồn vốn như thế nào để có hiệu
quả nhất - Đây là một trong những điểm mấu chốt để cạnh tranh thắng lợi. Người
thành công thật sự thì quy mô sự nghiệp của họ không thể trải ra quá rộng mà chỉ
nên hành động trong phạm vi mình có thể nắm chắc được. Như vậy bảo đảm tập
trung ưu thế, đột phá trọng điểm, thúc đẩy toàn cục.
Đây là một trong những nguyên tắc bắt buộc người quyết sách phải tuân
theo khi lựa chọn phương pháp tối ưu. Muốn trong một thời gian ngắn chiếm
được ưu thế canh tranh với chi phí thấp nhất, con đường duy nhất có thể lựa
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
5

chọn là hướng tới cái lợi, tránh cái hại, phát huy sở trường, tránh sở đoản. Trong
cạnh tranh kinh tế, bất kì một doanh nghiệp nào cho dù thực lực có mạnh đến
đâu đều có điểm yếu và điểm mạnh của mình, đều không thể chiếm lĩnh toàn bộ

thị trường. Trường hợp đứng trước lợi hại đan xen phải tuân thủ theo nguyên tắc:
Hai cái lợi lấy cái lợi lớn, hai cái hại lấy cái hại nhỏ "Lấy cái mạnh của mình
đánh lại cái yếu của đối phương" đồng thời đánh vào khe hở của thị trường.
Trong đối kháng và canh tranh của thị trường chúng ta không thể mãi mãi
chỉ đi theo con
đường thẳng, trên vấn đề "thẳng" và "cong" phải cố gắng nhìn xa trông
rộng, dự báo tương lai một cách chính xác, dũng cảm đối mặt với khó khăn, tỉnh
táo nhìn nhận thành tích. Vừa làm hảo hán trong hoàn cảnh thuận lợi, không quá
đắm mình trong tình thế có lợi, lại vừa làm anh hùng trong hoàn cảnh khó khăn,
không hề dao động trước nguy cơ áp lực.
Kế Vu hồi được ứng dụng trong thời gian, là lấy kéo dài thay thế tốc thắng
(thắng nhanh). Trong tình huống thời cơ và điều kiện chín muồi phải thần tốc,
quyết chiến quyết thắng. Ngược lại khi điều kiện chưa đầy đủ, thời cơ chưa chín
muồi, phải tính kế lâu dài, bảo toàn thực lực và lực lượng, đợi thời cơ chiến đấu
lâu dài.
Để thực hiện mưu lược này nhà doanh nghiệp phải mang trong trái tim chí
hướng lớn, phải tự tin vào tương lai ở phía trước; nếu thấy tự hổ thẹn, nhát gan
lùi bước, không có chí hướng lớn thì khó có thể bước qua cửa ải "long môn".
Thực hiện mưu lược "tích tiểu thành đại" còn phải có ý chí kiên trinh bất khuất
và tinh thần không ngại khó khăn gian khổ. "
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
6

Những người thành công đều biết vận dụng thành thạo chiến thuật tiến
thoái hợp lý hơn nữa đây còn là "pháp bảo"của thành công. Trong tình thế ở vào
bất lợi, có thể đầu hàng, có thể giảng hòa cũng có thể rút lui. Trong ba điều này
đầu hàng là thất bại hoàn toàn, giảng hoà là một nửa thất bại, rút lui có thể
chuyển bại thành thắng.
Trong cạnh tranh kinh tế, lùi bước cũng là một khái niệm rất có giá trị. Có
thể dự báo xem xét trước được hay không những thất bại hoặc tình hình xấu có

thể xẩy ra để có được kế hoạch và thu xếp chu đáo.
Vì mục đích phát triển lâu dài, người thành công thường phải hi sinh một
vài lợi ích nhỏ trước mắt, thậm chí bỏ ra một số vốn để mở rộng việc kinh doanh
buôn bán từ nay về sau và cũng từ đó để gây dựng lòng tin. Người kinh doanh
của doanh nghiệp phải thông qua hạch toán tỉ mỉ điều tra và dự tính chu đáo thị
trường, mục tiêu "thả dây dài để câu cá lớn". Vì vậy có thể chấp nhận buôn bán
lỗ vốn cũng được, chỉ cần đầu tư trên thị trường có tiềm lực phát triển thì cuối
cùng vẫn giành được thắng lợi lớn.
Trong tác phẩm của mình, Michael Porter cũng thừa nhận không thể đưa
ra một định nghĩa tuyệt đối về khái niệm năng lực cạnh tranh. Theo ông, “để có
thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh
dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng
khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình.
Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải ngày càng đạt
được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng
hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn”.
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
7

Quan niệm của Michael Porter đã đề cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh
còn bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh của
mình. Nói cách khác, doanh nghiệp phải liên tục duy trì mức lợi nhuận trên cơ sở
bám sát với nhịp độ phát triển của thị trường hoặc thậm chí chủ động tạo lập nên
sự phát triển của thị trường hoặc thậm chí chủ động tạo lập nên sự phát triển của
thị trường. Việc hạ thấp giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh
theo quan niệm mang tính dài hạn này của Michael Porter cũng như đại đa số các
nhà nghiên cứu khác không bao hàm việc hạ thấp giá thành bằng những biện
pháp có tính tiêu cực như cắt giảm lương nhân viên, cắt giảm chi phí bảo hộ lao
động, cắt giảm chi phí phúc lợi, cắt giảm chi phí môi trường... Năng lực cạnh
tranh ở đây cần phải được gắn liền với khái niệm phát triển bền vững, sử dụng

hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Có thể nói, ở giác độ vi mô, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra được một
định nghĩa thống nhất về khái niệm năng lực cạnh tranh, song cho dù có thể đưa
ra khái niệm năng lực cạnh tranh thì cũng phải lưu ý rằng khái niệm năng lực
cạnh tranh là một khái niệm động và các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh vì
thế cũng không phải là một hệ thống các chỉ tiêu cố định. Đó phải là một hệ
thống các chỉ tiêu không chỉ phản ánh được khả năng duy trì và phát triển về lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương lai. Việc xác định được hệ thống
các chỉ tiêu này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng cho mỗi doanh nghiệp để có
thể định hướng xây dựng, khai thác và phát triển lợi thế cạnh tranh của mình.
Tổng hợp các trường phái lý thuyết trên, trên cơ sở quan niệm năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp và khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và
được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường, năng lực cạnh
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
8

tranh của một doanh nghiệp có thể được xác định trên bốn nhóm yếu tố cấu
thành sau:
Một là chất lượng, khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hoá các đầu
vào.
Hai là, các ngành sản xuất và dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp.
Ba là, yêu cầu của khách hàng về chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
Cuối cùng là vị thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
Có thể nói, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể được hiểu là
năng lực tồn tại, vươn lên trên thị trường cạnh tranh của doanh nghiệp về một
loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó, nói cách khác đó là khả năng duy trì (tăng
trưởng) lợi nhuận và thị phần trong nước và quốc tế đối với một hay nhiều sản
phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp.
1.2.Tính tất yếu khách quan của cạnh tranh
Chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế mà trong đó

các quyết định phân bổ nguồn lực, sản xuất và phân phối sản phẩm dựa trên cơ
sở các giao dịch tự nguyện trên thị trường giữa nhà sản xuất, người tiêu dùng và
chủ sở hữu đối với các yếu tố sản xuất. Việc ra quyết định trong nền kinh tế thị
trường mang tính phi tập trung, nghĩa là các quyết định được đưa ra một cách tự
phát, độc lập bởi các nhóm hay các cá nhân trong nền kinh tế thị trường chứ
không có kế hoạch hay do các nhà lập kế hoạch của bộ máy nhà nước đề ra. Một
trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là cạnh tranh. Cạnh tranh
được coi như động lực thúc đẩy và tạo nên môi trường cho sản xuất phát triển,
tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, đi cùng với nền kinh
tế thị trường là sự tồn tại của các quy luật kinh tế. Đây là những quy luật tác
động trực tiếp tới bất cứ chủ thể nào khi gia nhập thị trường. Trong đó, quy luật
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
9

cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản. Quy luật cạnh tranh là
những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến giữa các chủ thể kinh tế có hoạt
động sản xuất kinh doanh trên thị trường trong những điều kiện nhất định, nó đòi
hỏi các chủ thể tham gia cạnh tranh phải dùng mội biện pháp để độc chiếm hay
chiếm ưu thế về thị trường sản phẩm cạnh tranh, nhờ đó thu được lợi nhuận cao
nhất trong phạm vi có thể.
Như chúng ta đã biết, thì hiện nay, nước ta cũng đang vận hành một nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó mà việc xem xét ảnh
hưởng của cạnh tranh đối với các chủ thể trong nền kinh tế xã hội là vô cùng cần
thiết. Cũng phải nói rằng, nền kinh tế thị trường dù vận hành dưới hình thức nào
thì cũng mang bản chất của nền kinh tế thị trường, lấy cạnh tranh làm trung tâm.
Với một nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại
song song như ở nước ta thì cạnh tranh như một tất yếu. Nền kinh tế nước ta vốn
hết sức đa dạng về sở hữu ( nhà nước, tư nhân, tập thể...) và cũng đa dạng về
thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể ...), để phát
triển đất nước và tạo ra những hàng hoá dịch vụ ngày càng đáp ứng được nhu

cầu của nhân dân thì các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng cạnh tranh
với nhau. Có như vậy mới xoá bỏ được nghèo nàn, lạc hậu. Bên cạnh đó, với các
chính sách mở cửa nền kinh tế, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới WTO_ các rào sản thương mại đều phải dần được tháo dỡ để mở
đường cho các doanh nghiệp cạnh tranh công bằng trên thị trường trong nước và
quốc tế_ thì ngày càng có thêm nhiều hơn các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt
Nam, tham gia thị trường Việt Nam, điều này khiến cho thị trường Việt Nam trở
nên căng thẳng hơn và cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường vì
thế cũng trở nên quyết liệt hơn. Để tồn tại được trên thị trường nhiều đua tranh
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
10

đó, các doanh nghiệp phải tạo cho mình một năng lực cạnh tranh cần thiết và
phải cố gắng duy trì được thế mạnh của mình nếu không sẽ không thể nghĩ đến
việc đứng được trên thị trường.
Cạnh tranh là cần thiết cho nền kinh tế vì nó bảo đảm cho việc doanh
nghiệp sẽ cố gắng tạo ra được những hàng hoá, dịch vụ tốt nhất để phục vụ cuộc
sống của con người trên toàn thế giới. Điều này là hết sức rõ nét vì như chúng ta
đã thấy, chỉ trong một ngành có sự độc quyền thôi thì chúng ta sẽ chỉ nhận được
hàng hoá dịch vụ từ một nhà cung cấp duy nhất, nhà cung cấp này đôi khi tỏ ra
“hách dịch” trong việc cung cấp hàng hoá cho chúng ta. Họ có thể đưa đến cho
chúng ta những hàng hoá dịch vụ chất lượng không đảm bảo với giá thành cao
mà chúng ta với tư cách là người tiêu dùng vẫn phải chấp nhận mà không được
phàn nàn. Với cạnh tranh, thì tình trạng đó sẽ không còn, chúng ta sẽ có rất nhiều
nhà cung cấp, và nếu họ không cố gắng để làm hài lòng chúng ta_những “thượng
đế” của họ thì rất có thể họ sẽ bị đao thải khỏi thị trường. Với tư cách người mua
chắc chắn chúng ta sẽ ưa thích cạnh tranh hơn. Ngoài ra, cạnh tranh còn có nhiều
tác dụng khác đối với doanh nghiệp cũng như với nền kinh tế. Cạnh tranh chính
là bức hoạ phản ánh rõ nét thực lực của một doanh nghiệp. Chiến thắng các đối
thủ trên thị trường sẽ giúp các doanh nghiệp khẳng định được vị thế của mình.

Cạnh tranh cũng giúp nền kinh tế phát triển vì các doanh nghiệp vì sự tồn tại,
phát triển của mình sẽ không ngừng cải tiến máy móc, trang thiết bị sản xuất để
tạo ra những sản phẩm tốt nhất cho thị trường, những doanh nghiệp nào làm
không tổt sẽ tự khắc bị đào thải. Nền kinh tế -xã hội nhờ đó mà tăng trưởng và
phát triển.
Có thể nói, cạnh tranh chính là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường, nó tồn tại một cách khách quan và buộc các doanh nghiệp khi tham gia
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
11

thị trường phải đối mặt. Chỉ có cạnh tranh thì họ mới đứng vững được trên thị
trường, do đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình các doanh nghiệp
buộc phải chấp nhận cạnh tranh như một tất yếu cho sự ở lại với thị trường của
mình. Các doanh nghiệp cũng vì thế phải thường xuyên đua tranh với nhau,
thường xuyên cải tiến để giành được ưu thế so với đối thủ. Nếu lợi nhuận được
xem như là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh thì cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải cố gắng sản xuất kinh
doanh có hiệu quả cao nhất nhằm thu được lợi nhuận tối đa đồng thời giảm chi
phí sản xuất tạo độ an toàn trong kinh doanh.
1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh
Như đã nói, trong nền kinh tế thị trường tất yếu có cạnh tranh. Một doanh
nghiệp muốn cạnh tranh được trong nền kinh tế vì thế tất yếu cần có năng lực
cạnh tranh. Tuy nhiên, cũng cần nói rằng, năng lực cạnh tranh không chỉ có ý
nghĩa đối với doanh nghiệp nói riêng mà nó còn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối
với toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia và có ảnh hưởng sâu sắc tới các tầng
lớp dân cư trong xã hội.
1.3.1. Đối với doanh nghiệp
Trước hết, việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp chính
là cơ sở cho sự tồn tại của doanh nghiệp đó. Trên thị trường, cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp là tất yếu khách quan. Các doanh nghiệp luôn phải tìm cách để

đánh bại đối thủ của mình và trong cuộc chiến đầy khó khăn đó sẽ phải có người
chiến thắng và kẻ thất bại. Người chiến thắng sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, còn
kẻ thất bại sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Mà điều này chắc hẳn không một doanh
nghiệp nào muốn xảy đến cho doanh nghiệp của mình. Và vì vậy, việc nâng cao
năng lực cạnh tranh để có thể duy trì chỗ đứng của mình trên thị trường nhiều
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
12

biến động là việc mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải nghĩ đến để tránh
nguy cơ thất bại.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là vấn đề gắn liền với
mục tiêu lợi nhuận vốn là lý do tồn tại của doanh nghiệp. Đối với những doanh
nghiệp hoạt động vì lợi nhuận thì lợi nhuận cao nhất chính là mục tiêu hàng đầu
của họ, mà lợi nhuận cao nhất này chỉ có được khi doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, thường xuyên phải đối mặt
với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp hoặc tiềm ẩn vốn hết sức đa dạng và phức
tạp, họ chính là lực lượng thường xuyên đe doạ đến vị thế và chỗ đứng của
doanh nghiệp trên thị trường. Cũng vì thế mà doanh nghiệp nào có được năng
lực cạnh tranh cao hơn thì doanh nghiệp đó mới có thể tồn tại và phát triển với tư
cách là người chiến thắng so với các đối thủ của mình.
Có thể nói không một doanh nghiệp nào khi tham gia thị trường lại muốn
mình thảm bại trước các đối thủ khác và vì không muốn thất bại nên họ luôn cố
gắng để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Làm được điều đó là không hề đơn
giản đối với bất cứ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ. Họ phải cạnh tranh hết
sức khốc liệt với các đối thủ, giành giật khách hàng, tạo vị thế chỗ đứng. Người
ta thường nói “Thương trường như chiến trường”. Rõ ràng, việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp là vô cùng cần thiết để đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiêp trên thị trường.
Bên cạnh đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn là cơ sở
để phát triển sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là động lực cho sự phát
triển sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu. Doanh nghiệp có năng
lực cạnh tranh cao trên thị trường là doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu ngày
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
13

càng cao của khách hàng cũng như thị hiếu ngày càng khó chiều của họ nhưng
phải tốt hơn đối thủ của mình; sản phẩm có sức thu hút và có khả năng tiêu thụ
lớn hơn và điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận của
doanh nghiệp. Từ chỗ có được vị trí vững chắc trên thị trường, doanh nghiệp có
thể nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng được thị phần của mình
trên thị trường. Để đạt được những thành tựu đó, doanh nghiệp phải không
ngừng đổi mới mẫu mã sản phẩm, nắm bắt được thị hiếu của khách hang, thường
xuyên chú trọng tới công nghệ sản xuất tiên tiến để tạo ra những sản phẩm không
chỉ có mẫu mã đẹp mà còn có chất lượng tốt phục vụ tốt nhất nhu cầu của người
tiêu dung. Cùng với những hoạt động đó, doanh nghiệp cũng cần phải không
ngừng cải tiến máy móc thiết bị để giảm chi phí sản xuất và chi phí kinh doanh
đến mức tối đa, có như vậy mới hạ được giá thành sản phẩm. Đây vốn được coi
là một liệu pháp hàng đầu đối với các chủ doanh nghiệp trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình trên thị trường mà giá vẫn luôn là
nhân tố được quan tâm nhiều nhất khi khách hàng lựa chọn sản phẩm hay dịch
vụ. Với phương châm “ khách hàng là thượng đế”, các doanh nghiệp luôn cố
gắng hết sức hết sức để thỏa mãn mọi yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm,
dịch vụ không những mẫu mã đẹp, chất lượng tốt mà giá cả phải hợp lý, phải
chăng. Để thành công trong thế giới cạnh tranh vô cùng khốc liệt ngày nay, một
điều cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp là phải ý thức được đối thủ
cạnh tranh của mình đang làm gì và phải tìm ra được con đường cho mình để bắt
kịp hoặc vượt qua sản phẩm của đối thủ. Và cũng để cạnh tranh thành công,
doanh nghiệp cần phải thực hiện các nghiên cứu và phát triển sản phẩm đó là lý
do cho sự tồn tại của phòng nghiên cứu và phát triển. Qua việc nghiên cứu và

phát triển sản phẩm, doanh nghiệp sẽ hiểu được mong muốn cũng như nhu cầu
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
14

và khả năng biến nhu cầu của khách hàng thành hiện thực để sản xuất ra những
sản phẩm đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng tốt nhất. Như vậy năng lực cạnh tranh
chính là một yếu tố quyết định sự mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và sự
phát triển của doanh nghiệp.
1.3.2.Đối với người tiêu dùng
Như đã nói ở trên, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và việc nâng cao
năng lực cạnh tranh đã khiến cho các doanh nghiệp có thể sản xuất ra các sản
phẩm tốt nhất với giá cả hợp lý nhất để phụ vụ các “ thượng đế” của mình. Rõ
ràng, khách hang là những người được lợi nhiều nhất từ việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Bằng việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, người tiêu
dùng sẽ có cơ hội được hưởng những hàng hoá tốt nhất với nhiều chủng loại
khác nhau, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn vô biên vô hạn của khách
hàng. Để luôn dẫn đầu và tồn tại được trên thị trường, doanh nghiệp phải không
ngừng nâng cao chất lượng, tính năng, công dụng của sản phẩm đồng thời phải
sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại và các quy trình sản xuất, quản lý tiên tiến
để cắt giảm chi phí. Vì vậy, khách hàng sẽ luôn có những sản phẩm hoàn thiện
nhất với giá cả phải chăng nhất.
Cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp và các ngành kinh
doanh nhằm chiếm được sự chấp thuận và lòng trung thành của khách hàng. Hệ
thống doanh nghiệp tự do đảm bảo cho các ngành có thể tự mình đưa ra các
quyết định về mặt hàng sản xuất, phương thức sản xuất, và sự định giá cho sản
phẩm hay dịch vụ. Cạnh tranh là một tiền đề của hệ thống sở hữu tự do bởi niềm
tin rằng càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng những
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
15


hàng hoá có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách
hàng các giá trị tối ưu đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
1.3.3.Đối với nền kinh tế xã hội
Nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ có ý nghĩa đối với riêng bản thân
doanh nghiệp hay chỉ với người tiêu dùng mà còn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối
với nền kinh tế xã hội của quốc gia thậm chí là quốc tế. Trong nền kinh tế thị
trường, cuộc chạy đua của các doanh nghiệp có vai trò động lực thúc đẩy sự phát
triển đối với nền kinh tế và nâng cao năng suất lao động xã hội. Khi tham gia
một cuộc cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp đều muốn giành thắng lợi dù
rõ ràng đó không phải là việc dễ dàng. Tất yếu cho chiến thắng của mình là sự cố
gắng của họ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường có
như vậy mới thu hút được mối quan tâm của khách hàng và thu được nhiều lợi
nhuận bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của mình. Mà cụ thể là họ sẽ cố gắng
để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ, hạ giá thành
nếu có thể, tạo lập và duy trì niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp. Và
như vậy trong cuộc chạy đua đó, những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ sẽ
tự khắc rút khỏi thị trường nhường chỗ cho những doanh nghiệp mới, những
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Sự loại trừ bởi cạnh tranh này của nền
kinh tế thị trường đã đảm bảo cho sự phát triển đi lên của nền kinh tế. Kinh tế
phát triển vững mạnh chính là một sự bảo đảm vững chắc cho sự tiến bộ xã hội.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi mà nền kinh tế của một quốc gia gắn liền
với nền kinh tế thế giới bởi sự phát triển của công nghệ thông tin đã thu hẹp
khoảng cách giữa các quốc gia thì cạnh tranh có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế
toàn cầu. Và như vậy cạnh tranh chính là một trong những động lực để phát triển
kinh tế xã hội trên toàn thế giới.
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
16

Chúng ta từ đây có thể thấy nếu cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải

nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường là một cuộc cạnh tranh
công bằng và đúng pháp luật thì có thể tạo nên những ảnh hưởng sâu sắc tới
không chỉ doanh nghiệp và người tiêu dùng trực tiếp đối với sản phẩm của doanh
nghiệp đó mà còn tới toàn bộ nền kinh tế xã hội của một quốc gia và nền kinh tế
toàn cầu. Nhưng cũng cần phải chú ý rằng bản thân cạnh tranh cũng chứa đựng
những khuyết tật của nền kinh tế thị trường đó là việc các doanh nghiệp luôn
chạy theo lợi nhuận mà không chú trọng đến các vấn đề xã hội như tình trạng
phân hoá giàu nghèo, vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt các nguồn tài nguyên
thiên nhiên... Mục tiêu tồn tại phát triển của doanh nghiệp và quốc gia mâu thuẫn
với nhau nên vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để hài hoà giữa mục tiêu của cá
nhân các doanh nghiệp và mục tiêu của toàn xã hội. Bên cạnh đó là thực trạng
cạnh tranh thiếu công bằng, cạnh tranh gian dối, điều này làm các doanh nghiệp
làm ăn chân chính cảm thấy bị không còn động lực để cạnh tranh trên thị trường,
họ có thể nản lòng và như vậy cạnh tranh mất đi tác động tích cực của nó. Đối
với việc này tất cả các quốc gia đều phải hết sức lưu tâm để đảm bảo cho các
doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp có thể tồn tại phục vụ xã hội.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh là một trong những vấn đề cần được sự quan tâm của
tất cả các doanh nghiệp muốn cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp khác
vì sự tồn tại và phát triển của bản thân giữa nền kinh tế đang hội nhập và mở cửa
mạnh mẽ như nền kinh tế Việt Nam hoà vào xu hướng phát triển chung của thế
giới. Và vì thế việc nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành mục tiêu của mọi
doanh nghiệp trong chiến dịch duy trì chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Tuy
nhiên để có thể làm được điều đó là không hề dễ dàng. Có rất nhiều nhân tố có
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
17

thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đây có thể là những nhân tố đến từ bên ngoài hay những nhân tố xuất phát từ
ngay nội tại của doanh nghiệp mà chúng ta có thể thấy những nhân tố xuất phát

từ bên trong này luôn giữ vai trò tiên quyết đối với năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.4.1. Các nhân tố bên ngoài
Có rất nhiều các nhân tố từ môi trường bên ngoài có khả năng tác động
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như các yếu tố đến từ môi trường vĩ
mô hoặc vi mô. Nhóm các nhân tố này hết sức đa dạng và phức tạp với ảnh
hưởng khá to lớn.
Với môi trường vĩ mô, các nhân tố cũng không phải ít, chúng có thể là các
nhân tố kinh tế, các nhân tố liên quan đến chính trị- luật pháp, các nhân tố về
khoa học công nghệ, văn hoá xã hội, các nhân tố tự nhiên...
Trong đó các nhân tố kinh tế được xem là quan trọng nhất bởi nó có vai
trò quyết định đối với sự hình thành của một doanh nghiệp và có ảnh hưởng tới
môi trường kinh doanh trong đó doanh nghiệp tham gia hoạt động. Không chỉ có
ảnh hưởng ngay từ bước đầu gia nhập thị trường của doanh nghiệp mà chúng còn
có tác động to lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các
nhân tố kinh tế có thể kể ra đây là: tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia, tỷ giá
hối đoái, lãi suất, các chính sách kinh tế của Nhà nước.
Nếu một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì đi cùng với nó là
mức thu nhập của người dân cũng sẽ nâng cao. Khi thu nhập tăng thì người dân
cũng quan tâm nhiều hơn đến tiêu dùng. Mức sống gia tăng nhận thức của người
dân vì thế cũng cao hơn, do đó đòi hỏi của họ đối với sản phẩm dịch vụ không
những cần giá thành hợp lý mà chất lượng còn phải tốt, mẫu mã phải đẹp...
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
18

Những đòi hỏi này sẽ tác động tới các doanh nghiệp, buộc họ phải không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, tiếp cận công nghệ hiện đại
giảm chi phí để cạnh tranh.
Về tỷ giá thì ảnh hưởng của nó đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
chỉ thực sự rõ nét khi doanh nghiệp đó có hoạt động kinh doanh trên thị trường

quốc tế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến giá nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài,
việc này cũng đồng nghĩa với việc gia tăng chi phí của doanh nghiệp trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Lãi suất cũng được coi là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Muốn thành lập và hoạt động, doanh nghiệp
thường phải đi vay, do đó lãi suất cao sẽ làm gia tăng chi phí của doanh nghiệp
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ
giảm.
Các chính sách của Nhà nước cũng có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà nước có thể đưa ra những chính
sách kích thích sự phát triển của doanh nghiệp hoặc kìm hãm sự phát triển của
doanh nghiệp bằng cách này hay cách khác.
Đối với các nhân tố thuộc môi trường luật pháp, chính trị thì sự ổn định về
chính trị là tiền đề cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Hệ
thống pháp luật với những điều khoản rõ ràng về kinh tế, cạnh tranh sẽ kích thích
các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh và nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình một cách hiệu quả.
Chúng ta đang sinh sống trong thời đại của khoa học công nghệ hiện đại
với những biến đổi nhanh chóng. Để bắt kịp thời đại thì việc nắm bắt được
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
19

những tiến bộ khoa học công nghệ và áp dụng chúng vào hoạt động sản xuất
kinh doanh là một đòi hỏi đối với các doanh nghiệp muốn gia tăng sức cạnh
tranh của mình so với các đối thủ trên thị trường.
Ngoài các nhân tố trên thì các phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu cũng
như thói quen tiêu dùng ... hay các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên cũng có ảnh
hưởng không nhỏ tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào biết
khai thác các thế mạnh của mình như hiểu rõ nắm vững tâm lý khách hàng hay

lợi thế về nguồn lực tự nhiên cũng sẽ có được lợi thế so với các đối thủ cạnh
tranh của mình.
Đối với các nhân tố thuộc môi trường vi mô, mô hình 5 lực lượng cạnh
tranh của Michael Porter đã thể hiện rất rõ, đó là những áp lực mà các nhân tố
thuộc môi trường ngành đưa lại cho doanh nghiệp buộc doanh nghiệp phải nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình.
Số lượng và quy mô của nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh,
quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp. Nếu trên thị trường chỉ
có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng tới
toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Khả năng thay thế sản phẩm của nhà cung cấp : Trong vấn đề này ta
nghiên cứu khả năng thay thế những nguyên liệu đầu vào do các nhà cung cấp
và chi phí chuyển đổi nhà cung cấp (Switching Cost).
Thông tin về nhà cung cấp : Trong thời đại hiện tại thông tin luôn là nhân
tố thúc đẩy sự phát triển của thương mại, thông tin về nhà cung cấp có ảnh
hưởng lớn tới việc lựa chọn nhà cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp.
Hiện nay trên thị trường chỉ có 2 nhà cung cấp chip ( Bộ vi xử lý -CPU)
cho máy tính là AMD và Intel. Tất cả các máy tính bán ra trên thế giới đều sử
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
20

dụng bộ vi xử lý của hai hãng này chính vì quyền lực đàm phán của Intel và
AMD với các doanh nghiệp sản xuất máy tính là rất lớn.
Một trường hợp nữa ngay trong ngành công nghệ thông tin là các sản
phẩm của hệ điều hành Window như Word, Excel. Các nhà sản xuất máy tính
không có sự lựa chọn vì chưa có hệ điều hành, các sản phẩm soạn thảo văn bản
nào đáp ứng được nhu cầu tương đương với các sản phẩm của Mircosoft.
Với tất cả các ngành, nhà cung cấp luôn gây các áp lực nhất định nếu họ
có quy mô , sự tập hợp và việc sở hữu các nguồn lực quý hiếm. Chính vì thế
những nhà cung cấp các sản phẩm đầu vào nhỏ lẻ (Nông dân, thợ thủ công....) sẽ

có rất ít quyền lực đàm phán đối với các doanh nghiệp mặc dù họ có số lượng
lớn nhưng họ lại thiếu tổ chức.
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn
bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Khách hàng được phân làm 2 nhóm: Khách hàng lẻ, Nhà phân phối. Cả
hai nhóm đều gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch
vụ đi kèm và chính họ là người điểu khiển cạnh tranh trong ngành thông qua
quyết định mua hàng.
Tương tự như áp lực từ phía nhà cung cấp ta xem xét các tác động đến áp
lực cạnh tranh từ khách hàng đối với ngành: Quy mô, Tầm quan trọng, Chi phí
chuyển đổi khách hàng, Thông tin khách hàng.
Đặc biệt khi phân tích nhà phân phối ta phải chú ý tầm quan trọng của họ,
họ có thể trực tiếp đi sâu vào uy hiếp ngay trong nội bộ của doanh nghiệp.
Wal- Mart là nhà phân phối lớn có tầm ảnh hưởng toàn thế giới, hệ thống
phân phối của Wal mart có thể ảnh hưởng tới nhiều ngành hàng như thực phẩm,
hàng điện tử , các hàng hàng hóa tiêu dùng hàng ngày. Wal Mart có đủ quyển lực
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
21

để đàm phán với các doanh nghiệp khác về giá cả, chất lượng sản phẩm cũng
như các chính sách marketing khi đưa hàng vào trong hệ thống của mình.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, việc đưa các sản phẩm
vào hệ thống phân phối của các siêu thị luôn gặp phải khó khăn và trở ngại vì các
áp lực về giá và chất lượng. Hầu hết các sản phẩm của Việt Nam như dệt may,
da giầy rất khó xâm nhập vào các thị trường lớn như Mỹ ,EU nếu không qua hệ
thống phân phối. Chính vì vậy chúng ta đã được lắng nghe những câu chuyện về
việc một đôi giầy sản xuất ở Việt Nam bán cho nhà phân phối với giá thấp còn
người dân Việt Nam khi mua hàng ở nước ngoài thì phải chịu những cái giá cắt
cổ so với sản phẩm cùng chủng loại ở trong nước.
Theo M-Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên

trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn
nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố
sau
Sức hấp dẫn của ngành: Yếu tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu như tỉ
suất sinh lợi, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành.
Những rào cản gia nhập ngành : là những yếu tố làm cho việc gia nhập
vào một ngành khó khăn và tốn kém hơn: Kỹ thuật, Vốn , Các yếu tố thương
mại: Hệ thống phân phối, thương hiệu , hệ thống khách hàng ...
Các nguồn lực đặc thù: Nguyên vật liệu đầu vào ( Bị kiểm soát ), Bằng
cấp , phát minh sáng chế, Nguồn nhân lực, sự bảo hộ của chính phủ ....
Không ai có thể lường được việc Apple sẽ cho ra đời máy nghe nhạc Ipod
đánh bại người hùng về công nghệ mutilmedia như Sony. Rõ ràng sức hấp dẫn
của cầu các thiết bị nghe nhạc đã đưa Ipod trở thành sản phẩm công nghệ được
ưa chuộng nhất. Chính Sony đã tự làm các rào cản về công nghệ, thương hiệu
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
22

của mình giảm sút bằng việc quá chú trọng vào phát triển theo chiều rộng nhiều
ngành để người tí hon Apple thâm nhập và kiểm soát toàn bộ thị trường, biến lợi
thế cạnh tranh của Sony trở thành gánh nặng cho chính họ.
Tương tự như ví dụ trên chúng ta so sánh trong ngành công nghiệp nặng
như sản xuất máy bay. Rào cản gia nhập ngành quá lớn cả về vốn, công nghệ,
nguyên vật liệu đầu vào nên hiện tại chỉ có 2 hãng hàng không lớn cạnh tranh
với nhau là Airbus và Boeing. Nếu không có sự đột biến về công nghệ để chế tạo
ra sản phẩm mới hoặc là tối ưu hơn máy bay ( Loại máy nào đó có thể đi từ nơi
này sang nơi khác như truyện cổ tích) hoặc là tính năng tương tương nhưng giá
và công nghệ rẻ hơn thì chắc chắn rào cản gia nhập ngành chế tạo máy bay vẫn
là đích quá xa cho các doanh nghiệp khác.
Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn
nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành.

Ta có thể lấy luôn ví dụ sau đó mới đưa ra các nhận định về áp lực cạnh
tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế : Phần lớn thành viên trong Saga là các quý
ông. Mà các quý ông thì có sở thích uống bia, rượu khi đã uống vào rồi thì là
say, say thì các phu nhân sẽ không thích. Các bác thường đổ lỗi cho bạn bè, đồng
nghiệp, đối tác .... để biện cớ cho việc mình tiêu thụ lượng lớn bia để bổ sung
doanh thu cho các hàng bia hơi. Vậy bia thỏa mãn nhu cầu gì: Gặp gỡ đối tác, Tụ
họp bạn bè, Bàn công việc với đồng nghiệp, .... còn vô vàn lý do khác nhưng ta
xét trên phương diện công việc nên chỉ dùng một vài yếu tố để nhận định.
Vậy sản phẩm thay thế của bia, rượu là một hàng hóa ( hoặc dịch vụ có thể
thỏa mãn các nhu cầu ở trên). Tại đây tôi xin liệt kê một số hàng hóa có thể thay
thế được bia rượu : Uống cafe, uống trà, chơi thể thao .Các dịch vụ này có thể
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
23

thỏa mãn các nhu cầu trên và thêm vào một lợi ích là được chị em saganor hoan
nghênh.
Qua ví dụ trên chúng ta thấy áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay
thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa
là các nhân tố về giá, chất lượng , các yếu tố khác của môi trường như văn hóa,
chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế.
Tính bất ngờ, khó dự đoán của sản phẩm thay thế : Ngay cả trong nội bộ
ngành với sự phát triển của công nghệ cũng có thể tạo ra sản phẩm thay thế cho
ngành mình. Điện thoại di động chính là sản phẩm thay thế cho điện thoại cố
định và sắp tới là VOIP sẽ thay thế cho cả hai sản phẩm cũ.
Chi phí chuyển đổi: Chúng ta biết các phần mềm mã nguồn mở như
Linux hay như ở Việt Nam là Viet Key Linux giá thành rất rẻ thậm chí là miễn
phí nhưng rất ít người sử dụng vì chi phí chuyển đổi từ hệ điều hành Window và
các ứng dụng trong nó sang một hệ điều hành khác là rất cao và có thể ảnh
hưởng đến hoạt động, các công việc trên máy tính.
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với

nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Trong một
ngành các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh trên các đối thủ
Tình trạng ngành : Nhu cầu, độ tốc độ tăng trưởng ,số lượng đối thủ cạnh
tranh...
Cấu trúc của ngành : Ngành tập trung hay phân tán.
Ngành phân tán là ngành có rất nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau
nhưng không có doanh nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các doanh nghiệp
còn lại
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
24

Ngành tập trung : Ngành chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nắm giữ
vai trò chi phối ( Điều khiển cạnh tranh- Có thể coi là độc quyền)
Các rào cản rút lui (Exit Barries) : Giống như các rào cản gia nhập ngành,
rào cản rút lui là các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi ngành của doanh nghiệp
trở nên khó khăn : Rào cản về công nghệ, vốn đầu tư; Ràng buộc với người lao
động, Ràng buộc với chính phủ, các tổ chức liên quan (Stakeholder), Các ràng
buộc chiến lược, kế hoạch.
Thị trường cung cấp dịch vụ viễn thông di động Việt Nam hiện nay đã có
rất nhiều nhà cung cấp nhưng quyền lực chi phối thị trường vẫn nằm trong tay 3
nhà cung cấp dịch vụ viễn thông là Vina Phone , Mobifone và Viettel.. Nhu cầu
sử dụng dịch vụ của Việt Nam tăng khoảng 5-10%/ năm, doanh thu, lợi nhuận
của các nhà cung cấp cũng tăng với con số tương đương. Mặc dù cho các rào
cản gia nhập ngành, rào cản rút lui .... là cao, áp lực từ khách hàng không đáng
kể nhưng đang có rất nhiều doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập vào thị trường . Một
điều đáng mừng hơn nữa là sự ra đời của ngành dịch vụ kèm theo dịch vu viễn
thông như : Các tổng đài giải trí, cá cược, các dịch vụ khác mà điển hình gần đây
là xem giá chứng khoán qua mạng di động. Với xu hướng này sức cạnh tranh
trong nội bộ ngành sẽ ngày càng gia tăng và lúc đó người tiêu dùng sẽ ngày càng
được tôn trọng hơn.

Áp lực từ các bên liên quan mật thiết là áp lực không được đề cập trực tiếp
ngay trong ma trận nhưng trong quyển sách " Strategic Management & Business
Policy" của Thomas L. Wheelen và J. David Hunger có ghi chú về áp lực từ các
bên liên quan mật thiết: Chính phủ, Cộng đồng Các hiệp hội, Các chủ nợ, nhà tài
trợ, Cổ đông,
Khoa QLKT - Đại học Kinh tế Quốc dân
25

×