Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận Đánh giá hiểu biết, thái độ đối với trầm cảm ở một số quần thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.5 KB, 28 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp, tỷ lệ mắc cả đời là 15% trong dân
chúng và tỷ lệ này ở nữ có thể lên đến 25% . Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới
5% dân số mắc trầm cảm và đây là nguyên nhân gây suy giảm các chức năng nghề
nghiệp, xã hội thứ hai sau các bệnh lý về tim mạch. Ở khu vực châu Á Thái Bình Dương
có trên 2,1 tỷ người, chiếm 32% dân số thế giới, nhưng có trên 36,5 triệu người đang bị
trầm cảm (chiếm 54% số người trầm cảm trên thế giới) và hầu hết trong số họ không
nhận thức đầy đủ về bệnh trầm cảm đồng thời không nhận được sự điều trị phù hợp.
Theo WHO, chỉ có khoảng 5% bệnh nhân trầm cảm được điều trị thỏa đáng ở các cơ sở
tâm thần. Trầm cảm được biẻu hiện bằng rất nhiều triệu chứng cơ thể, sinh học, chính vì
vậy bệnh nhân trầm cảm thường đến với các cơ sở đa khoa, các chuyên khoa khác trước
khi đến với chuyên khoa tâm thần [1]
Bên cạnh đó có sự khác nhau về văn hóa, xã hội cũng như hệ thống chăm sóc sức
khỏe giữa các nước trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Kiến thức và thái độ về
trầm cảm cũng rất khác nhau giữa các nước và các nền văn hóa Nghiên cứu thực hiện
tại nhiều nước đã cho thấy rằng người dân thực sự ít có kiến thức và có thái độ tiêu cực
đối với trầm cảm cũng như với những phương pháp điều trị bệnh này .Sự thiếu kiến thức
và thái độ tiêu cực có thể gây trở ngại cho việc tiếp cận với y tế để được chẩn đoán sớm
và điều trị thích hợp. Nhưng cho đến nay chưa có những nghiên cứu so sánh giữa các
nước về hiểu biết và thái độ với trầm cảm, đặc biệt ở Việt Nam vẫn chưa có một nghiên
cứu nào về vấn đề này. Chính vì vậy, dưới sự hợp tác và tài trợ của trường đại học
Sydney, Dự án “Làm giảm gánh nặng kinh tế và xã hội của trầm cảm ơ châu Á Thái
Bình Dương” đã được triển khai bằng việc thực hiện đề tài nghiên cứu “Đánh giá hiểu
biết, thái độ đối với trầm cảm ở một số quần thể” tại các nước trong khu vực. Tại Việt
Nam, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu sau:
Phân tích hiểu biết, thái độ đối với trầm cảm ở một số quần thể
Chương I TỔNG QUAN
I.2.6.2. LÍ THUYẾT VỀ TRẦM CẢM
2. Lịch sử về trầm cảm [1]
2.5.1. Từ thời Ai Cập cổ đại người ta đã biết đến trầm cảm. Đức vua Saul đã
được mô tả là có các biểu hiện của trầm cảm trong sách kinh Cựu Ước. Trong thời kỳ


này, người ta cho rằng trầm cảm chính là do sự trừng phạt của Chúa trời, chính vì vậy
những linh mục là những nhà trị liệu cho rối loạn này.
2.5.2. Thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên, Hippocrates đã đưa ra thuật ngữ “trầm
cảm sầu uất” (melancholia) và tác giả đã nhấn mạnh đến vai trò của các rối loạn cân
bằng thể dịch trong bệnh sinh của trầm cảm.
2.5.3. Vào thời kỳ La Mã cổ, vào năm 120 -180 sau Công Nguyên, Aretaeus đưa
ra khái niệm về trầm cảm nội sinh và trầm cảm ngoại sinh.
2.5.4. Vào thế kỷ II sau Công nguyên, Galen một thầy thuốc người Hy Lạp tiếp
tục truyền thống về thể dịch của Hippocrates đã đề cập đến bệnh sinh của trầm cảm là
do thừa mật đen.
2.5.5. Cuối thế kỷ 19, Kraeplin mô tả đầy đủ các triệu chứng lâm sàng của một
giai đoạn trầm cảm trong bệnh loạn thần hưng trầm cảm.
2.5.6. Đầu thế kỷ XX, Sigmund Freud nhấn mạnh đến vai trò của các xung đột
nội tâm và yếu tố môi trường trong trầm cảm.
2.5.7. Năm 1961, Auron Beck và cộng sự đã cho rằng vấn đề nhận thức có vai
trò quan trọng trong trầm cảm, tác giả cho rằng trầm cảm phát sinh là do con người
thường giải thích và nhìn nhận sai lệch về những tác nhân của môi trường tác động vào
cơ thể, chính vì vậy tác giả đã dùng liệu pháp nhận thức để điều trị trầm cảm.
2.5.8. Theo bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 ( ICD 10: International
Classification of Diseases), năm 1992, trầm cảm được xếp ở các mục: [8]
+ F06.32: Trầm cảm thực tổn.
+ F31.2, F31.3, F31.4: Giai đoạn trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng
cực.
+ F32: Giai đoạn trầm cảm + F33: Trầm cảm tái diễn + F41.2: Rối loạn hỗn hợp
lo âu - trầm cảm + F43.20 và F43.21: Trầm cảm trong rối loạn sự thích ứng +
F20.4: Trầm cảm sau phân liệt
3. Dịch tễ học của trầm cảm [1]
Theo Kaplan và Sadock, trầm cảm là một rối loạn thường gặp, tỷ lệ cả đời là
15%, tỷ lệ mới mắc của trầm cảm là 10% trong số các bệnh nhân đến khám ở các trung
tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu và 15% trong số các bệnh nhân nội trú. Theo P.T.

Loosen và CS, tỷ lệ cả đời của trầm cảm là 13 - 20 % và tỷ lệ hiện mắc của rối loạn này
là 3,7 - 6,7%. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia năm 1999
cho thấy tỷ lệ hiện mắc của trầm cảm là 8,35%. Tuổi khởi phát của trầm cảm khoảng 40
tuổi, có khoảng 50% bệnh nhân trầm cảm có khởi phát ở độ tuổi từ 20 - 50 tuổi. Tuy
nhiên, trầm cảm cũng có thể khởi phát ở trẻ em, trẻ vị thành niên và người cao tuổi.
Những nghiên cứu về dịch tễ học gần đây cho thấy tỷ lệ trầm cảm khởi phát ở độ tuổi
dưới 20 ngày càng tăng.
Trầm cảm thường gặp ở nữ nhiều hơn so với nam, tỷ lệ nam: nữ là 1:2. Nhiều
nghiên cứu cho thấy không có sự liên quan giữa tình trạng kinh tế xã hội và trầm cảm.
2.5.9. Hiểu biết và thái độ của người dân đối với trầm cảm.
o Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng 70 - 80% số bệnh nhân trầm cảm (nhất là trầm
cảm với nhiều triệu chứng cơ thể) thường là đến với các bác sỹ tim mạch, tiêu
hóa trước khi đến được với chuyên khoa tâm thần o Bên cạnh đó còn có
nhiều người không nhận thức đây là bệnh cần phải được điều trị phù hợp, thay
vào đó họ thường sử dụng các biện pháp điều trị bằng tâm linh hay y học cổ
truyền
o Ngược lại, cũng có không ít những người dân lại nghĩ rằng trầm cảm là bệnh
không thể điều trị được, hoặc thuốc điều trị trầm cảm là những thuốc rất có hại
do đó không nên sử dụng những thuốc này
4. Bệnh nguyên, bệnh sinh của trầm cảm [1]
3.2 Nguyên nhân do tổn thương não:
Bằng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh MRI và PET người ta đã nhận thấy
mối liên quan giữa tổn thương não và trầm cảm.
2.5.10. Chụp cắt lớp phát xạ điện tử dương (PET):
+ Thay đổi lưu lượng máu và chuyển hóa glucose vùng hải mã, vỏ não và hạnh
nhân xuất hiện sớm, tăng rõ rệt trong các giai đoạn sau của trầm cảm.
+ Tác giả Mayberg H.S., Robinson R.G (1998), khoa chẩn đoán hình ảnh, trường
đại học Johns Hopkins đã sử dụng kỹ thuật PET và xác định được mối liên quan rõ rệt
giữa sự giảm sút các thụ thể S2 serotonine vỏ não ở những bệnh nhân đột quỵ và sự xuất
hiện trầm cảm sau đột quỵ.

2.5.11. Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI):
4.1. Hồi hải mã và vỏ não trước trán: giảm thể tích và càng teo nặng hơn khi
trầm cảm kéo dài.
4.2. Hạnh nhân: giai đoạn trầm cảm sớm thì tuyến hạnh nhân phì đại, sau teo
nhỏ trong giai đoạn tiến triển mãn tính.
2.5.12. Các nghiên cứu giải phẫu bệnh: ở bệnh nhân trầm cảm thấy
+ Teo đét và giảm mật độ tế bảo thần kinh và thần kinh đệm.
+ Giảm phân nhánh các đuôi gai và giảm tạo synapse mới + Mất sự tạo
muối & tăng trưởng tế bào thần kinh ở hồi hải mã.
2.5.13. Cơ chế NeuroPlasticity của trầm cảm:
Các kết quả thu được trên lâm sàng cũng như trên thực nghiệm đã chỉ ra trầm
cảm liên quan đến sự thay đổi đặc tính cấu tạo thần kình (Neuroplasticity). Các nghiên
cứu bệnh học thần kinh đã cho thấy sự biến đổi cấu trúc và chưc năng không chỉ xảy ra
ở hồ hải mã mà còn xảy ra ở những tổ chức não kiểm soát khí sắc và cảm xúc như vỏ
não và hạch nhân.
Những mô hình thực nghiệm cũng đã phát hiện ra những biến đổi đặc tính
neuroplasticity. Giống như ở bệnh nhân trầm cảm, việc giảm kích thước hồi hải mã ở
chuột trưởng thành đã được phát hiện khi động vật thực nghiệm phải chịu một tác động
stress kéo dài gây trầm cảm. Gần đây, một loạt các
nghiên cứu khác trên động vật thực nghiệm cũng cho thấy những biểu hiện cảm xúc
mạnh mẽ liên quan đến biến đổi chức năng ở hạch nhân não.
Vậy cơ chế sinh lý bệnh học của trầm cảm dẫn đến một tiếp cận thực tổn: biến
đổi chuyển hóa, teo đét và/hoặc chết tế bào của những cấu trúc não kiểm soát khí sắc và
cảm xúc, đặc biệt là hồi hải mã, hạch nhân, thùy não trước trán. Kết quả là làm giảm tính
tạo hình thần kinh (Neuroplasticity), là điều then chốt trong bệnh sinh trầm cảm.
3.3 Các yếu tố tâm lý xã hội
I. Do tác động của Stress: Có một giả thuyết giải thích cho hiện tượng này,
đó là những sự kiện sang chấn xuất hiện thường gây nên những biến đổi kéo dài yếu tố
sinh học ở não. Những biến đổi kéo dài này có thể tạo ra những thay đổi hoạt tính nhiều
chất dẫn truyền thần kinh và hệ thống tín hiệu bên trong tế bào thần kinh như mất tế bào

thần kinh và giảm đáng kể sự tiếp xúc của synapse. Thật vậy, bằng thực nghiệm dùng
stress kéo dài gây trầm cảm trên chuột người ta thấy những thay đổi bất thường về giải
phẫu trong não giống ở bệnh nhân trầm cảm (giảm thể tích hồi hải mã - phì đại đuôi gai
ở Amydal).
II. Do nhận thức sai:
Aaron Beck đã phát triển học thuyết nhận thức hành vi (cognitive behavioural
theory) về trầm cảm. Ông cho rằng trầm cảm được hình thành là do bệnh nhân diễn giải
sai lệch những sự kiện trong cuộc sống. Điểm cốt lõi của học thuyết này bao gồm bộ ba
nhận thức trong trầm cảm, đó là:
2.5.14. Cái nhìn tiêu cực về bản thân: ví dụ mọi việc đều tệ hại vì tôi là người tàn
tật, người mất khả năng làm việc.
2.5.15. Diễn giải những sự kiện trải nghiệm một cách tiêu cực: ví dụ mọi thứ đều
luôn luôn tệ hại.
2.5.16. Nhìn về tương lai ảm đạm: mọi việc đều sẽ tệ hại.
2.5.17. Nguyên lý cơ bản của học thuyết nhận thức hành vi là bệnh nhân diễn giải
thế giới theo chiều hướng tiêu cực. bệnh nhân chỉ tập trung vào những yếu tố tiêu
cực trong những thông tin tích cực.
2.5.18. Phóng đại hóa và đánh giá thấp các sự kiện: bệnh nhân quá nhấn mạnh đến
yếu tố tiêu cực, không chú ý đến những điểm tích cực của sự việc.
I.2.6.3. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIEM LÂM SÀNG CỦA TRẦM CẢM [1],[2]
Theo kinh điển, trầm cảm điển hình là một quá trình ức chế toàn bộ các hoạt động
tâm thần thể hiện qua cảm xúc, tư duy và hành vi biểu hiện bằng các triệu chứng sau:
2.5.19. Cảm xúc bị ức chế: khí sắc trầm, buồn rầu, ủ rũ, mất thích thú cũ,
nhìn xung quanh thấy ảm đạm, bi quan về tương lai.
2.5.20. Tư duy bị ức chế: suy nghĩ chậm chạp, liên tưởng khó khăn, tự cho
mình là hèn kém, mất tin tưởng vào bản thân. Trong trường hợp nặng có hoang tưởng bị
tội hay tự buộc tội, ảo thanh nghe tiếng nói tố cáo tội lỗi của mình hay báo trước về
những hình phạt sẽ xảy đến với mình làm cho bệnh nhân xuất hiện ý tưởng hoặc hành
vi tự sát.
2.5.21. Hoạt động bị ức chế: bệnh nhân ít hoạt động, ít nói, thường hay ngồi

hoặc nằm lâu ở một tư thế, trường hợp nặng có thể có bất động.
Bệnh cảnh lâm sàng của trầm cảm biểu hiện như sau:
2.5.22. Khí sắc trầm: khí sắc trầm là triệu chứng đặc trưng nhất trong trầm
cảm, xảy ra ở 90% bệnh nhân. Bệnh nhân thường có cảm giác buồn chán, trống trải
(empty), vô vọng, ảm đạm. Một số bệnh nhân thường hay khóc mà không có sự tác động
đáng kể nào từ bên ngoài, trong khi đó một số khác lại mô tả cảm giác không thể khóc
được.
2.5.23. Mất quan tâm thích thú (Anhedonia): là triệu chứng hầu như luôn
luôn xuất hiện, bệnh nhân thường phàn nàn về cảm giác ít thích thú, ít vui vẻ trong các
hoạt động mà bệnh nhân đã từng yêu thích trước đó.
2.5.24. Giảm hoặc
mất sinh
lực, năng lượng:
bệnh nhân
biểu hiện
bằng triệu
chứng mau mệt mỏi ngay cả sau một cố gắng nhỏ, các công việc quen thuộc hàng ngày
cũng trở nên khó khăn đối với bệnh nhân. Bệnh nhân cảm thấy cơ thể suy kiệt, không có
sức sống.
2.5.25. Thay đổi những hoạt động cơ thể (change in body activity): bệnh
nhân
thường vận động chậm chạp, suy nghĩ khó khăn, nói nhỏ, nhịp chậm, kéo dài thời gian
giữa các lời nói. Ngược lại, có một số bệnh nhân lại biểu hiện bằng một trạng thái kích
thích với đứng ngồi không yên, xoắn vặn tay, gõ tay liên tục xuống bàn Trong những
trườnghợp nặng bệnh nhân có thể xuất hiện trạng
thái sững sờ, bất động.
2.5.26. Những ý nghĩ tự ti, tự buộc tội: bệnh nhân trầm cảm thường tự ti,
giảm tự trọng và tự tin, bi quan với cuộc sống, họ cho rằng mình là người thất bại, tự
buộc tội mình vì những lỗi lầm nhỏ của bản thân hay thất bại của người khác và của bản
thân. Hậu quả của những ý nghĩ bi quan này là ý tưởng và hành vi tự sát vì bệnh nhân

cho rằng chỉ có cái chết mới là cách giải thoát duy nhất.
2.5.27. Giảm tập trung chú ý: Nhiều bệnh nhân than phiền rằng họ không
thể suy nghĩ tốt như trước, mau quên, kém tập trung chú ý, dễ bị đãng trí. Bệnh nhân
thường cảm thấy khó khăn khi phải quyết định một vấn đề gì ngay cả những việc nhỏ,
khả năng phán đoán, phân tích, giải quyết tình huống giảm.
2.5.28. Thay đổi khẩu vị: khoảng 70% bệnh nhân trầm cảm than phiền về
cảm giác không ngon miệng dẫn đến chán ăn và sụt cân. Tuy nhiên cũng có một số ít
trường hợp, bệnh nhân lại ăn nhiều dẫn đến tăng cân.
2.5.29. Rối loạn giấc ngủ: khoảng 80% bệnh nhân trầm cảm có rối loạn giấc
ngủ, thường gặp nhất là mất ngủ. Có nhiều loại mất ngủ như mất ngủ đầu giấc, giữa giấc
hoặc cuối giấc nhưng mất ngủ cuối giấc thường hay gặp nhất. Bệnh nhân thường thức
dậy sớm hơn thường lệ khoảng 1- 2 giờ.
Ngoài ra bệnh nhân còn có thể có các triệu chứng khác như giảm hoặc mất khả
năng tình dục, táo bón hoặc nhiều triệu chứng của rối loạn thần kinh thực vật. Lo âu
cũng là một biểu hiện thường đi kèm trong trầm cảm.
Bên cạnh bệnh cảnh lâm sàng điển hình như trên, một số trường hợp có thể biểu
hiện bằng các triệu chứng không điển hình như bệnh nhân không biểu hiện khí sắc trầm
mà thường than phiền về các triệu chứng cơ thể, dễ bị kích thích, hay cáu gắt, giảm giao
tiếp, ăn nhiều, ngủ nhiều
Theo Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD 10) của Tổ chức Y tế Thế
giới, trầm cảm là trạng thái rối loạn cảm xúc biểu hiện bằng 3 triệu chứng đặc trưng và 7
triệu chứng phổ biến. Các triệu chứng này phải kéo dài trong thời gian ít nhất 2 tuần.
III. Các triệu chứng đặc trưng bao gồm: khí sắc trầm, mất mọi quan tâm và
thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động.
IV. Những triệu chứng phổ biến bao gồm:
2.5.30. Giảm sút sự tập trung, chú ý.
2.5.31. Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin.
2.5.32. Xuất hiện những ý tưởng bị tội và không xứng đáng.
2.5.33. Nhìn vào tương lai ảm đạm, bi quan.
2.5.34. Ý tưởng và hành vi tự hủy hoại cơ thể hoặc tự sát.

2.5.35. Rối loạn giấc ngủ: bệnh nhân thường mất ngủ vào cuối giấc.
2.5.36. Ăn ít ngon miệng.
Ngoài ra bệnh nhân còn có biểu hiện của mất hoặc giảm khả năng tình dục, các
triệu chứng của lo âu, rối loạn thần kinh thực vật. Trong những trường hợp trầm cảm
nặng bệnh nhân có thể xuất hiện hoang tưởng tự buộc tội, hoang tưởng về những tai họa
sắp xảy ra hoặc ảo thanh với những lời kết tội, phỉ báng, ảo khứu với mùi thịt thối rữa.
Theo Sổ tay Thống kê và Chẩn đoán các Rối loạn Tâm thần phiên bản thứ IV
(DSM IV) của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ, trầm cảm được xếp ở
mục 296.2 và 296.3, có tiêu chuẩn chẩn đoán như sau:
1. Có ít nhất 5 trong số các triệu chứng sau xuất hiện đồng thời trong thời
gian 2 tuần và làm thay đổi đáng kể những chức năng trước đó. Trong số các
Khí sắc trầm
Mất quan tâm thích thú
Sụt cân rõ rệt không phải trong thời gian ăn kiêng hoặc tăng cân hoặc thay đổi
khẩu vị
Mất ngủ hoặc ngủ nhiều
Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động
Mệt mỏi hoặc mất năng lượng
Cảm thấy không xứng đáng hoặc tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp
Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung chú ý hoặc khả năng quyết định
Những suy nghĩ về cái chết hoặc ý tưởng tự sát.
2. Các triệu chứng này không đáp ứng tiêu chuẩn của rối loạn hỗn hợp.
3. Những triệu chứng này gây suy giảm đáng kể các chức năng nghề nghiệp, xã
hội hoặc chức năng trong các lĩnh vực quan trọng khác.
4. Những triệu chứng này không phải do ảnh hưởng trực tiếp về mặt cơ thể của
nghiện chất hoặc bệnh lý thực tổn (ví dụ như nhược giáp)
5. Các triệu chứng này không phù hợp với bối cảnh tang tóc (các triệu chứng
trầm cảm, buồn phiền kéo dài ít hơn 2 tháng).
Chẩn đoán trầm cảm
Theo ICD10 [2]

Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10, trầm cảm được chẩn đoán theo 3 mức
độ: nhẹ, vừa và nặng tùy thuộc vào số lượng của các triệu chứng đặc trưng và phổ biến
(các triệu chứng này đã được liệt kê ở mục 1.1.4) và các triệu chứng này phải kéo dài
trong thời gian ít nhất 2 tuần.
; Trầm cảm mức độ nhẹ
Chẩn đoán mức độ này khi bệnh nhân có ít nhất 2 trong số các triệu chứng đặc
trưng và ít nhất 2 trong số các triệu chứng phổ biến và không có triệu chứng nào trong
số những triệu chứng này ở mức độ nặng. Các triệu chứng này làm bệnh nhân gặp khó
khăn trong các hoạt động xã hội, công việc thường ngày nhưng vẫn có thể tiếp tục
được. Trong trầm cảm mức độ nhẹ bệnh nhân có thể có hoặc không có những triệu
chứng cơ thể.
; Trầm cảm mức độ vừa
Khi bệnh nhân có ít nhất 2 trong số 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất 3 trong số
các triệu chứng phổ biến. Các triệu chứng này gây khó khăn đáng kể trong việc tiếp tục
các chức năng nghề nghiệp, xã hội hoặc các sinh hoạt trong gia đình. Bệnh nhân có thể
có hoặc không có các triệu chứng cơ thể.
; Trầm cảm mức độ nặng
Khi bệnh nhân có cả 3 triệuchứng đặc trưng và ítnhất4 trong
số các
triệu chứng phổ biến, vài triệu chứng trong số này phải ở mức độ nặng. Tuy nhiên, nếu
như bệnh nhân có kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động rõ rệt thì khó có thể mô
tả các triệu chứng khác một cách chi tiết. Do đó, trầm cảm nặng vẫn được chẩn đoán
trong trường hợp này. Nếu các triệu chứng trầm cảm xuất hiện nặng nề và khởi phát
nhanh thì thời gian dùng để chẩn đoán có thể < 2tuần. Trong giai đoạn trầm cảm nặng
bệnh nhân không thể tiếp tục sinh hoạt và làm việc được.
Trong trầm cảm mức độ nặng được phân thành hai loại là trầm cảm mức độ nặng
không có các triệu chứng loạn thần và trầm cảm mức độ nặng có các triệu chứngloạn
thần. Các triệu chứng loạn thầncó thểlà hoang tưởng liên
quan đến những ý nghĩ về sự nghèo đói, tội lỗi hoặc những thảm họa sắp xảy ra mà bệnh
nhân là người gây ra nó. Ảo giác có thể là ảo thanh với lời lẽ kết tội, phỉ báng bệnh nhân

hoặc ảo giác khứu giác với mùi thịt thối rữa.
Điều trị trầm cảm
Hóa liệu pháp
Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm có hiệu quả thông qua sự làm giảm các triệu
chứng trầm cảm và bệnh nhân trở lên nhanh nhẹn hơn. Có nhiều hướng dẫn
(Algorithms) về việc sử dụng các thuốc chống trầm cảm trong thực hành lâm sàng như
hướng dẫn của S.H. Preskorn và M. Burke, hướng dẫn của
J Stein và CS, hướng dẫn của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ
Theo kết quả của nhiều nghiên cứu, về thực chất thì thuốc chống trầm cảm 3 vòng
có hiệu quả hơn SSRIs nhưng lại nhiều tác dụng phụ. Thuốc Fluoxetine, citalopram và
Nortriptyline được nghiên cứu nhiều nhất và có hiệu quả điều trị tốt với trầm cảm và ít
có tác dụng phụ.
Ngoài ra, trong trường hợp trầm cảm có triệu chứng loạn thần chúng ta có thể
phối hợp thêm nhóm thuốc chống loạn thần cùng với các thuốc chống trầm cảm.
Các liệu pháp tâm lý
Có nhiều liệu pháp tâm lý được sử dụng trong điều trị rối loạn trầm cảm như liệu
pháp nhận thức hành vi, liệu pháp tương tác cá nhân, liệu pháp gia đình, liệu pháp phân
tâm Các liệu pháp này có thể được sử dụng đơn độc hay phối hợp với các thuốc chống
trầm cảm.
I.2.6.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu VỂ HIEU BIẾT, THÁI ĐỘ Đốl vớl TRẦM CẢM VÀ
ĐIỂU TRỊ TRẦM CẢM TRÊN THẾ' Glớl VÀ VIỆT NAM
Trên thế giới
Các tác giả Hickie I.B, Tracey A. Davenport và cộng sự (2004) đã nghiên cứu trên 103
sinh viên năm thứ 2 của trường y thuộc đại học Sydney,
159 sinh viên Trung Quốc về hiểu biết và thái độ của các nhóm sinh viên này đối với
trầm cảm và việc điều trị trầm cảm cho thấy hầu hết sinh viên hiểu được các triệu chứng
bệnh của trầm cảm và đa số học đều chi rằng bệnh nhân nên đến gặp bác sĩ đa khoa (bác
sĩ gia đình), một số ít vẫn còn tìm sự trợ giúp từ các phương pháp cổ truyền như thày
mo, thày cúng (sinh viên Trung quốc).
Việt nam

Cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Chọn đối trượng nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 493 người trên 18 tuổi được phỏng vấn theo bộ
câu hỏi “Điều tra quốc tế về sức khỏe” là sinh viên của trường Đại học Y Hà Nội, trường
Đại học khoa học xã hội và nhân văn, nhân viên ngành Tâm thần, người nhà bệnh nhân
tâm thần tại Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Tâm thần trung ương 1, Bệnh viện Tâm
thần Hà Nội.
Tiêu chuẩn loại trừ
; Không có mặt tại thời điểm nghiên cứu
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
Thiết kế nghiên cứu
; Nghiên cứu mô tả cắt ngang, đánh giá thái độ và hiểu biết về trầm cảm tại thời
điểm nghiên cứu
Cỡ mẫu
Đây là một nghiên cứu lâm sàng, do đó cho phép chọn mẫu chỉ tiêu và theo
phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
Các bước tiến hành
Các bước chuẩn bị
; Soạn công cụ dùng cho quá trình nghiên cứu: Bộ câu hỏi “Điều tra quốc tế về sức
khỏe” (có phụ lục kèm theo)
; Chuẩn bị cơ sở vật chất, địa điểm nghiên cứu, hoàn thiện các thủ tục hành chính
Các bước tiến hành nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn bằng bộ câu hỏi trên các đối tượng đã nêu ở trên.
Các nội dung trong bộ câu hỏi được điền đầy đủ theo mẫu.
Công cụ đánh giá
Bộ câu hỏi “Điều tra quốc tế về sức khỏe” có 44 câu hỏi và được chia
thành 7 phần:

2.5.37. Phần A: Nhân khẩu học bao gồm 14 câu hỏi: giới, tuổi, nơi sinh sống
2.5.38. Phần B: những vấn đề sức khỏe chính bao gồm 7 câu hỏi về nhứng hiểu
biết về nguyên nhân chính gây tử vong, loạn chức năng ở Việt Nam. Các bệnh tâm
thần gây tử vong. Các hiểu biết về biểu hiện của một người bị trầm cảm,
2.5.39. Phần C: Sự trợ giúp và điều trị bao gồm 11 câu hỏi về hiểu biết và suy nghĩ
sẽ tìm kiếm sự trợ giúp khi có trầm cảm
2.5.40. Phần D: bao gồm 2 câu hỏi về sự tìm kiếm thông tin về trầm cảm
2.5.41. Phần E: Bao gồm 3 câu hỏi về sự tìm kiếm sự trợ giúp khi có trầm cảm
2.5.42. Phần F: gồm 2 câu hỏi về thái độ của mọi người về trầm cảm
2.5.43. Phần G: bao gồm 5 câu hỏi về trạng thái sức khỏe tâm thần và tình trạng
công việc trong thời gian vừa qua
ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN cứu
Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại của trường Đại học Y Hà Nội, trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn, Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch
Mai, Bệnh viện Tâm thần trung ương 1, Bệnh viện Tâm thần Hà Nội
Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong thời gian từ tháng 4/2007-8/2008
4. CÁC BIÊN số VÀ CHỈ số NGHIÊN cứu
2.5.44. Nhóm nguyên nhân chính gây tử vong hoặc loạn hoạt năng: bao gồm các
nhóm bệnh như: ung thư, bệnh tim và đột quỵ, rối loạn tâm thần và hành vi, bệnh
phổi và lồng ngực, chấn thương do tai nạn, bệnh nhiễm trùng
2.5.45. Các bệnh được coi là nguyên nhân chính của tử vong hoặc loạn hoạt năng:
là các bệnh cụ thể: nhồi máu cơ tim, trầm cảm, đái đường, ung thư phổi, lạm dụng
rượu
2.5.46. Các bệnh tâm thần gây tử vong hoặc loạn hoạt năng: là các bệnh tâm thần
cụ thể như: trầm cảm, nghiện rượu, ma túy, tự sát, sa sút trí tuệ
2.5.47 Các
triệu chứng của trầm cảm: mất ngủ, mệt mỏi, ý tưởng hành vi tự sát
2.5.48. Thái độ tìm kiếm sự giúp đỡ khi có trầm cảm: bác sĩ đa khoa, nhà tâm

thần, nhà tâm lý, cán sự xã hội
TÍNH KHẢ THI VÀ ĐẠO ĐỨC NGHIÊN cứu CỦA ĐỂ TÀI
Tính khả thi
2.5.49. Đối tượng nghiên cứu đều là sinh viên các trường đại học, nhân viên y tế,
người nhà bệnh nhân đều là những người đang công tác, học tập, chăm sóc bệnh
nhân tại bệnh viện nên đảm bảo cho việc điều tra rất thuận tiện
2.5.50. Nguồn lực và vật lực của khoa như đã mô tả ở trên có thể đảm bảo cho vấn
đề nghiên cứu mang tính khoa học và khách quan.
2.5.51.Ban Giám đốc các bệnh viện, Ban Giám hiệu và Ban Chủ nhiệm bộ môn đồng ý
cho thực hiện đề tài nghiên cứu này tại các bệnh viện, trường và bộ môn,.
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
2.5.52.Đây là nghiên cứu điều tra về thái độ và hiểu biết về trầm cảm nên tất cả đối
tượng tham gia nghiên cứu đề tự nguyện và có thể chấm dứt hợp đồng nghiên cứ bất
kỳ lúc nào.
2.5.53. Tất cả các bộ câu hỏi sẽ được lưu trữ và được ban chủ nhiệm đề tài duyệt.
XỬ LÍ SỐ LIỆU
; Các số liệu sau khi được thu thập sẽ được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS
11.5. Để kiểm định sự giống và khác nhau giữa các tỉ lệ, chúng tôi sử dụng thuật
toán kiểm định tỉ lệ.
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NHÓM NGHIÊN cứu
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn 493 người, kết quả như sau: Bảng
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu (tỉ lệ %)
SV Y5
(n=130)
SVTL
(n=99)
NVYT
(n=95)
NN BN

(n=169)
p
Tuổi TB (SD) 23,2 (0,89) 22,6 (1,48) 38,5 (9,5)
37,2
(12.8)
<0,05
Độ tuổi 22-26 20-28 22-64 14-74 <0,05
% nữ 46,9 86,9 55,8 54,4 <0,05
Sống ở ngoại
ô
27 32,3 61,1 59,2 <0,05
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 130 sinh viên Y5, 99 sinh viên năm thứ 3
khoa Tâm lý ĐHKHXH&NV, 95 nhân viên y tế (bác sĩ, bác sĩ tâm thần, điều dưỡng
tâm thần), 169 người nhà bệnh nhân tâm thần. Tuổi trung bình của các nhóm lần lượt
là 23,3; 22,6; 38,5 và 37,2 tuổi. Về cơ cấu giới: nữ giới chiếm đa số ở nhóm sinh viên
tâm lý.
NHẬN THỨC VỀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH CỦA TỬ VONG HOẶC LOẠN HOẠT NĂNG
Bảng 2. Nhận thức về các nhóm bệnh (chuyên khoa) dược coi là nguyên nhân chính
của tử vong hoặc loạn hoạt năng
Nhóm nguyên nhân
SV Y5
(n=130
)
SVT
L
(n=99
NVYT
(n=95)
NN
BN

(n=1
p
Ung thư 76,2 69,7 72,6 76,3 <0,05
Bệnh tim và đột quị 50,8 45,5 69,5 55,6 <0,05
Rối loạn tâm thần và hành
vi
32,3 29,3 46,3 29 <0,05
Đái đường 15,1 23,2 17,9 28,4 <0,05
Bệnh phổi và lồng ngực 20,8 12,1 17,9 14,2 <0,05
Chấn thương do tai nạn 93,8 73,7 71,6 41,4 <0,05
Bệnh nhiễm trùng 63,1 54,5 46,3 63,3 <0,05
Bệnh cơ và khớp 0,8 4 3,2 5,3 <0,05
Chấn thương không do tai
nạn
10,8 16,2 11,6 11,8 <0,05
Bảng 2 cho thấy nhận thức về nguyên nhân gây tử vong do rối loạn tâm thần
được sinh viên Y5, sinh viên Tâm lý, người nhà bệnh nhân tâm thần xếp hàng thứ 5,
nhóm nhân viên y tế cho rằng xếp hàng thứ 5 trong số 9 nguyên nhân hàng đầu gây tử
vong và rối loạn khả năng hoạt động của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Sự
khác biệt giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3. Nhận thức về các bệnh (trong các chuyên khoa) được coi là nguyên nhân
chính của tử vong hoặc loạn hoạt năng ở Việt Nam
Nhận xét:
Nguyên nhân
SV
Y5
(n=1
SVTL
(n=99)
NVY

T
(n=95)
NN
BN
(n=1
p
Nhồi máu cơ tim hoặc các
bênh tim khác
58,5 54,5 50,5 42 <0,05
Trầm cảm 26,9 21,2 31,6 29,6 <0,05
Đột quị hoặc các bệnh não

khác
46,9 46,5 50,5 2 <0,05
Đái đường 26,2 27,3 22,1 22,5 <0,05
Ung thư phổi 50,8 50,5 64,2 64,5 <0,05
Tai nạn giao thông 93,1 80,8 89.5 56,2 <0,05
Lạm dụng rượu 47,7 41,4 37,9 27,2 <0,05
Bệnh Alzheimer hoặc sa sút
trí ruệ khác
5,4 13,1 5,3 4,7 <0,05
Hen 4,6 4 1,1 5,3 <0,05
Viêm xương khớp 1,5 2 3,3 5,9 <0,05
Nhiễm HIV hoặc AIDS 64,6 79,8 67,4 74 <0,05
Ung thư đại tràng hoặc trực

tràng
19,2 15,2 26,3 15,4 <0,05
Tự sát hoặc tự huỷ hoại 13,8 21,2 23,3 32,5 <0,05
bệnh phổi tắc nghẽn hoặc

viêm phế quản mạn
21,5 6,1 9,5 4,1 <0,05
Nhiễm khuẩn phổi hoặc ngực
khác
20 6,1 7,4 3 <0,05
Nhận xét:
Các rối loạn tâm thần bao gồm 4 trong số 15 bệnh gây tử vong hoặc loạn chức
năng hoạt động hàng ngày bao gồm: Trầm cảm (21,2-31,6%), sa sút trí tuệ (5,3-
13,1%), lạm dụng rượu (27,2-47,7%), tự sát (21,2-32,5%).
Trầm cảm được nhận biết nhiều hơn bởi nhân viên y tế và người nhà bệnh nhân hơn ở
sinh viên. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05
Lạm dụng rượu được nhận biết thấp nhất ở nhóm người nhà bệnh nhân, rõ hơn
ở nhóm sinh viên y, sinh viên tâm lý và nhân viên y tế. Sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,05
Bệnh Alzheimer được nhận biết tương tự nhau ở nhóm sinh viên Y5, nhân viên
y tế, người nhà bệnh nhân.
Tự sát được nhận biết rất rõ ở người nhà bệnh nhân, ít nhất là ở nhóm sinh viên
y5 đa khoa. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05
Rối loạn tâm thần
SV
Y5
(n=1
SVTL
(n=99)
NVYT
(n=95)
NN
BN
(n=16
p

Bệnh trầm cảm 50,8 25,3 63,2 37,3 <0,05
Lạm dụng hoặc nghiện

ma tuý
53,8 62,6 75,8 55 <0,05
Lạm dụng hoặc nghiện

rượu
51,5 45,5 47,4 30,2 <0,05
Sa sút trí tuệ, bệnh
Alzheimer hoặc tổn
thương não khác
12,3 16,2 22,1 11,2 <0,05
Tâm thần phân liệt hoặc
loạn thần khác
56,9 35,5 53,7 42,6 <0,05
Lo âu, rối loạn tâm căn

hoặc rối loạn hoảng sợ
29,2 36,4 12,6 23,7 <0,05
Các rối loạn ăn uống 1,5 14,1 2,1 19,5 <0,05
Bệnh hưng trầm cảm (rối
loạn lưỡng cực)
11,5 10,1 6,3 8,9 <0,05
Khi phỏng vấn về các nguyên nhân gây chết do bệnh tâm thần, tất cả các nhóm
đều cho rằng nguyên nhân gây chết chủ yếu là lạm dụng hoặc nghiện ma tuý (53,8-
75,8%), lạm dụng hoặc nghiện rượu (30,2-51,5%) đứng hàng đầu trong số các nguyên
nhân tâm thần gây tử vong. Tiếp đến là bệnh tâm thần phân liệt hoặc loạn thần khác
Bảng 4. Nhận thức về những bệnh lý tâm thần đặc biệt được coi là nguyên
o • o • «/ • • • o «/

nhân gây tử vong hoặc loạn hoạt năng
Nhận xét:
(35,5-56,9%), sau đó là các nguyên nhân do lo âu, rối loạn tâm căn hoặc rối loạn
hoảng sợ (12,6-29,2%), Sa sút trí tuệ, bệnh Alzheimer hoặc tổn thương não khác (11,2-
22,1%), thấp nhất là các rối loạn ăn uống và rối loạn cảm xúc lưỡng cực.
HIỂU BIẾT VÀ THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI TRẦM CẢM VÀ ĐIỂU TRỊ TRẦM CẢM
Bảng 5. Những hiểu biết về biểu hiện điển hình của một người bị trầm cảm
Biểu hiện
SV
Y5
(n=13
SVTL
(n=99)
NVYT
(n=95)
NN
BN
(n=16
p
Trở nên buồn hoặc cảm
giác đau khổ (giảm khí
sắc )
83,8 79,8 87,4 67,5 <0,05
Rối loạn giấc ngủ 61,5 57,6 51,6 36,7 <0,05
Trở lên bất hạnh hoặc buồn
chán
33,1 27,3 18,9 21,3 <0,05
Luôn cảm thấy mệt mỏi 32,3 39,4 48,4 28,4 <0,05
Nghĩ "Cuộc sống không có
giá trị"

30,8 43,4 29,5 16,6 <0,05
Nghĩ răng "Tôi vô dụng" 16,9 26,3 15,8 8,9 <0,05
Nghĩ rằng :"Tôi đã thất

bại", bi quan
9,2 7,1 9,5 16,6 <0,05
Mất tự tin 66,2 3,3 45,3 40,2 <0,05
Cảm thấy thất vọng 26,2 7,1 10,5 24,9 <0,05
Cảm thấy bất toại 9,2 7,1 21,1 10,5 <0,05
Bảng 5 cho thấy, các nhóm đều cho rằng bệnh nhân trầm cảm trở nên
buồn, trầm hoặc khổ sở chiếm một tỉ lệ cao nhất (67,5-87,4%), rối loạn giấc ngủ 36,7-
61,5%), luôn cảm thấy mệt mỏi (28,4-48,4%); tuy nhiên có một sự khác biệt rất lớn về
triệu chứng mất tự tin ở các nhóm: nhóm sinh viên y5, nhân viên y tế, người nhà bệnh
nhân đều cho tỉ lệ khá cao (40,2-66,2%) trong khi nhóm sinh viên tâm lý chỉ cho là
3,3%. Các triệu chứng thường gặp tiếp theo với tỉ lệ thấp hơn là luôn cảm thấy mệt mỏi
(28,4-48,4%), trở lên bất hạnh hoặc buồn chán (18,9-33,1%), cảm thấy thất vọng (7,1-
26,2%), nghĩ rằng "Tôi vô dụng" (8,9-26,3%), nghĩ rằng :"Tôi đã thất bại" (7,1-16,6%)
.Các trải nghiệm
SV
Y5
(n=13
SVT
L
(n=99
NVYT
(n=95)
NN
BN
(n=1
p

Nhận xét:
Mất khả năng tập trung hoặc
khó suy nghĩ
60,8 8,1 76,8 49,1 <0,05
Thôi làm những việc mà họ

từng thích
44,6 18,2 41,1 25,4 <0,05
Thu hẹp quan hệ với bạn bè
và người thân
76,9 69,7 5,6 52,1 <0,05
Có rắc rối trong gia đình hoặc
mối quan hệ khác
15,4 38,4 9,5 18,9 <0,05
Không muốn ra khỏi nhà 21,5 34,3 25,3 32 <0,05
Lệ thuộc vào rượu, ma tuý

hoặc các chất gây êm dịu
9,2 25,3 13,7 17,8 <0,05
Có ý tưởng/hành vi tự sát 56,9 63,6 83,2 46,2 <0,05
Không hoàn thành công việc 33,1 8,1 42,1 30,8 <0,05
Giảm tự chăm sóc cá nhân 34,6 25,3 16,8 31,4 <0,05
Thu hẹp quan hệ, có ý tưởng, hành vi tự sát được coi là những trải nghiệm của
trầm cảm ở gần như quá nửa ở các nhóm nghiên cứu. Có sự tương đồng về nhận biết
của các triệu chứng: mất tập trung chú ý, mất sở thích, giảm học hành, làm việc giữa
các nhóm sinh viên và nhân viê y tế. Sinh viên tâm lý nhấn mạnh đến những rắc rối
trong gia đình, không chịu ra khỏi nhà hơn nhóm sinh viên, nhân viên y tế và người
nhà bệnh nhân.
Người hỗ trợ
SV Y5

(n=13
0)
SVTL
(n=99)
NVYT
(n=95)
NN
BN
(n=16
p
Nhà tư vấn 80 77,9 86,3 46,8 <0,05
Bác sĩ đa khoa hoặc bác
sĩ gia đình
60,8 52,8 73,7 50,9 <0,05
Dược sĩ 16,9 23,3 43,1 26,7 <0,05
Bác sỹ Tâm thần 87,7 74,8 93,7 65,7 <0,05
Nhà Tâm lý học 85,3 89,9 89,4 56,8 <0,05
Nhận xét:
bị trầm cảm
Cán sự xã hội 30 43,4 51,6 18,3 <0,05
Nhân viên phúc lợi 19,3 24,2 31,6 13,6 <0,05
Không cần/không muốn
kiếm sự trợ giúp
10 20,2 14,8 17,8 <0,05
Bảng 7 cho thấy về thái độ xử trí khi họ bị trầm cảm, các nhóm cho những kết
quả tương đối gần nhau. Hầu hết các nhóm đều sẽ đến với bác sĩ chuyên khoa tâm
thần (65,7-93,7%), nhà tâm lý học (56,8-89,9%), nhà tư vấn (46,8-86,3%) là những
tiếp cận đầu tiên. Người nhà bệnh nhân thể hiện sự tiếp cận thấp hơn so với nhóm
nhân viên y tế và sinh viên. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Tiếp cận với Bác sĩ đa khoa: có sự khác biệt giữa nhóm sinh viên Y5, nhân viên

y tế với nhóm người nhà bệnh nhân và sinh viên tâm lý
Sự cần thiết của cán sự xã hội (18,3-51,6%) nhân viên phúc lợi, dược sĩ xuất
hiện với tỉ lệ thấp ở các nhóm.
Tuy nhiên vẫn còn một tỉ lệ những người được phỏng vấn cho rằng không cần/
không muốn tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên môn (10-17,8%), mà họ sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ
từ những nhóm không chuyên môn
Người hỗ trợ
SV
Y5
(n=1
SVT
L
(n=99
NVYT
(n=95)
NN
BN
(n=1
p
Chuyên gia châm cứu 6,2 22,2 14,7 15,3 <0,05
Linh mục, cha xứ, giáo sĩ 11,6 14,2 20 7,7 <0,05
Gia đình 88,4 92,9 70,5 53,8 <0,05
Bạn bè 88,5 93,9 97,8 53,4 <0,05
Người chữa bệnh bằng dưỡng

sinhhoặc người bán thảo dược
26,2 45,5 39 36,7 <0,05
Tập luyện thư giãn (matxa, giáo
viên yoga, thiền)
73,9 80,8 70,5 43,2 <0,05

Người chữa bệnh theo tập quán
cổ (thày mo, thày cúng )
5,4 7,1 10,6 10,7 <0,05
Nhận xét:
trầm cảm
Nhận xét:
Trong nhóm tìm kiếm sự hỗ trợ không chuyên môn, đa số các nhóm đều kiếm
tìm sự hỗ trợ từ gia đình (70-92,9%), bạn bè (53,4-97%), vì đây là nhóm được coi là
hỗ trợ chính, quan trọng nhất. Các phương pháp luyện tập được sinh viên, nhân viên y
tế tìm kiếm nhiều nhất trong khi người nhà bệnh nhân ít quan tâm hơn. Ngoài ra, họ
còn tìm kiếm sự hôc trợ từ những người bán thảo dược, chuyên gia châm cứu Đặc
biệt vẫn còn một tỉ lệ đáng lưu tâm về sự tìm kiếm hỗ trợ của pháp sư, thày mo (5,4-
10,7%)
CHƯƠNG 4 BÀN
LUẬN
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu của chúng tôi có 130 sinh viên Y5, 99 sinh viên năm thứ 3 khoa Tâm
lý ĐHKHXH&NV, 95 nhân viên y tế (bác sĩ, bác sĩ tâm thần, điều dưỡng tâm thần), 169
người nhà bệnh nhân tâm thần. Tuổi trung bình của các nhóm lần lượt là 23,3; 22,6; 38,5
và 37,2 tuổi. Về cơ cấu giới: nữ giới chiếm đa số ở nhóm sinh viên tâm lý.
NHẬN THỨC VỀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH CỦA TỬ VONG HOẶC LOẠN HOẠT NĂNG
2.5.54. Nhận thức về các nhóm bệnh (chuyên khoa) được coi là nguyên nhân chính
của tử vong hoặc loạn hoạt năng
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, theo hiểu biết của các nhóm quần thể đều cho
rằng nguyên nhân gây chết hoặc để lại di chứng loạn hoạt năng chủ yếu vẫn là do tai nạn
giao thông, bệnh ung thư, bệnh tim mạch, các rối loạn tâm thần và hành vi, bệnh phổi và
lồng ngực Điều này cũng phù hợp xu thế về cơ cấu bệnh tật của nước ta trong những
năm gần đây là các bệnh tim mạch, tai nạn giao thông, bệnh tâm thần, bệnh liên quan
chế độ ăn uống (các bệnh không lây nhiễm) ngày càng tăng. Tuy nhiên khi phỏng vấn
nhóm người nhà bệnh nhân, lại cho kết quả khác hơn 3 nhóm trên, nhóm bệnh gây tử

vong nhiều nhất vẫn là ung thư (76,3%), bệnh nhiễm trùng (63,3%), do tai nạn (41,4%),
như vậy nhận thức về các nguyên nhân tử vong do bệnh nhiễm trùng vẫn còn cao ở nước
ta. Nhóm sinh viên Y5 cho rằng nguyên nhân gây tử vong và loạn hoạt năng cao nhất là
do tai nạn (93,8%), bệnh ung thư (76,2%), bệnh nhiễm trùng (63,1%), tiếp đến mới là
các bệnh về tim mạch, rối loạn tâm thần và hành vi, bệnh phổi và lồng ngực. thấp nhất là
do bệnh cơ khớp. Trong khi đó nhóm sinh viên tâm lý cũng cho rằng nguyên nhân gây tử
vong và loạn hoạt năng cao nhất là do tai nạn (73,7%), ung thư (69,7%), bệnh nhiễm
trùng (54,5%), bệnh tim mạch (45,5%), tiếp theo là các bệnh tâm thần, đái đường,thấp
nhất là nhóm bệnh cơ khớp (4%). Đối với nhóm nhân viên y tế, nguyên nhân được họ
cho là gây tử vong cao nhất cũng tương đồng với 2 nhóm sinh viên, tỉ lệ gây chết cao
vẫn là do bệnh ung thư (72,6%), tai nạn (71,6%), bệnh tim và đột quị (69,5%), tiếp theo
vẫn là các bệnh nhiễm trùng, rối loạn tâm thần và hành vi; thấp nhất là nhóm bệnh cơ
k h ớ p . . Đối với người nhà bệnh nhân, chúng tôi nhận thấy một kết quả khác hơn 3
nhóm trên, nhóm gây tử vong nhiều nhất vẫn là ung thư (76,3%), bệnh nhiễm trùng
(63,3%), do tai nạn (41,4%), các nguyên nhân khác cũng tương tự các nhóm trên.
Đối với nhóm nguyên nhân rối loạn tâm thần được sinh viên Y5, sinh viên Tâm
lý, người nhà bệnh nhân tâm thần xếp hàng thứ 5, nhóm nhân viên y tế cho rằng xếp
hàng thứ 4 trong số 9 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và rối loạn khả năng hoạt động
của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Điều này cũng tương đồng trong nghiên
cứu về hiểu biết của sinh viên Australia, Trung Quốc: rối loạn tâm thần đứng hàng thứ 3
trong số 9 nguyên nhân gây tử vong ở Australia và Trung quốc [3],[4]. Điều này cũng
phù hợp với khuyến cáo của WHO, trầm cảm (là một rối loạn tâm thần thường gặp) là
một trong những nguyên nhân gây tử vongrấtlớn (cùng với nhồi máu
cơ tim, tai
mạch
máu não) trong những năm gần đây [5].
2.5.55. Nhận thức về các bệnh (trong các chuyên khoa) được coi là nguyên nhân
chính của tử vong hoặc loạn hoạt năng
Khi hỏi các thông tin cụ thể về từng bệnh, chúng tôi nhận thấy, ở nhóm sinh viên
Y5 cho rằng tai nạn giao thông (93,1%), nhiễm HIV hoặc AIDS (64,6%), nhồi máu cơ

tim hoặc các bênh tim khác (58,5%) là nguyên nhân gây chết hàng đầu; nhóm sinh viên
tâm lý cũng cho kết quả tương tự với các nguyên nhân do tai nạn giao thông (80,8%),
nhiễm HIV hoặc AIDS (79,8%), nhồi máu cơ tim hoặc các bệnh tim khác (54,5%).
Nhóm nhân viên y tế cũng cho một kết quả tương tự: tai nạn giao thông (89,5%), nhiễm
HIV hoặc AIDS (67,4%), nhồi máu cơ tim hoặc các bênh tim khác (50,5%), tuy nhiên
nhóm này còn cho rằng ung thư phổi là nguyên nhân gây chết đứng hàng thứ 3, cao hơn
do nguyên nhân bệnh nhồi máu cơ tim, ngoài ra nhóm này còn cho rằng đột quị và bệnh
não khác cũng gây tử vong như bệnh nhồi máu cơ tim. Có điều này là do họ là những
người đã hành nghề y nên có kinh nghiệm lâm sàng hơn. Ở nhóm người nhà bệnh nhân
cho rằng nguyên nhân gây chết hoặc để lại nhiều loạn chức năng gần như nhóm nhân
viên y tế (nhưng khác nhau ở nguyên nhân cao nhất: cao nhất là nhiễm HIV hoặc AIDS
(74%), tiếp theo mới là do tai nạn giao thông (56,2%), nhồi máu cơ tim hoặc các bênh
tim khác (42%). Điều này phản ánh được một phần hiệu quả của công tác tuyên truyền
về y tế của ngành y tế cũng đạt được thành tựu nhất định.
Các nguyên nhân khác theo thứ tự giảm dần là do lạm dụng rượu (27,2-47,7%),.
Nhóm đứng hàng thứ 3 là do trầm cảm (21-29%), tự sát hoặc tự hủy hoại (13,8-32,5%),
đái đường (22,1-26,2%), ung thư đại trực tràng (15,2-26,3%). Các nguyên nhân ít hơn là
do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen, nhiễm khuẩn phổi hoặc ngực khác
Các rối loạn tâm thần bao gồm 4 trong số 15 bệnh gây tử vong hoặc loạn chức
năng hoạt động hàng ngày bao gồm: trầm cảm (21,2-31,6%), sa sút trí tuệ (5,3-13,1%),
lạm dụng rượu (27,2-47,7%), tự sát (21,2-32,5%). Nghiên cứu trên sinh viên Australia
va Trung quốc cho thấy một kết quả tương tự. [3],[4].
Trầm cảm được nhận biết nhiều hơn bởi nhân viên y tế và người nhà bệnh nhân
hơn ở sinh viên. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Lạm dụng rượu được nhận biết thấp nhất ở nhóm người nhà bệnh nhân, rõ hơn ở
nhóm sinh viên y, sinh viên tâm lý và nhân viên y tế. Sự khác biệt có ỹ nghĩa thống kê.
Bệnh Alzheimer được nhận biết cao nhất ở nhóm sinh viên tâm lý, các nhóm còn
lại tương tự nhau.
Tự sát được nhận biết rất rõ ở người nhà bệnh nhân, ít nhất là ở nhóm sinh viên
Y5 đa khoa. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, sinh viên Australia thấy có

tỉ lệ thấp hơn (11%) trong khi sinh viên Trung quốc cho một tỉ lệ cao hơn (25%) [3],[4].
2.5.56. Nhậnthức về những bệnh tâm thần đặc biệt được coi là nguyên
nhân
• o • • • • o */
gây tử vong hoặc loạn hoạt năng
Khi điều tra sâuhơnvề nhóm bệnh tâm thầm, các nhóm đều cho rằng
nguyên nhân gây chếtchủ yếu là do lạm dụng hoặc nghiện ma tuý (53,8-
75,8%), lạm dụng hoặc nghiện rượu (30,2-51,5%), tâm thần phân liệt (35,5-56,9%), sau
đó mới do lo âu, rối loạn tâm căn hoặc rối loạn hoảng sợ (12,6-29,2%), Sa sút trí tuệ,
bệnh Alzheimer hoặc tổn thương não khác (11,2-22,1%), thấp nhất là các rối loạn ăn
uống và rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Như vậy, nhóm các bệnh tâm thần nặng đã giảm tỉ
lệ tử vong và giảm hoạt động hàng ngày hơn, phải chăng do hiệu quả can thiệp của các
chương trình quốc gia về các bệnh tâm thần đã có hiệu quả nhất định. Đặc biệt chúng tôi
nhận thấy, nhóm rối loạn tâm thần liên quan sử dụng rượu, ma túy cũng được các nhóm
quần thể nhận thức và cho một tỉ lệ đáng lưu ý. Điều này cũng phù hợp với xu thế về cơ
cấu bệnh tâm thần trong xã hội hiện đai với tỉ lệ rối loạn tâm thần do sử dụng chất tác
động tâm thần ngày càng tăng. Nghiên cứu trên sinh viên Australia cho thấy, trầm cảm
là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu (86%) trong số các rối loạn tâm thần, sau đó mới
là các nguyên nhân do nghiện chất (51%), sa sút trí tuệ (45%). Nghiên cứu trên sinh
viên Trung Quốc cho thấy nguyên nhân cao nhất là do nghiện chất (46%), tiếp theo là
các rối loạn lo âu (hoảng sợ ) chiếm 34%, sau đó là do sa sút trí tuệ (34%), loạn thần
(34%) [3],[4]
Xét theo từng nhóm trả lời, chúng tôi nhận thấy, nhóm sinh viên Y5 và nhóm nhân viên
y tế có hiểu biết tương tự nhau về nguyên nhân gây ra tử vong hoặc loạn hoạt năng của
các bệnh tâm thần. Nhóm sinh viên Y5, nhóm nhân viên y tế và người nhà bệnh nhân
đánh giá vai trò của trầm cảm trong việc gây tử vong gần tương tự nhau, trong khi sinh
viên tâm lý đánh giá có phần khác hơn. Có thể do nhân viên y tế, sinh viên y, ười nhà
bệnh nhân đã trải nghiệm, chứng kiến nhiều trường hợp bệnh nhân tâm thần hơn sinh
viên tâm lý mới chỉ đơn thuần học lý thuyết.HlỂU BIẾT VÀ THÁI ĐỘ Đốl vớl TRẦM CẢM
VÀ ĐIỂU TRỊ TRẦM CẢM

2.5.57. Những hiểu biết về biểu hiện điển hình của một người bị trầm cảm
Khi phỏng vấn về những hiểu biết về trầm cảm của các nhóm, chúng tôi nhận
thấy các nhóm đều cho rằng bệnh nhân trầm cảm trở nên buồn, trầm hoặc khổ sở chiếm
một tỉ lệ cao nhất (67,5-87,4%), rối loạn giấc ngủ 36,7-61,5%), luôn cảm thấy mệt mỏi
(28,4-48,4%); tuy nhiên có một sự khác biệt rất lớn về triệu chứng mất tự tin ở các
nhóm: nhóm sinh viên Y5, nhân viên y tế, người nhà bệnh nhân đều cho tỉ lệ khá cao
(40,2-66,2%) trong khi nhóm sinh viên tâm lý chỉ cho là 3,3%. Có điều này có thể do
sinh viên tâm lý mới chỉ được đào tạo đơn thuần về lý thuyết và nội dung nghiên cứu
khía cạnh tâm lý hơn là bệnh lý tâm thần.
Khi phân tích sự hiểu biết theo nhóm các triệu chứng đặc trưng của trầm cảm
(giảm khí sắc, mất tự tin ), chúng tôi nhận thấy nhóm triệu chứng này được nhận biết
khác rõ ở hầu hết các nhóm nghiên cứu. Nhóm sinh viên Australia hiểu biết rất rõ các
triệu chứng này (71%) trong khi sinh viên Trung Quốc nhận thức thấp hơn (50%), sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê [3],[4]. Các triệu chứngcơ thể (rối loạn giấc
ngủ,mệt mỏi ) chưa được nhậnbiết rõ ở
nhóm người nhà bệnh nhân, điều này tương tự như nhóm sinh viên Trung Quốc (21%,
24%) [4]. Sinh viên và nhân viên y tế có nhận biết tương tự nhau về các biểu hiện đặc
trưng của trầm cảm. Chính vì không nhận biết đầy đủ về các biểu hiện cơ thể của trầm
cảm nên bệnh nhân thường chỉ đến các phòng khám đa khoa mà không đến các cơ sở
chăm sóc sức khỏe tâm thần. Đặc biệt, trong nhóm sinh viên và nhân viên y tế, gần % số
nhân viên này cũng chưa nhận biết được các triệu chứng cơ thể của trầm cảm nên không
điều trị thỏa đáng, không gửi bệnh nhân đến đúng các cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm thần
2.5.58. Hiểu biết về những hành vi hoặc những trải nghiệm mà người trầm cảm
thường có
Phỏng vấn sâu về những hiểu biết về trầm cảm, chúng tôi nhận thấy đa số các
nhóm cho rằng có ý tưởng hoặc hành vi tự sát (46,2-83,2%), mất khả
năng tập trung hoặc khó suy nghĩ, thôi làm những việc mà họ từng thích, thu hẹp quan
hệ với bạn bè và người thân chiếm một tỉ lệ khá cao trong những trải nghiệm của bệnh
nhân trầm cảm. Các nhóm triệu chứng khác cũng có sự khác nhau và daođộng theo
từngnhóm được phỏng vấn. Qua nhận sốliệu trên,

chúng tôi nhận thấy, những hiểu biết của sinh viên Y5 và nhóm nhân viên y tế có sự
tương đồng về những triệu chứng trải nghiệm của trầm cảm
Chúng tôi nhận thấy rằng, thu hẹp quan hệ, có ý tưởng, hành vi tự sát được coi
là những trải nghiệm của trầm cảm ở gần như quá nửa ở các nhóm nghiên cứu. Có sự
tương đồng về nhận biết của các triệu chứng: mất tập trung chú ý, mất sở thích, giảm
học hành, làm việc giữa các nhóm sinh viên và nhân viên y tế. Sinh viên tâm lý nhấn
mạnh đến những rắc rối trong gia đình hơn nhóm sinh viên, nhân viên y tế và người nhà
bệnh nhân. Sinh viên Australia nhận thức rằng giảm tập trung chú ý, giảm quan tâm
thích thú và có hành vi tự sát là những biểu hiện thường thấy nhất ở những người trầm
cảm. Trong khi đó, sinh viên Trung Quốc lại cho rằng những vấn đề về quan hệ trong
gia đình, lạm dụng rượu, bỏ làm việc là những điều màngười trầm
cảmđã trảinghiệm
[3],[4].
2.5.59. Tìm kiếm sự hỗ trợ từ các nhà chuyên môn nếu họ nghĩ họ bị trầm cảm
Khi tiến hành phỏng vấn sâu về thái độ xử trí nếu họ bị trầm cảm, các nhóm cho
những kết quả tương đối gần nhau. Hầu hết các nhóm đều cho rằng đến với bác sĩ
chuyên khoa tâm thần (65,7-93,7%), nhà tâm lý học (56,8-89,9%), nhà tư vấn (46,8-
86,3%) là những tiếp cận đầu tiên. Người nhà bệnh nhân thể hiện sự tiếp cận thấp hơn
so với nhóm nhân viên y tế và sinh viên. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Khi so sánh với sinh viên Australia và Trung quốc, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt
rõ rệt, sinh viên Australia đến với bác sĩ đa khoa (82%) là chủ yếu, tiếp theo mới là các
bác sĩ tâm thần, nhà tư vấn. Trong khi sinh viên Trung Quốc lại cho một kết quả tương
tự như các nhóm trong nghiên cứu của chúng tôi [3],[4].
Tiếp cận với Bác sĩ đa khoa: có sự khác biệt giữa nhóm sinh viên y, nhân viên y
tế với nhóm người nhà bệnh nhân và sinh viên tâm lý. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu trên sinh viên Trung quốc [[3],[4].
Sự cần thiết của cán sự xã hội (18,3-51,6%) nhân viên phúc lợi, dược sĩ xuất
hiện với tỉ lệ thấp ở các nhóm. Kết quả này tương tự như nghiên cứu trên sinh viên
Trung Quốc và Australia [3],[4].
Tuy nhiên vẫn còn một tỉ lệ những người được phỏng vấn cho rằng không cần/

không muốn tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên môn (10-17,8%), mà họ sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ từ
những nhóm không chuyên môn. Sinh viên Australia cho một tỉ lệ thấp hơn các nhóm
quần thể nghiên cứu của chúng tôi trong khi nhóm sinh viên Trung quốc kiếm tìm sự hỗ
trợ phi chuyên môn còn cao (42%)
2.5.60. Tìm kiếm sự hỗ trợ không chuyên môn nếu họ nghĩ họ bị trầm cảm
; • o «/ • o • •
Do một vài lý do nào đó mà người dân không tiếp cận dịch vụ y tế, nhất là dịch
vụ tâm thần học, đa số các nhóm đều kiếm tìm sự hỗ trợ từ gia đình (70-92,9%), bạn bè
(53,4-97%), hoặc những người có thể chỉ dẫn họ (tập thể dục, yoga ) (43,2-80,8%), họ
là những người thân thiết của bệnh nhân, luôn chia sẻ thông tin, kể cả những thông tin bí
mật với bệnh nhân vì đó là những người sẽ giữ thông tin, luôn kề bên bệnh nhân trong
mọi tình huống xấu nhất. Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tương tự với nghiên cứu

×