Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học côn trùng nước tại địa phận xã ngọc thanh, thị xã phúc yên, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.04 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
• • • • KHOA SINH - KTNN
ĐỖ THU HƯƠNG
NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC CÔN
TRÙNG NƯỚC TAI ĐIA PHÂN
XÃ NGỌC THANH, THỊ XÃ PHÚC YÊN
TỈNH VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
• • • •
Chuyên ngành: Động vật học
HÀ NỘI, 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
• • • • KHOA SINH - KTNN
ĐỖ THU HƯƠNG
NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC CÔN
TRÙNG NƯỚC TẠI ĐỊA PHẬN
• • •
XÃ NGỌC THANH, THỊ XÃ PHÚC YÊN
TỈNH VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
• • • •
Chuyên ngành: Động yật học
Người hướng dẫn khoa học
Th.s NGUYỄN VĂN HIẾU
HÀ NỘI, 2015
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến ThS. Nguyễn Văn Hiếu
- Cán bộ giảng dạy tổ Động vật, khoa Sinh - KTNN, trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2. Thầy là người đã định hướng và tận tình chỉ bảo , giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp
của mình.
Đồng thời, qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm Khoa


cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh - KTNN, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình. Đặc biệt, tôi xin
chân thành cảm ơn TS Đỗ Thị Lan Hương - Trưởng phòng thí nghiệm Thực vật
học, Thày giáo Khuất Văn Quyết và các cán bộ giảng dạy tổ Thực vật - Vi sinh
đã tạo điều kiện cho tôi sử dụng một số thiết bị tại phòng thí nghiệm Thực yật
học góp phần giúp tôi hoàn thành khóa luận đúng thời gian.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động
viên và là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu
khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2015 Sinh viên
Đỗ Thu Hưoug
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu, các số liệu trình bày trong luận văn là do nghiên cứu, thực tiễn đảm
bảo tính trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học,
trong các tạp chí chuyên ngành và các hội thảo khoa học, sách chuyên khảo,
nào khác.
Hà Nội, ngày 05tháng 05 năm 2015 Sinh viên
Đỗ Thu Hương
Lòi cảm on Lòi
cam đoan
Danh mục
bảng Danh
mục hình
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
*
Bảng 3.1.cấu trúc thành phần loài côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu 28
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Côn trùng nước giữ vai trò hết sức quan trọng trong hệ sinh thái các
thủy vực cả nước đứng cũng như nước chảy. Mỗi một môi trường thủy vực,
nhóm sinh vật này đều có những đặc tính thích nghi phù họp. So với nhiều
nhóm sinh yật khác, côn trùng nước có nhiều đặc tính nổi trội như số lượng
loài, số lượng cá thể lớn đặc biệt chúng là những mắt xích không thể thiếu
trong chuỗi và lưới thức ăn. Các loài côn trùng nước là những sinh vật tiêu thụ
bậc 1, bậc 2 đồng thời lại là nguồn thức ăn của nhiều loài động vật có xương
sống. Nhiều loài côn trùng nước có quan hệ mật thiết đối với con người. Một
số loài côn trùng nước gây hại là tác nhân truyền bệnh, tác nhân gây bệnh, tác
nhân phá hoại sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp Đáng chú ý trong nhóm
này là những loài giữ vai trò quan trọng trong dịch tễ học như các loài thuộc
giống Anopheles, Ảedes thuộc bộ Hai cánh (Diptera) Giai đoạn trưởng thành
của các loài côn trùng này là những vector truyền bệnh sốt rét, sốt vàng da cho
ngưòi. Khác với nhóm côn trùng trên cạn, phàn lớn các loài thuộc côn trùng
nước tồn tại cả trong môi trường nước và trong môi trường cạn. Do yậy, chúng
là đối tượng lý tưởng dùng trong các nghiên cứu về sinh thái học và sinh học
tiến hóa. Trong giai đoạn hiện nay, hướng nghiên cứu về nhóm côn trùng nước
là dùng đối tượng này để chỉ thị chất lượng môi trường do có nhiều loài rất
nhạy cảm vói sự biến đổi của môi trường nước. Trên thế giới đã có rất nhiều
thành tựu to lớn khi nghiên cứu trên đối tượng côn trùng nước, từ việc phân
loại cho đến những nghiên cứu về tập tính, sinh thái, sinh sản, di truyền, tiến
hóa Ở Việt Nam, trong những năm gần đây côn trùng nước cũng đã được
quan tâm nghiên cứu. Ở các Vườn quốc gia và các Khu bảo tồn thiên nhiên
6
của Việt Nam có hệ thống sông, suối phong phú, tiềm ẩn tính đa dạng côn
trùng nước.
Xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc nơi có hệ thống sông,
suối phong phú, tiềm ẩn tính đa dạng côn trùng nước, tuy nhiên việc nghiên

cứu về nhóm sinh vật này vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu, vì vậy chúng
tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đa dạng sinh học côn trùng nước thuộc địa
phận xã Ngọc Thanh, thị xã PhúcYên, tinh Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu đa dạng sinh học về loài
côn trùng nước và sự phân bố của côn trùng nước theo túứi chất của thủy vực
thuộc địa phận xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh VTnh Phúc.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ỷ nghĩa khoa học
Đề tài cung cấp những dẫn liệu khoa học về thành phần loài thuộc nhóm
côn trùng nước ở xã Ngọc Thanh là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu
chuyên sâu về nhóm sinh vật này ở khu vực nghiên cứu.
3.2. Ỷ nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài góp phàn cung cấp những tư liệu phục
vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy về côn trùng nước tại
xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới
Côn trùng nước được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới, đặc
biệt ở các nước phát triển đã có nhiều công trình nghiên cứu đến từng bộ của
nhóm côn trùng này. Sang những năm 1970, 1980 côn trùng nước trở thành
vấn đề trung tâm trong các nghiên cứu về sinh thái học ở các thủy vực nước
ngọt (Bames và Minshall, 1983) [14]. Đã từ lâu, các nhà khoa học sám nhận ra
7
vai tò quan ttọng của côn trùng nước ttong các hệ sinh thái, do đó phạm vi
nghiên cứu côn trùng nước ngày càng được mở rộng, các hướng nghiên cứu
không chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân loại mà còn đi sâu vào các cơ chế bên
trong như: biến động quần thể côn trùng, các mối quan hệ dinh dưỡng, đáp
ứng yêu cầu của sinh thái học (Resh và Rosenberg, 1984; Cummins, 1994)
[14].

Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố
hàng loạt các công trình nghiên cứu về côn trùng nước như: McCafferty W.P.,
1983; Kawai T., 1985; John C.M., Yang Lianfang và Tian Lixin, 1994; Yoon,
I.B., 1995; Merritt R. w. và Cummins K. w., 1996; Các nghiên cứu này đã
bổ sung và cung cấp nhiều kiến thức về côn trùng nước bao gồm cả phân loại
học, sinh thái học, tiến hóa, ứng dụng
Qua các công trình nghiên cứu, đến nay có thể xác định 9 bộ thuộc
nhóm Côn trùng ở nước: Phù du (Ephemeroptera), Chuồn chuồn (Odonata),
Cánh lông (Tricoptera), Cánh úp (Plecoptera), Cánh nửa (Hemiptera), Cánh
cứng (Coleoptera), Hai cánh (Diptera), Cánh rộng (Megaloptera), Cánh vảy
(Lepidoptera).
Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Bộ Phù du (Ephemeroptera) được xếp vào nhóm côn trùng có cánh cổ
sinh, những bằng chứng về hóa thạch của chúng được tìm thấy đàu tiên thuộc
kỷ Cacbon và kỷ Pecmơ trong đại cổ sinh (cách đây khoảng 250 triệu năm).
Các loài thuộc bộ Phù du được mô tả từ rất sớm. Nhà tự nhiên học nổi tiếng
Lineaus (1758), đã mô tả 6 loài Phù du tìm thấy ở châu Âu và xếp chúng vào
một nhóm, ông đặt tên là Ephemera. Có thể xem đây là công trình đàu tiên đặt
nền móng cho các nghiên cứu về Phù du sau này [19].
8
Vào thế kỷ XIX, Eaton (1871, 1881, 1883-1888, 1892) [19], đã công bố
hàng loạt các công trình nghiên cứu về Phù du của mình, đặc biệt là công trình
“A monograph on the Ephemeridae” được công bố năm 1871. Công trình đã
cung cấp những kiến thức cơ bản về bộ Phù du. Nghiên cứu đã mô tả các đặc
điểm về mặt hình thái của giai đoạn ấu trùng và trưởng thành, những kiến thức
này rất hữu ích cho việc xây dựng khóa định loại đến các họ và giống của bộ
Phù du.
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển
hình là các công trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933),
Navás (1920, 1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự

(1935) [19]. Edmunds (1962), đã xây dựng hệ thống phân loại đến họ thuộc bộ
Phù du trên toàn thế giới. Ông đã đưa ra một bức tranh tổng thể về khóa phân
loại bậc cao cũng như nguồn gốc phát sinh của Phù du. Sau này, do sự phát
triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực nghiên cứu về Phù du cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu nên hệ thống phân loại của ông càng ngày càng bị hạn chế. Mc
Cafferty và Edmunds (1973) [14], đã bổ sung những dẫn liệu mới và chỉnh lý
khóa phân loại cho phù họp vói thực tế nghiên cứu đòi hỏi. Trong khóa định
loại này, ngoài việc mô tả đặc điểm hình thái thì mối quan hệ họ hàng giữa các
loài trong quá trình tiến hóa cũng được các tác giả đề cập đến. Cho đến nay, hệ
thống phân loại này vẫn được áp dụng trên thế giới khi nghiên cứu về Phù du.
Đến năm 1990, toàn thế giới đã xác định được khoảng 2.000 loài Phù du
thuộc 317 giống (trong đó có 61 giống đã hoá thạch) của 26 họ khác nhau [19].
Thành phần loài hay nói cách khác sự đa dạng về mức độ loài của Phù du ở
các họ thể hiện rất khác nhau, có những họ chỉ có một vài loài như
Teloganellidae, Teloganodidae hay có những họ có tới hàng ừăm loài như
Heptageniidae, Leptophlebiidae. Tuy nhiên, những con số này chưa phản ánh
9
hết mức độ đa dạng của Phù du vì còn nhiều khu vực trên thế giới vẫn chưa
được khám phá hết, nhất là các khu vực nhiệt đới.
Nghiên cứu về bộ Phù du đã được tiến hành rất sớm ở châu Âu và châu
Mỹ. Đối với khu vực châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về Phù du được thực
hiện bởi các nhà côn trùng học đến từ châu Ầu như: Navás (1922, 1925),
Lestage (1921, 1924) [19]. Những nghiên cứu này là cơ sở và nền tảng thúc
đẩy việc nghiên cứu về Phù du ở khu vực đông dân nhất thế giới. Trong thế kỷ
XX, đã có nhiều quốc gia trong khu yực quan tâm nghiên cứu về Phù du.
Hsu (1931, 1932, 1935, 1936, 1937) tiến hành nghiên cứu Phù du ở
Trung Quốc và xây dựng khóa định loại tới loài. Nhưng các kết quả nghiên
cứu chỉ dừng lại trên đối tượng thu được ở giai đoạn trưởng thành. Cùng thời
gian này, Ưlmer (1932, 1933) cũng tiến hành nghiên cứu khu hệ Phù du ở
Trung Quốc. Ông đã thực hiện những nghiên cứu của mình trên đối tượng Phù

du ở giai đoạn ấu trùng. Tiếp sau đó, hàng loạt các công trình nghiên cứu về
Phù du ở Trung Quốc được thực hiện bỏi Wu (1986, 1987), You (1982, 1987),
Zhang (1995), Zhou (1995) [19].
Ulmer (1939), đã mô tả một số lượng lớn các loài Phù du ở đảo Sudan
(Indonesia), tài liệu này rất cần thiết cho việc nghiên cứu khu hệ Phù du ở
vùng Đông Nam Á. Tiếp sau đó, Gose (1985) tiến hành xây dựng khóa định
loại ấu trùng Phù du ở Nhật Bản. Trong những thập niên 90 của thế kỷ XX,
Bae và cộng sự (1994), Bae & Yoon (1997) đã hoàn thành danh lục Phù du ở
Hàn Quốc [19].
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, ở châu Á có khoảng 128 giống thuộc
18 họ của bộ Phù du (Hubbard, 1990; McCaffity, 1991; McCaffity & Wang,
1997, 2000; Dudgeon, 1999) [19]. Cho đến nay, những nghiên cứu liên quan
đến phân loại và hệ thống học Phù du khá tỉ mỉ, các nhà khoa học đã xây dựng
1
0
khoá phân loại chi tiết tới loài kể cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành. Hiện
nay, hướng nghiên cứu tập trung vào các vấn đề sinh thái, phục hồi và bảo tồn
các loài cũng như các nghiên cứu ứng dụng của Phù du vào thực tiễn.
Ngoài các công trình nghiên cứu về đặc điểm phân loại của Phù du,
nhiều nhà khoa học còn quan tâm nghiên cứu đến các khía cạnh khác nhau liên
quan đến nhóm côn trùng nước này như: Sinh thái học, Địa động vật. Điển
hình là Neddham và cộng sự (1935), đã công bố các số liệu về vòng đòi, quá
trình lột xác chuyển từ đời sống dưới nước lên cạn, tập tính dinh dưỡng, tập
tính sinh sản, biến động số lượng theo mùa của nhiều loài Phù du. Các kết
quả nghiên cứu về Địa động vật cho thấy các loài thuộc bộ Phù du ưa sống ở
những nơi nước chảy với hàm lượng oxy hòa tan ừong nước cao, cấu trúc nền
đáy của các thủy vực giữ vai trò quan trọng, quyết định đến thành phần loài
Phù du. Mặt khác, sự phân bố của Phù du còn phụ thuộc vào độ cao, độ che
phủ của rừng.
Gần đây, các công trình nghiên cứu đề cập đến khả năng sử dụng Phù

du là sinh vật chỉ thị chất lượng môi trường nước vì nhiều loài thuộc bộ Phù
du rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường như một số công trình của
Landa và Soldan (1991), Bufagni (1997) [19].
Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
Bộ Chuồn chuồn (Odonata) là bộ côn trùng có kích thước cơ thể lớn,
vòng đòi của chúng trải qua 3 giai đoạn: trứng, thiếu trùng, con trưởng thành.
Thiếu trùng thường sống ừong nước, chủ yếu ở vùng nhiệt đói hoặc vùng khí
hậu ấm, con trưởng thành sống trên cạn. Cả giai đoạn thiếu trùng và trưởng
thành đều ăn thịt. Bộ Chuồn chuồn được chia thành 3 phân bộ là: phân bộ
Anisozygoptera, phân bộ Zygoptera (Chuồn chuồn kim) và phân bộ
Anisoptera (Chuồn chuồn ngô). Phân bộ Anisozygoptera chỉ có 1 giống là
1
1
Epiophỉebia, giống này có một số loài chỉ phân bố ở độ cao khoảng 2.000m ở
những con suối thuộc Nhật Bản và vùng núi cao Himalaya (Tani & Miyatake,
1979; Kumar & Khanna, 1983). Hai phân bộ còn lại phân bố rộng cả ở nơi
nước đứng cũng như nước chảy với số lượng loài vô cùng phong phú [15].
Trước kia, các công trình nghiên cứu về Chuồn chuồn chủ yếu tập trung
mô tả hình dạng và đặc điểm ngoài các loài Chuồn chuồn thu thập được ở
châu Á và châu Âu nhằm xây dựng khóa định loại. Điển hình cho các công
trình nghiên cứu này là: Needham (1930), Fraser (1933, 1934, 1936), Askew
(1988), Zhao (1990), Hisore & Itoh (1993), Wilson (1955) [1]. Watson (1991),
nghiên cứu khu hệ chuồn chuồn ở úc. Ngoài các công trình nghiên cứu về
phân loại học còn có những công trình nghiên cứu về Địa động vật học như:
Prinratana (1988), Tsuda (1991). Các công trình nghiên cứu về Sinh học và
Sinh thái học của Corbet (1980), Hutchinson (1993). Các công trình nghiên
cứu này chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng thành. Đối với giai đoạn ấu trùng,
Ishida & Ishida (1985) đã xây dựng khóa định loại có kèm theo hình vẽ rõ
ràng tới giống ở vùng châu Á [1]. Merritt và Cummins (1996), xây dựng khóa
định loại tới giống ở cả giai đoạn thiếu trùng và trưởng thành bộ Chuồn chuồn

thuộc khu vực Bắc Mỹ.
Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
Hiện nay, trên thế giới bộ Cánh úp (Plecoptera) biết khoảng 2.000 loài
và là một trong những nhóm côn trùng có các đặc điểm nguyên thủy với nhóm
có cánh hiện nay. Hóa thạch của chúng được tìm thấy đầu tiên thuộc kỷ Pecmi,
nó có những đặc điểm khác biệt với Cánh úp hiện đại về số đốt bàn và cánh ở
phàn ngực (Hynes, 1976) [12].
Để nhận dạng bộ Cánh úp, người ta dựa vào một số đặc điểm: chúng có
3 đốt bàn nhưng chân sau không biến đổi để thích họp theo kiểu nhảy như một
1
2
số loài thuộc bộ Cánh thẳng (như dế và châu chấu). Chúng có angten dài dạng
chỉ, tơ đuôi khá dài đặc biệt là các ấu trùng ở nước. Hầu hết, cánh của các loài
thuộc bộ Cánh úp rất phát triển nhưng đôi khi lại ngắn. Các đặc điểm đó dùng
để phân biệt chúng với bộ Cánh màng. Ấu trùng bộ Cánh úp trải qua thời gian
dài sống ở nước [12].
Các ấu trùng Cánh úp giống con trưởng thành ở nhiều đặc điểm. Ấu
trùng luôn có tơ đuôi dài và không bao giờ có tơ đuôi ở giữa. Mang nếu có, chỉ
tìm thấy ở phần ngực và phần bụng được tạo thành giữa các tơ đuôi. Âu trùng
sống chủ yếu ở nước, có một vài loài sống trong đất ẩm (Harpers và Stewart,
1996) [12]. Nơi sống lý tưởng của chúng là những suối đá chảy thành dòng,
nhưng có một vài loài sống trong cát, các hồ ấm áp cũng là nơi cư trú của
chúng.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: đại diện của các họ được tìm thấy ở
những nơi cư trú khác nhau như Perlidae được tìm thấy ở dưới những tảng đá
lớn, Chloroperlidae lại được phát hiện ở nền đáy của suối có đá nhỏ, trong khi
đó Nemouridae và Pteronarcyidae lại được phát hiện ở nơi có nhiều lá rụng ở
nền đáy.
Khu hệ Cánh úp ở châu Á được nghiên cứu bởi những người châu Á và
châu Âu. Trong suốt những thập niên 30 của thế kỷ XX, Wu và Claassen

(1934, 1935, 1937, 1938) [12] đã mô tả khóa định loại Cánh úp ở miền Nam
Trung Quốc. Kawai (1961 - 1975) nghiên cứu một vài loài ở Ấn Độ,
Bangladesh đến phía Nam châu Á. Zwick và Sivec (1980) mô tả một số loài
Cánh úp ở Himalaya. Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, Zwick (1980, 1983,
1985, 1988) cũng đưa ra những nghiên cứu về khu hệ Cánh úp ở Đông Nam Á.
Uchida và cộng sự (1988, 1989) mô tả một vài loài thuộc Perlinae (Perlidae) ở
Malaysia, Thái Lan và mô tả 2 giống thuộc Peltoperlidae (Cryptoperla và
1
3
Yoraperla) ở Nhật Bản và Đài Loan. Stark (1979, 1987, 1983, 1991, 1999) đã
ghi nhận nhiều loài mới trong họ Peltoperlidae và Perlidae ở châu Á. Gần đây,
Du (1998, 1999, 2000) đã công bố những tài liệu liên quan đến Perlidae ở
miền Nam Trung Quốc [12].
Morse J. C., Yang Lianfang & Tian Lixin (1994); Merritt & Cummins
(1996) khi nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả
đã xây dựng khóa định loại tói giống ấu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc
định loại các loài thuộc bộ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này. Nghiên
cứu về bộ Cánh nửa (Hemiptera)
Các công trình nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở châu Á được bắt đầu khá
sớm bằng các nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury
(1972, 1973) [15]. Các họ trong bộ này cũng được nghiên cứu khá tỷ mỷ như:
Nepidae được nghiên cứu bỏi Keffer (1990), Naucoridae là họ rất đa dạng ở
vùng nhiệt đới châu Á đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như Nieser
& Chen (1991, 1992), Sites và cộng sự (1997) [16]. Merritt & Cummins
(1996), Morse & cộng sự (1994) đã xây dựng khóa định loại tới giống của các
họ thuộc bộ Cánh nửa ở khu vực Bắc Mỹ và Trung Quốc.
Bộ Cánh nửa bao gồm 3 phân bộ: Gerromorpha, Nepomorpha và
Leptopodomorpha. Phân bộ Gerromorpha gồm hầu hết những cơ thể côn trùng
sống trên bề mặt của nước. Trong phân bộ này, có hai họ lớn là
Velliidae (trên thế giới có khoảng 850 loài) và họ Gerridae (khoảng 700 loài)

(Chen và cộng sự, 2005). Theo Bendell (1988), Damgaard & Andersen (1996)
các loài trong họ Gerridae được xem như những sinh vật chỉ thị cho chất lượng
môi trường nước [22].
Ở Đông Nam Á, nghiên cứu khu hệ bộ Cánh nửa đã được tiến hành
khoảng 50 năm trước. Đặc biệt, trong giai đoạn gần đây các công trình của
1
4
Zettel & Chen ở Việt Nam (1996) và Thái Lan (1998) [22]. Các nghiên cứu tập
trang vào việc mô tả, xây dựng khóa định loại. Năm 2001, Cheng và cộng sự
nghiên cứu các loài thuộc họ Gerridae ở Singapore và bán đảo Malaysia. Chen
và đồng nghiệp (2005) nghiên cứu ở Malesia [22]. Vùng Malesia bao gồm:
bán đảo Malaysia, Indonesia, Philippines và NewGuinea Nghiên cứu về bộ
Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là một trong những bộ có số lượng loài phong phú. Cánh
lông là một trong những bộ có số lượng loài phong phú. Những nghiên cứu về
hệ thống phân loại bậc cao của bộ Cánh lông được thực hiện bởi Ross (1956,
1967) và sau đó tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện bởi Morse (1997).[13]
Bộ cánh lông có nhiều công trình nghiên cứu ở các nước Đông Nam
Á,bên cạnh đó cũng được sự quan tâm nghiên cứu ở các quốc gia khác như:
Ấn Độ, Srilanka được nghiên cứu bởi Martynov (1935, 1936), Trung Quốc
(Martynov, 1931; Wang, 1963), Nhật Bản (Iwata, 1927; Tanida, 1987) [13].
Trong giai đoạn hiện nay, hướng nghiên cứu đánh giá chất lượng nước dựa
trên đối tượng là các loài thuộc nhóm côn trùng này được nhiều nhà khoa học
quan tâm tìm hiểu. Do đó, các công trình liên quan đến giai đoạn ấu trùng xuất
hiện ngày càng đồ sộ như nghiên cứu của Wiggins (1996) [13]. Ở khu vực Bắc
Mỹ, Merritt R. w. & Cummins K. w. (1996), đã xây dựng khóa định loại tới
giống của bộ Cánh lông ở cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành.
Nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera)
Bộ Cánh cứng (Coleoptera) là bộ lớn nhất trong giới Động vật. Hiện
nay, số loài thuộc bộ côn trùng này vào khoảng 277.000 đến 350.000 loài và

khoảng 10.000 thuộc nhóm côn trùng nước [15]. Theo các kết quả nghiên cứu
nhóm sống dưới nước được xem là đa dạng nhất ở khu hệ suối vùng nhiệt đói.
Hiện nay, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng tập trung vào phân loại
1
5
học, sinh thái học, tiến hóa như: các nghiên cứu của Feng (1932, 1933),
Gschwendtner (1932), Fernando (1962, 1969), Nertrand (1973), Jach (1984).
Heinrich & Balke (1997), Gentuli (1995), Jach & Ji (1995, 1998, 2003) [16] đã
cung cấp khá đầy đủ những dẫn liệu về phân loại học của bộ Cánh cứng ở châu
Á.
Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã
định loại được 311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở úc có khoảng
510 loài và White (1984) đã phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ
thuộc bộ Cánh cứng [15].
Nghiên cứu về bộ Hai cánh (Diptera)
Bộ Hai cánh là một trong những bộ côn trùng có số lượng loài nhiều
nhất trong giới Động vật vói khoảng 120.000 loài sống ở nước được biết trên
thế giới. Đây là bộ có nhiều họ rất phổ biến và được nghiên cứu rất kỹ, do
chúng có quan hệ chặt chẽ với đời sống con người như họ Muỗi (Culicidae),
họ Ruồi đen (Simuliidae). Các nghiên cứu về bộ Hai cánh đã được rất nhiều
các nhà khoa học công bố, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Alexander
(1931), Mayer (1934), Zwich & Hortle (1989) [14]. Đối với khu vực châu Á,
Delfïnado & Hardy (1973, 1975, 1977) đã tổng hợp một danh lục khá đầy đủ
về thành phần loài của bộ Hai cánh ở miền Ấn Độ - Mã Lai. Khóa định loại tới
họ và giống hiện nay chủ yếu thực hiện theo khóa định loại được xây dựng bởi
Harris (1990) [15].
Nghiên cứu về bộ Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng được xem là nhóm côn trùng nguyên thủy trong nhóm
côn trùng biến thái hoàn toàn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài
được biết trên thế giới và chia thành hai họ là: Corydalidae và Sialidae. Giai

1
6
đoạn trưởng thành ở cạn và ăn thịt, thường hoạt động vào ban đêm. Tuy nhiên,
giai đoạn ấu trùng lại sống dưới nước và ăn thịt các loài động yật [15].
Số lượng loài thuộc họ Sialidae rất phong phú ở các thủy vực nước ngọt
như: sông, suối, hồ nơi có nhiều mùn, các mảnh vụn, cát hoặc sỏi nhỏ. Chúng
trải qua 5 lần lột xác và sống được khoảng 1 năm trong vòng đời của mình. Ấu
trùng rời khỏi các thủy vực nước ngọt và hóa nhộng. Các loài thuộc họ này lại
phân bố rất hẹp. Ở châu Á, họ này mới chỉ phân bố ở vùng ôn đới thuộc Hàn
Quốc, Nhật Bản và một số nơi ở Trung Quốc (Bank, 1940) [15]. Nghiên cứu
về bộ Cánh vảy (Lepỉdoptera)
Trong bộ Cánh vảy chỉ có một số loài thuộc họ Pyralidae, Pyraustidae
và Crambidae sống ở nước. Ở châu Á, các nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu
là về phân loại học trong đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987),
Habeck & Solis (1994) và Munroe (1995) [14]. Trong các nghiên cứu này, các
tác giả cũng đã thành lập khóa định loại cụ thể tói loài.
1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam đã được một số tác giả
đề cập đến, những nghiên cứu tập trung vào lĩnh vực phân loại học đối với các
bộ phổ biến của côn trùng nước cũng như những nghiên cứu sử dụng côn trùng
nước làm sinh vật chỉ thị. Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu chính về côn
trùng nước ở Việt Nam cho đến giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu về bộ Phù du (Ephemeroptera)
Tác giả đàu tiên mô tả các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam là Lestage
(1921, 1924). Ông đã công bố 3 loài mới của bộ Phù du dựa vào mẫu yật được
lưu giữ ở bảo tàng Pari (mẫu thu được ở miền Bắc Việt Nam). Ngay sau đó,
Navás (1922) [19] mô tả 2 loài thuộc giống Ephemera.
1
7
Đặng Ngọc Thanh (1967), mô tả một loài mới thuộc họ Heptageniidae

khi nghiên cứu về khu hệ Động vật Không xương sống ở miền Bắc Việt Nam.
Đặng Ngọc Thanh (1980) xác định khu hệ Phù du ở Việt Nam có 54 loài, 29
giống thuộc 13 họ khác nhau. Đặc biệt trong nghiên cứu này ông đã mô tả hai
loài mới cho khoa học đó là Thalerosphyrus vietnamensis Dang và
Neoephemeropsis cuaraoensis Dang [19].
Tshemova (1972), mô tả giống Vieừiamella dựa vào loài chuẩn
Vieừiamella thani. Sau này, giống Vieừiamelỉa tiếp tục được tìm hiểu và bổ
sung bởi Alien (1980), McCafferty & Wang (1997, 2000). Một vài loài thuộc
họ Potamanthidae, Neoephemeridae và Ephemerellidae được nghiên cứu bởi
Bae và McCafferty (1991, 1998); Aleen (1971) [19].
Braacsh & Soldan (1979, 1984, 1986, 1988) đã mô tả 10 loài mói thuộc
họ Heptagenidae thu được từ một số suối ở Việt Nam.
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khoá định loại
các nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã
xây dựng khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du. Ket quả của công trình này là
cơ sở khoa học cho các nghiên cứu phân loại về Phù du cững như việc sử dụng
đối tượng này là sinh yật chỉ thị cho các thuỷ vực nước ngọt ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Vịnh & Yeon Jae Bae (2003, 2004, 2005, 2006, 2008) đã
tiến hành nghiên cứu khu hệ phù du ở một số Vườn quốc gia của Việt Nam
đồng thời công bố một số loài mói cho khu hệ Phù du ở Việt Nam và cho khoa
học. Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xây dựng khóa định loại và mô tả đặc điểm
hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam. Nghiên cứu này là
cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù du ở nước ta.
Nghiên cứu về bộ Chuồn chuồn (Odonata)
1
8
Nghiên cứu về khu hệ thiếu trùng Chuồn chuồn ở Việt Nam còn tản
mạn và chưa thành hệ thống. Chủ yếu các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn
trưởng thành. Bộ Chuồn chuồn ở Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên vào
những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX dưới thòi Pháp thuộc bỏi một số

nhà nghiên cứu người Pháp: Martin trong báo cáo được công bố năm 1902 khi
điều tra khu hệ động yật Đông Dương. Trong báo cáo này, ông công bố 139
loài thuộc 3 họ: Libellulidae, Aeshnidae và Agrionidae. Trong 139 loài, Martin
đã mô tả 9 loài mới và một giống mới là Merogomphus [1].
Asahina - thuộc bảo tàng Tự nhiên Tokyo (Nhật Bản) là một trong
những người tiên phong nghiên cứu khu hệ Chuồn chuồn ở Việt Nam. Cho tới
thời điểm hiện tại, ông là người công bố nhiều công trình về khu hệ Chuồn
chuồn ở nước ta. Hầu hết các mẫu vật Chuồn chuồn ở Việt Nam mà Asahina
định loại đều có được từ các cộng sự và đồng nghiệp thu thập, những người đã
trực tiếp đến Việt Nam để khảo sát và điều tra. Asahina (1996) đã công bố 84
loài thuộc 12 họ Chuồn chuồn ở miền Nam Việt Nam. Trong tài liệu này, tác
giả đã công bố một loài mới: Chlogomphus vietnamensis Asahina, thuộc họ
Cordulegasteridae.
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khóa định loại
các nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã
xây dựng khóa định loại tói họ của bộ Chuồn chuồn.
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), trong nghiên cứu khu hệ côn
trùng nước ở Vườn quốc gia Tam Đảo đã xác định được 26 loài thuộc 12 họ
của bộ Chuồn chuồn ở khu vực này. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về phân
loại thiếu trùng chuồn chuồn ở Việt Nam còn ít. Do đó, những mẫu yật thu
được mới chỉ phân loại đến bậc giống.
Nghiên cứu về bộ Cánh úp (Plecoptera)
1
9
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về bộ Cánh úp đã được quan tâm nghiên
cứu ừong thơi gian gần đây. Một vài loài đã được mô tả bỏi Kawai (1968,
1969), Zwick (1988), Stark và cộng sự (1999)[12], nhưng tất cả các mẫu vật
đều ở giai đoạn trưởng thành. Mục đích của những nghiên cứu là nhằm xác
định lại và mô tả một số loài mới thuộc bộ Cánh úp dựa trên những nghiên cứu
trước đó và những điều tra về sau của cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng

được thu thập ở Việt Nam. Thêm vào đó là việc xác định khóa định loại tới
loài của bộ Cánh úp ở cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng ở Việt Nam cũng
như sinh thái, nơi ở của chúng. Cao Thị Kim Thu (2002), đã xây dựng khóa
định loại tói loài Cánh úp ở Việt Nam. Công trình là cơ sở khoa học cho các
nghiên cứu về bộ Cánh úp ở nước ta.
Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), khi định loại
các nhóm động yật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam cũng
đã xây dựng khóa định loại tới họ của bộ Cánh úp. Đồng thời, ông cũng đánh
giá chất lượng nước dựa vào họ Perlidae thuộc bộ này.
Nghiên cứu về bộ Cánh lông (Trichoptera)
Ở Việt Nam, bộ Cánh lông được nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu
về Cánh lông đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nước châu
Âu như: Đức (Ulmer, 1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Sau những nghiên
cứu đầu tiên của Ulmer về 2 loài Hydromanicus buennỉngi và
Paraphlegopteryx tonkinensis, ông đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về
Cánh lông ở Việt Nam. Tiếp theo, Navás (1913, 1917, 1921, 1922, 1930, 1932,
1933) [13] đã IĨ1Ô tả một số loài thuộc các tổng họ của Hydropsychoidae,
Philopotamoidae (Stenopsychidae), Leptoceroidae, Limnephiloidae và
Rhyacophiloidae. Banks (1931) và Mosely (1934) [13] nghiên cứu về
Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae. Oláh (1987 - 1989)
2
0
mô tả các loài thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacophiloidae
[13].
May (1995-1998) và Malicky (1994, 1995, 1998), ĨĨ1Ô tả các loài thuộc
các họ Hydropsychoidae, Glossosomatoidae, Rhyacopphiloidae,
Phiolopotamoidae, Limnephiloidae, Hydroptiloidae, Sericostomatoidae và
Leptoceroidae từ các mẫu vật thu được ở một số vùng của Việt Nam. Malicky
và Mey (2001), mô tả 2 loài mới thuộc giống Ceratopsyche ở miền Bắc Việt
Nam. Schefter và Johanson (2001), mô tả 3 loài thuộc giống Helỉcopsyche.

Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001) định loại được 23 loài thuộc 16 họ của
bộ Cánh lông ở Vườn Quốc gia Tam Đảo khi nghiên cứu về nhóm côn trùng
nước tại khu yực này.
Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), đã xây dựng
khóa định loại tới họ của bộ Cánh lông thường gặp ở nước ta. Hoàng Đức Huy
(2005) mô tả đặc điểm hình dạng, cấu tạo ngoài của các loài Cánh lông ở Việt
Nam dựa vào giai đoạn ấu trùng.
Nghiên cứu về các bộ Cánh cứng, bộ Hai cánh, bộ Cánh nửa, bộ Cánh vảy
và bộ Cánh rộng
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera),
Hai cánh (Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng
(Megaloptera) còn tản mạn. Các nghiên cứu thường không tập trung vào một
bộ cụ thể mà thường đi cùng với các công trình nghiên cứu về khu hệ côn
trùng nước nói chung như: Nguyễn Văn Vịnh (2001) nghiên cứu ở Vườn Quốc
gia Tam Đảo; Cao Thị Kim Thu, Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008)
nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Bạch Mã, Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự
(2001) khi định loại các nhóm động yật không xương sống nước ngọt thường
gặp ở Việt Nam.
2
1
Những nghiên cứu đầu tiên về khu hệ Cánh nửa ở Việt Nam được bắt
đầu vào những năm đầu của thế kỷ XX. Loài đầu tiên thuộc họ Gerridae
(Hemiptera) được mô tả ở Việt Nam là Ptilomera hylactor Breddin, 1903
thuộc Bắc Việt Nam. Tiếp theo, khu hệ Genidae ở Việt Nam tiếp tục được mô
tả bởi Andersen (1975, 1980, 1993); Andersen & Cheng (2004); Polhemus
(2001); Chen & Zettel (1999), Polhemus & Andersen (1994); Polhemus &
Karunaratne (1993) [22].
Trần Anh Đức (2008), mô tả khá đầy đủ và chi tiết hình dạng ngoài của
các loài thuộc họ Gerridae ở Việt Nam. Đây là cơ sở khoa học cho các nghiên
cứu về bộ Cánh nửa ở nước ta.

1.3. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội ở xã
Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
\ 3.1. Điều kiên tư nhiên
• •
1.3.1.1. Vị trí địa lí
Vị trí : Khu vực nghiên cứu chính thuộc địa bàn xã Ngọc Thanh, thị xã
Phúc Yên , tỉnh Vĩnh Phúc là xã miền núi duy nhất của thị xã Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc cách Hà Nội 50km về phía Tây Bắc nằm ở vị trí. Phía Bắc và Đông
Bắc của xã giáp huyện Phổ Yên( tinh Thái Nguyên); phía Nam giáp xã Cao
Minh, thị xã Phúc Yên; phía tây giáp huyện Bình Xuyên; phía Đông Nam giáp
huyện Sóc Sơn( TP Hà Nội).
Toạ độ địa lý: Từ 21° 20' - 21°25' vĩ độ Bắc. Từ 105° 25’ - 105°50' kinh
độ Đông.
Tổng diện tích tự nhiên toàn xã > 7500ha.
Hình 1: Bản đồ hành chính thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
(Nguồn: Uỷ ban nhân dân xã Ngọc Thanh, 2014)
1.3.1.2. Địa hình
2
2
Khu vực nghiên cứu thuộc vùng đồi núi thấp, độ cao so với mực nước
biển trung bình từ 25m - 300m, cao nhất là đỉnh Tam Tương 396m, ở các đỉnh
núi cao, sườn dốc 20 - 300m, còn lại là độ dốc dưới 200m. Địa hình nhìn
chung chịu sự chi phối của 4 dãy núi chạy dọc theo hướng Đông Bắc và Tây
Nam, bị chia cắt thành thung lũng hẹp.
1.3.1.3. Đặc điếm khí hậu.
Theo tài liệu thu thập của trạm khí tượng thuộc Trung tâm Khoa học sản
xuất lâm nghiệp Đông Bắc Bộ (đặt tại văn phòng Trung tâm) cách hiện trường
nghiên cứu dưới 200m thì khu vực nghiên cứu nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới mưa mùa (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau), chịu ảnh hưởng của hai loại gió chính là gió mùa Đông

- Bắc và gió Đông - Nam.
Nhiệt độ không khí trung bình năm là 23,60C, nhiệt độ tối cao trung
bình là 31,50(tháng 6). Lượng mưa trung bình quân năm 1456,6mm, phân bố
không đều trong năm.
Gió mùa Đông Bắc là gió chính hoạt động từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau, gió mùa Đông Nam thường thổi từ tháng 4 đến tháng 10 mang theo hơi
nước, ẩm. Thời gian này cũng chính là mùa mưa nóng ảnh hưởng thuận lợi
cho cây trồng sinh trưởng phát triển.
1.3.1.4. Đất đai.
Nền địa chất bao gồm các đá mẹ phiến thạch, phấn sa, sa thạch có
những tảng thạch anh xen kẽ nhau tạo thành 1 lớp phủ phong hóa không đều.
Chủ yếu là đất feralit vàng đỏ hoặc đỏ vàng phát triển trên đá mẹ phiến thạch
sét, sa thạch. Tầng đất từ mỏng đến trung bình, ít nơi có tầng dày trên lm.
Thành phần cơ giói tò thịt nhẹ đến sét, đất bị xói mòn mạnh, thường có kết
von từ 20 - 70%.
2
3
1.3.2. Tình hình kinh tế xã hội
Năm 2014, sản xuất nông, lâm, thuỷ sản diễn ra trong điều kiện thời tiết
diễn biến phức tạp, mưa nhiều. Đặc biệt là ảnh hưởng từ 2 cơn bão số 5 và số
6 kéo dài ảnh hưởng đến sản lượng lúa, hoa màu và nuôi trồng thuỷ sản.
Nguồn vốn hạn hẹp nên gặp khó khăn duy ừì sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Sản xuất thuỷ sản đạt kết quả khá do việc áp dụng giống và kỹ thuật
mới vào sản xuất thâm canh. Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 113 ha, chủ
yếu là nuôi thả cá; Sản lượng cá thu hoạch ước đạt 210,3 tấn doanh thu là 6,7
tỷ đồng.
Thu từ kinh doanh dịch vụ, lao động việc làm ước đạt 20 tỷ đồng tăng
14,3% so với cùng kì
Tổng thu nhập từ sản xuất nông, lâm, thuỷ sản, kinh doanh dịch vụ lao
động việc làm đạt 121,927,000,000 đồng, bình quân đầu người đạt 10,160,000

đồng/ người/ năm.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN cứu
2.1. Đổi tượng nghiên cứu
Mau vật được sử dụng trong nghiên cứu là các loài côn trùng nước tại
một sô thủy yực thuộc địa phận xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc.
2.2. Thòi gian nghiên cứu
- Thời gian: từ tháng 5 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015
- Thời gian thu mẫu ngoài thực địa từ ngày 12 đến ngày 15/09/2014.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
2
4
Chúng tôi tiến hành thu mẫu tại 12
điểm nghiên cứu thuộc các hệ thống suối
của xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc và các điểm thu mẫu được
đánh số thứ tự tò NT1 đến NT12. Sơ đồ thu
mẫu được thể hiện ở hình 2.1
V
^ ,'r.£tứT’3.4fíf V
./ __
NT8
NT7 —
Ti

ỄÍ!r
^

NT6
1'NT1
( NT2 -
Hình 2.1. Sơ đồ các điểm thu mẫu trong khu vực nghiên cứu Ghi chú: ^
điểm thu mẫu (Nguồn: Uỷ ban nhân dân xã Ngọc Thanh, 2014)
2
5
\ < NT8 \
^ " J Tả" Ễv!r. \
} * Ì y * \
NT5 ,
L
l
': NT3
1
o.
„■ , NT4
:

I."
Ê ầ : é .
/
/
/
/
u .
í

×