Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Sự vận dụng phương pháp tự học trong dạy học môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông xuân hòa, tỉnh vĩnh phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.77 KB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

TRẦN THỊ MỸ LINH

SỰ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP TỰ HỌC
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
XUÂN HÕA, TỈNH VĨNH PHÖC HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT

HÀ NỘI, 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

TRẦN THỊ MỸ LINH

SỰ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP TỰ HỌC
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
XUÂN HÕA, TỈNH VĨNH PHÖC HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học môn GDCD ở trƣờng THPT


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
ThS. Nguyễn Quang Thuận

HÀ NỘI, 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ,
sự động viên, hƣớng dẫn, chỉ bảo tận tình và chu đáo của thầy giáo ThS.
Nguyễn Quang Thuận và những ý kiến đóng góp của các thầy cô trong Khoa.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới các thầy giáo, cô
giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị, đặc biệt là sự hƣớng dẫn chỉ bảo tận
tình của thầy giáo ThS. Nguyễn Quang Thuận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo, các em học
sinh trƣờng THPT Xuân Hòa, tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành khóa luận của mình.
Do điều kiện thời gian, năng lực còn hạn chế nên khóa luận không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của
các thầy cô và các bạn để khóa luận của tôi đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 05 tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Trần Thị Mỹ Linh


LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của
thầy giáo, ThS. Nguyễn Quang Thuận. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Không trùng lặp với bất cứ

công trình nghiên cứu nào.
Trong quá trình làm khóa luận, tôi đã kế thừa những thành tựu của các
nhà khoa học với sự trân trọng và biết ơn.

Hà Nội, 05 tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Trần Thị Mỹ Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

HS

: Học sinh

GV

: Giáo viên

GDCD

: Giáo dục công dân

GD&ĐT

: Giáo dục và đào tạo

SGK


: Sách giáo khoa

THPT

: Trung học phổ thông

CBGV

: Cán bộ giáo viên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP
TỰ HỌC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN BẬC THPT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................... 6
1.1. Cơ sở lí luận của việc vận dụng phƣơng pháp tự học trong dạy học
môn Giáo dục công dân bậc THPT ở Việt Nam hiện nay ............................ 6
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phƣơng pháp tự học trong dạy học
môn Giáo dục công dân trong trƣờng THPT Xuân Hòa, tỉnh Vĩnh Phúc. . 14
Chƣơng 2. QUY TRÌNH, ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN PHƢƠNG PHÁP TỰ
HỌC TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD ........................................................ 21
2.1. Quy trình thực hiện phƣơng pháp tự học trong dạy học môn GDCD ....... 21
2.2. Điều kiện thực hiện hiệu quả phƣơng pháp tự học trong dạy học môn
GDCD .......................................................................................................... 25
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP TỰ HỌC
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƢỜNG THPT XUÂN HÒA,
TỈNH VĨNH PHÚC......................................................................................... 34
3.1. Kế hoạch thực nghiệm ........................................................................... 34
3.2. Nội dung thực nghiệm ............................................................................ 35

3.3. Kết quả thực nghiệm ............................................................................ 48
3.4. Một số đề xuất để thực hiện tốt việc vận dụng phƣơng pháp tự học ... 51
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 55
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh quốc tế đƣợc đặc trƣng bởi
xã hội tri thức và toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu mới đối với ngƣời lao
động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục. Giáo dục
cần đào tạo đội ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng đƣợc những đòi hỏi mới
của xã hội và thị trƣờng lao động, đặc biệt là năng lực hành động, tính năng
động, sáng tạo, tính tự lực và trách nhiệm cũng nhƣ năng lực cộng tác làm
việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp trong mọi tình huống của cuộc
sống. Giáo dục cần đổi mới để đáp ứng đƣợc những yêu cầu mới của sự phát
triển kinh tế, xã hội.
Nghị quyết số 29-NQ/TW (4/11/3013)“ Về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo” đã chỉ ra:
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn
đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội
dung, phƣơng pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi
mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc đến hoạt động quản
lý của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng,
xã hội và bản thân ngƣời học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển
những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới;
kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo
đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tƣợng và cấp

học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình,
bƣớc đi phù hợp.
Đối với giáo dục phổ thông, mục tiêu cụ thể là tập trung phát triển trí tuệ,
thể chất, hình thành ph m chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dƣỡng

1


năng khiếu, định hƣớng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lƣợng giáo
dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tƣởng, truyền thống, đạo đức, lối sống,
ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.
Nhƣ vậy, tự học, khả năng tự học là vấn đề có vai trò quan trọng, cấp
thiết của mỗi HS trong việc chiếm lĩnh tri thức. Tự học không chỉ là việc đáp
ứng nhu cầu, sở thích tìm hiểu tri thức của cá nhân mà nó còn là điều bắt buộc
trong quá trình học tập các môn khoa học nói chung và đặc biệt là môn Giáo
dục công dân nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế việc dạy học môn Giáo dục
công dân ở trƣờng THPT nói chung cả về chất lƣợng dạy và học đã và đang
suy giảm một cách đáng báo động, các em chƣa có ý thức tự học, tự nghiên
cứu, vẫn còn ỷ lại GV.
Vấn đề tự học môn GDCD đối với các em là vấn đề còn xa lạ vì các
em luôn có suy nghĩ rằng học môn này chẳng để làm gì, môn không cần thiết
phải học, môn này không xét tốt nghiệp và cũng không phải là môn thi đại
học, thời gian để học môn này thà rằng đi giải bài tập các môn toán, lý,
hóa…Do đó các em chƣa có ý thức học tập môn này dẫn đến chất lƣợng học
tập chƣa cao.
Từ những lý luận và thực tiễn trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục
nghiên cứu giải pháp để nâng cao hiệu quả tổ chức tự học cho học sinh bậc THPT.
Vì vậy tác giả chọn đề tài: “Sự vận dụng phương pháp tự học trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông Xuân Hòa, tỉnh

Vĩnh Phúc hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, tự học và hƣớng dẫn tự học là vấn
đề đã đƣợc quan tâm nghiên cứu từ lâu cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm
phát huy vai trò tích cực học tập của ngƣời học.

2


Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà giáo dục lỗi lạc đã nhận thấy vai trò quan
trọng của tự học. Khổng Tử - nhà giáo dục kiệt xuất của Trung Hoa cổ đại, luôn
quan tâm và coi trọng việc tích cực suy nghĩ của ngƣời học. Ông đã từng dạy học
trò: Không giận vì không muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ
thì không bày cho, vật có 4 góc, bảo biết 1 góc mà không suy ra đƣợc 3 góc kia thì
không dạy nữa.
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh điển nhƣ: J.A.Comexky (1592-1670,
Tiệp khắc), J.J. Rutxô (1712-1778, Pháp), K. Đ Usinxky (1824-1890),…trong tác
ph m nghiên cứu của các ông đã có cùng quan điểm: tự mình giành lấy tri thức
bằng con đƣờng tự khám phá, tự tìm tòi, tự suy nghĩ là con đƣờng quan trọng để
chiếm lĩnh tri thức.
Trong những năm gần đây, các nƣớc phƣơng Tây lại càng nhấn mạnh việc
“Lấy ngƣời học làm trung tâm” để làm sao phát huy hết năng lực nội sinh của
ngƣời học. Đại diện cho tƣ tƣởng này là J.Deway, ông cho rằng: Học sinh là mặt
trời, xung quanh nó quy tụ mọi phƣơng tiện giáo dục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt nam là một tấm
gƣơng ngời sáng về ý chí quyết tâm trong học tập và rèn luyện. Ngƣời chỉ rõ:
“Về việc học tập phải lấy tự học làm cốt”; “Về cách dạy thì phải tránh lối dạy
nhồi sọ”,...
Ở nƣớc ta, vấn đề tự học đã có rất nhiều nhà giáo dục dày công nghiên
cứu. GS.TSKH.Thái Duy Tuyên, có bài viết: “Bồi dưỡng năng lực tự học cho

học sinh”; “Tích cực hoá hoạt động nhận thức qua điều khiển hoạt động trí
tuệ của người học” (Viện Chiến lƣợc và Chƣơng trình giáo dục, Hà Nội, 2002).
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Bảo, trong bài viết: “Phát triển tính tích cực,
tính tự lực của học sinh trong quá trình dạy học” đã khẳng định: học là hoạt
động tự lực, là trung tâm của quá trình dạy học, v.v..

3


Nhƣ vậy, vấn đề tự học đã đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm dƣới nhiều
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về phƣơng pháp
tự học môn GDCD thì lại chƣa đƣợc nghiên cứu nhiều. Do đó, đề tài “ Sự vận
dụng phƣơng pháp tự học trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trƣờng
THPT Xuân Hòa, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” sẽ góp phần làm rõ hơn về
phƣơng pháp tự học và nâng cao chất lƣợng dạy học môn GDCD ở trƣờng
THPT nói chung và ở trƣờng THPT Xuân Hòa nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là làm rõ vai trò, ý nghĩa của việc vận dụng phƣơng
pháp tự học trong dạy học các môn khoa học nói chung và đối với môn Giáo
dục công dân nói riêng, nhằm nâng cao chất lƣợng giảng dạy, đặc biệt là tính
tự giác học tập của học sinh trƣờng THPT Xuân Hòa, tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung vào những thực trạng và giải
pháp cơ bản nhằm từng bƣớc phát huy phƣơng pháp tự học của học sinh trong
môn GDCD từ đó nâng cao chất lƣợng dạy và học bộ môn này ở trƣờng
THPT Xuân Hòa, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Đề tài giới hạn trong việc nghiên cứu vận dụng phƣơng pháp tự học một số
bài của phần II môn Giáo dục công dân cho học sinh lớp 11, trong học kì II năm
học 2014-2015 tại trƣờng THPT Xuân Hoà, tỉnh Vĩnh Phúc.

+ Đối tƣợng khảo sát là học sinh lớp 11 của trƣờng THPT Xuân Hòa.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp
nghiên cứu cụ thể nhƣ: phƣơng pháp quan sát, phƣơng pháp điều tra; phƣơng
pháp phỏng vấn, trò chuyện.

4


Ngoài ra đề tài còn phối hợp các phƣơng pháp liên ngành nhƣ phân tích,
tổng hợp, thống kê toán học trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
6. Ý nghĩa của đề tài
Về mặt lý luận: Đề tài khóa luận hệ thống cơ sở lý luận về tự học, vận dụng
phƣơng pháp tự học để áp dụng cho học sinh nhằm từng bƣớc nâng cao chất
lƣợng tự học của học sinh trong nhà trƣờng.
Về mặt thực tiễn: Đề tài khóa luận còn góp phần nâng cao tính tích cực, chủ
động sáng tạo, chỉ ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan; đồng thời đề xuất
thử nghiệm tính đúng đắn của phƣơng pháp tự học môn Giáo dục công dân trên
cơ sở thực nghiệm sƣ phạm, giúp cho học sinh hiểu đƣợc tầm quan trọng của
phƣơng pháp tự học, kỹ năng tự học đúng đắn để đạt đƣợc kết quả cao trong học
tập, góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục hiệu quả của quá trình dạy học môn
Giáo dục công dân ở trƣờng THPT.
7. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm: Phần mở đầu, nội dung gồm 3 chƣơng, 8 tiết, phần kết
luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo.

5



Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP TỰ
HỌC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN BẬC THPT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lí luận của việc vận dụng phƣơng pháp tự học trong dạy học
môn Giáo dục công dân bậc THPT ở Việt Nam hiện nay
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm về phương pháp
Trong mọi lĩnh vực hoạt động của con ngƣời, vấn đề phƣơng pháp bao giờ
cũng đƣợc đặt ra để lựa chọn, sử dụng, nhằm thực hiện những ý tƣởng, những
mục tiêu đã định. Do đó, phƣơng pháp là một trong những yếu tố quyết định thành
công hay thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
Thuật ngữ phƣơng pháp xuất phát từ thuật ngữ Hi Lạp “Methodos” có nghĩa
là con đƣờng nghiên cứu, cách thức, biện pháp làm việc… để đạt mục đích, cũng
có thể gọi là một thủ đoạn.
Các nhà kinh điển đã có những quan điểm khác nhau về phƣơng pháp. Ph.Bê
cơn cho rằng phƣơng pháp nhƣ “sợi chỉ dẫn đƣờng”. R.Đề-các tơ khi đề cập đến
phƣơng pháp ông nhấn mạnh: “thiếu phƣơng pháp thì ngƣời tài cũng có lỗi, có
phƣơng pháp thì ngƣời tầm thƣờng cũng làm đƣợc việc phi thƣờng”.
Tác giả Phạm Viết Vƣợng đƣa ra khái niệm về phƣơng pháp: “Phƣơng pháp
là tổ hợp các cách thức mà chủ thể sử dụng để tác động vào đối tƣợng hoạt động
nhằm biến đổi theo mục đích đã xác định”.
Phƣơng pháp là một phạm trù gắn với hoạt động có ý thức của con ngƣời,
phản ánh hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Nó không phải là một nguyên tắc có
sẵn, bất biến mà nó phụ thuộc vào đối tƣợng và nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải
nghiên cứu đối tƣợng và mục đích cần đạt tới một cách khách quan. Trên cơ sở
đó, chủ thể mới xác định đƣợc phƣơng tiện, công cụ và biện pháp gì cho thích hợp
để đạt hiệu quả cao.

6



Nhƣ vậy, phƣơng pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ
thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận động của đối tƣợng,
khách thể đã nhận thức cũng nhƣ hoạt động thực tiễn của con ngƣời, nhằm tác
động vào đối tƣợng để thực hiện mục đích đã định.
1.1.1.2. Phương pháp dạy học
Trong giáo dục nhà trƣờng, phƣơng pháp đƣợc đề cập đó là phƣơng pháp
dạy học. Phƣơng pháp dạy học đƣợc xem xét với tích cách là một khoa học,
đó là khoa học sƣ phạm, khoa học về giảng dạy và truyền đạt tri thức cho
ngƣời học.
Phƣơng pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá
trình dạy học. Phƣơng pháp có nghĩa là con đƣờng để đạt mục đích, theo đó,
phƣơng pháp dạy học là con đƣờng để đạt mục đích dạy học.
Phƣơng pháp dạy học là một khái niệm phức hợp, có nhiều bình diện,
phƣơng diện khác nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về phƣơng pháp dạy học
đều phải dựa trên một số đặc trƣng cơ bản sau:
- Phƣơng pháp dạy học là sự thống nhất giữa phƣơng pháp dạy và
phƣơng pháp học.
- Phƣơng pháp dạy học thực hiện thống nhất chức năng đào tạo và giáo dục.
- Phƣơng pháp dạy học có cả mặt khách quan và chủ quan.
- Phƣơng pháp dạy học là sự thống nhất của logic nội dung dạy học và
lôgic tâm lí nhận thức.
- Phƣơng pháp dạy học là sự thống nhất của cách thức hành động và
phƣơng tiện dạy học.
Từ đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học, chúng ta thấy rằng, phƣơng
pháp dạy học là một phạm trù tƣ duy khoa học, một nghệ thuật sƣ phạm có tổ
chức, có định hƣớng, có sự phù hợp giữa nội dung và hình thức. Mỗi một bài
dạy cụ thể, tùy từng nội dung tri thức phải có phƣơng pháp dạy học, phƣơng
tiện dạy học và các thao tác thích hợp.


7


Nhƣ vậy, phƣơng pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt động,
phối hợp thống nhất giữa giáo viên và ngƣời học nhằm thực hiện nhiệm vụ
giảng dạy ở nhà trƣờng. Phƣơng pháp dạy học bao gồm sự thống nhất chặt
chẽ cả phƣơng pháp dạy và phƣơng pháp học.
1.1.1.3. Khái niệm tự học, vai trò và ý nghĩa của tự học
a) Khái niệm tự học
Trên thế giới có rất nhiều nhà giáo dục đƣa ra quan điểm, định nghĩa tự
học từ phƣơng diện là chủ thể trƣớc đối tƣợng nhận thức, trong tính chủ động,
độc lập của quá trình nhận thức. Nhà tâm lý học N.Arubakin viết: “Tự tìm lấy
kiến thức - có nghĩa là tự học”. Ở Việt Nam, tác giả Lê Khánh Bằng cũng
nhìn nhận: Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các ph m
chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định.
Còn theo : Giáo sƣ - Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình
động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích,
tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các ph m
chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (nhƣ
tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên
trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận
lợi…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình”.
Xã hội ngày càng phát triển, đòi hỏi kiến thức của mỗi ngƣời cũng phải
tăng lên nhƣng thời gian thì có hạn, chính vì lẽ đó mà hoạt động tự học của
con ngƣời diễn ra dƣới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Có thể chia
thành 3 hình thức tự học cơ bản:
Hình thức thứ nhất: cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc
lập không có sách và sự hƣớng dẫn của giáo viên.


8


Hình thức thứ hai: tự học có sách nhƣng không có giáo viên bên cạnh,
hình thức này lại có thể diễn ra ở hai mức: tự học theo sách mà không có sự
hƣớng dẫn của thầy và tự học có thầy ở xa hƣớng dẫn.
Hình thức thứ ba: tự học có sách, có thầy nhƣng thầy chỉ có mặt một số
tiết để hƣớng dẫn, còn học sinh tự nghiên cứu là chính .Trong quá trình học tập
trên lớp, trò là chủ thể, tích cực, tự giác, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình
học tập; thầy là tác nhân, là ngƣời thiết kế, tổ chức, hƣớng dẫn và tạo điều kiện
thuận lợi nhất để trò tự chiếm lĩnh tri thức.
Trong quá trình tự học, dƣới sự hƣớng dẫn gián tiếp của thầy, trò phải phát
huy tính tự giác, tích cực, chủ động để hoàn thành những yêu cầu, những bài tập
do thầy đƣa ra và những hoạt động học tập khác của cá nhân.
Từ những quan điểm phong phú, đa dạng về tự học nêu trên, tác giả có
thể kết luận về tự học nhƣ sau: Tự học là quá trình người học độc lập, tích
cực, tự giác và sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó
trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích
nhất định.
b) Vai trò và ý nghĩa của tự học
Trong tƣ tƣởng giáo dục của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi
trọng vai trò của tự học. Theo Ngƣời, tự học có một vai trò đặc biệt quan
trọng và không thể thay thế: "Lấy tự học làm cốt”. Cốt ở đây có thể hiểu là
cốt yếu, là chủ chốt, là nòng cốt, là bộ khung, là cái sƣờn, cái cốt lõi. Nhƣ
vậy, tự học chính là yếu tố cốt lõi của hoạt động học, là bộ khung, là nội lực
quyết định chất lƣợng học tập. Các yếu tố khác là ngoại lực. Học mà thiếu tự
học thì chỉ là một cơ thể thiếu xƣơng cốt "lấy tự học làm cốt". Học tập mà
thiếu tự học là một cơ thể không có xƣơng: khó đứng lên đƣợc! Để thực hiện
vai trò quan trọng nhƣ vậy, tự học phải xuất phát từ một mục đích cao cả, với

những mục tiêu cụ thể rõ ràng.

9


Ngƣời chỉ rõ: Tự học là học một cách tự động. Chính Hồ Chí Minh đã
định nghĩa: “Tự động là không phải dựa vào ai, là tự mình biết biến báo xoay
xở, tự mình biết thực hành công tác theo nhiều hình thức mới mẻ, phong phú”
Vậy, tự học tập tức là học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai
nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ. Tự học chính là tự quản lý việc học
tập, tự mình chủ động vạch kế hoạch học tập cho chính mình, rồi tự mình
triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian
để học và tự mình kiểm tra, đánh giá việc học của mình.
Nhƣ vậy, tự học thật sự có vai trò quan trọng trong quá trình học tập của
ngƣời học. Tự học là một dòng chảy liên tục, ngƣời học không đƣợc để cho
nó gián đoạn, không ngắt quãng; dù công việc có bề bộn, dù cuộc sống có tất
bật đến đâu cũng không đƣợc ngừng tự học. Quá trình tự học sẽ phát huy tiềm
năng, nội lực của mỗi ngƣời để mỗi ngƣời tự bộc lộ, tự khẳng định mình.
Tự học thƣờng xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp học sinh
mở rộng đào sâu kiến thức, hiểu thêm về thế giới, con ngƣời xung quanh mà
còn giúp học sinh hình thành đƣợc tính tự giác, các giá trị đạo đức, tinh thần,
th m mỹ.
Nhƣ vậy, qua thực tế nghiên cứu có thể khẳng định hoạt động tự học,
năng lực tự học luôn có một vai trò quan trọng trong quá trình học tập của học
sinh. Quá trình này giúp cho học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp trong tƣơng lai. Trong quá trình tự học, hoc sinh từng bƣớc biến
vốn kinh nghiệm của loài ngƣời thành vốn tri thức riêng của bản thân, tạo
điều kiện cho học sinh hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ
vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức đã học, đã nghiên cứu vào giải quyết
các nhiệm vụ học tập mới đặc biệt đây là hành trang cho các em sau khi tốt

nghiệp THPT chu n bị chuyển lên học cao hơn ở các trƣờng trung cấp
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.

10


1.1.2. Tính tất yếu và yêu cầu của phương pháp tự học trong dạy học
môn GDCD
1.1.2.1 Phương pháp tự học
Tự học, tính tự giác trong học tập của học sinh là hoạt động thƣờng
xuyên, liên tục của học sinh trong quá trình học tập. Nhƣng để nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả thật sự, một yêu cầu tất yếu đặt ra là hoạt động tự học cần
phải đƣợc sắp xếp và tổ chức một cách đúng đắn, khoa học, ngƣời giáo viên
cần quan tâm tổ chức hoạt động tự học cho học sinh.
Phƣơng pháp tự học là sự sắp xếp, thiết kế các biện pháp tiến hành hoạt
động, là việc sử dụng đối tƣợng và các phƣơng tiện hỗ trợ nhằm đạt đƣợc mục
tiêu đề ra. Hƣớng dẫn hoạt động là công việc có vai trò rất quan trọng, nó ảnh
hƣởng trực tiếp tới kết quả của hoạt động.
Trong hoạt động dạy - học, hƣớng dẫn, tổ chức hoạt động là một công
việc cần thiết ảnh hƣởng tới chất lƣợng và hiệu quả học tập, đó là cách thiết
kế, sắp xếp các biện pháp hoạt động phối hợp chung giữa giáoviên và học
sinh trong học tập trên lớp và ở nhà, chính khóa và ngoại khóa theo quy chế
học tập, dƣới sự chỉ đạo của nhà trƣờng nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả
của hoạt động học tập.
Đối với học sinh, phƣơng pháp tự học là cách thức hoạt động tích cực,
chủ động, tự lực và sáng tạo nhằm thực hiện có chất lƣợng, hiệu quả mục đích
và nhiệm vụ học tập
Đối với giáo viên, vận dụng phƣơng pháp tự học cho học sinh là quá
trình thiết kế, sắp xếp các biện pháp tổ chức giảng dạy nhằm tiến hành hƣớng
dẫn, điều khiển, chỉ đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp các biện pháp hoạt động

tự học, giúp học sinh phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học của mình.
Nhƣ vậy, tự học liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, ngƣời học
đƣợc giáo viên định hƣớng về nội dung, hƣớng dẫn về phƣơng pháp và tổ

11


chức quá trình lĩnh hội tri thức. Vì vậy, em tập trung nghiên cứu hình thức tự
học này, vận dụng tự học môn Giáo dục công dân cho học sinh bậc THPT học
nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học môn Giáo dục công dân ở trong trƣờng
THPT hiện nay.
1.1.2.2.Tính tất yếu của phương pháp tự học trong dạy học môn Giáo
dục công dân
Tính tất yếu của phƣơng pháp tự học trong dạy học môn GDCD đƣợc
căn cứ vào:
• Quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo:
Mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới là: Phát triển toàn diện năng
lực và ph m chất ngƣời học. Toàn diện ở đây đƣợc hiểu là chú trọng phát
triển cả ph m chất và năng lực con ngƣời, dạy cả chữ, dạy ngƣời, dạy nghề.
Giáo dục và đào tạo phải tạo ra những con ngƣời có ph m chất, năng lực cần
thiết nhƣ trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo, có hoài bão và lý tƣởng phục
vụ Tổ quốc, cộng đồng; đồng thời phải phát huy tốt nhất tiềm năng , khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân, làm chủ bản thân, làm chủ đất nƣớc và làm chủ xã
hội, có hiểu biết và kĩ năng cơ bản để sống tốt và làm việc có hiệu quả.
Giáo dục ý thức tự học là góp phần giáo dục toàn diện con ngƣời Việt
Nam có ý thức tự học, sáng tạo, hình thành ph m chất, năng lực công dân,
chủ động nắm bắt tri thức góp phần xây dựng đất nƣớc.
 Đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS THPT
Trong giai đoạn này HS đang phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn trí
tuệ, nhận thức. Nhƣng cùng với đó là sự phức tạp trong tâm lý mà sự phát

triển kiến thức xã hội chƣa theo kịp sự phát triển về thể chất đôi khi dẫn tới
những hành động mang tính bồng bột. Những đặc điểm nhân cách chủ yếu ở
HS THPT là phát triển tự ý thức, sự hình thành thế giới quan. Các em cũng

12


sắp rời khỏi mái trƣờng phổ thông, ra ngoài xã hội với tƣ cách là một ngƣời
có đức và tài, ph m chất, cốt cách nhân ph m tốt. Nhƣ vậy môn GDCD có vai
trò quan trọng trong việc phát triển tâm lực, một thành tố cơ bản của nhân
cách và là nội lực của sự phát triển nhân cách học sinh. Đây là điểm khác biệt
giữa môn GDCD với các môn khoa học khác ở trƣờng THPT, đồng thời đây
cũng là điểm nói lên vị trí rất quan trọng, tính đặc thù của môn học này. Vì
vậy giáo dục ý thức tự học môn GDCD cho HS THPT là rất cần thiết.
1.1.2.3 Những yêu cầu của phương pháp tự học trong dạy học môn GDCD
Thứ nhất: Lên kế hoạch và mục tiêu
Giáo viên hƣớng dẫn cho HS có kế hoạch và mục tiêu rõ ràng, có kế
hoạch học tập thật khoa học, xác định đƣợc khối kiến thức các em cần phải
trau dồi, phân bổ thời gian hợp lý.
Có kế hoạch thì phải có mục tiêu, mục tiêu sẽ là động lực học tập của
các em. Bởi khi đó các em biết mình cần phải học vì cái gì, những loại kiến
thức các em học sẽ phục vụ vào công việc gì. Khi đó các em sẽ chủ động học
và tự học để có đủ kiến thức thực hiện mục tiêu mà bản thân đã đề ra.
Thứ hai: Có phƣơng pháp và nhẫn nại
Để các em có tinh thần học tập tốt môn GDCD, GV cần phải giúp cho
các em có sự kiên trì, nhẫn nại. Đừng vội chán nản, lo lắng., Học là một quá
trình lâu dài tích lũy kiến thức, các em sẽ rất dễ nhàm chán bởi môn GDCD
trừu tƣợng, kiến thức rộng ngoài xã hội và luôn phải cập nhật thông tin. Vì
vậy khi các em đã bỏ ra quá nhiều thời gian học mà kết quả thu lại không
đƣợc bao nhiêu, GV hãy giúp các em thay đổi phƣơng pháp học ngoài những

cách học truyền thống nhƣ ghi chép, đọc sách mà bổ sung thêm vào đó là
cách tìm thông tin trên internet, ngoài xã hội, liên hệ đƣợc vào thực tiễn thì
các em sẽ hứng thú với môn học này hơn.

13


Thứ ba : Kỷ luật khi học
GV cần phải rèn cho HS có tính kỷ luật khi học trên lớp cũng nhƣ lúc tự
học. Các em không thể vừa học, vừa nói chuyện, vừa học vừa chơi game hay
làm một việc khác. Khi học các em dành toàn bộ tâm trí, tập trung cao độ, không
xao nhãng. Đây là một nhân tố rất quan trọng để các em tự học hiệu quả.
Thứ tƣ : Tự tìm kiếm tài liệu, chọn lọc thông tin
GV cần định hƣớng cho các em cách tìm kiếm tài liệu học tập có hiệu
quả. Tìm kiếm tài liệu từ sách, báo, các trang mạng, bạn bè để hiểu sâu hơn.
Thu thập thông tin cần chắt lọc những thông tin chính xác. Ví dụ ở bài 14:
Chính sách quốc phòng an ninh (SGK GDCD lớp 11). Nếu các em tìm kiếm
thông tin trên mạng thì sẽ có nhiều thông tin không chính thống vì vậy việc
chắt lọc và thu thu thập thông tin chính xác là rất quan trọng. Đặc biệt là đối
với đặc thù môn GDCD kiến thức không “tĩnh” trừ một số bài về pháp luật
trong SGK lớp 12.
Thứ năm : Tự kiểm tra kiến thức
GV định hƣớng cho các em tự kiểm tra kiến thức của mình bằng cách
nhƣ: Tự làm bài kiểm tra ngắn, liệt kê những nội dung chính, bản đồ tƣ duy…
Việc kiểm tra lại kiến thức cũng là cách giúp các em một lần nữa cũng cố lại
những gì đã học đƣợc, những gì còn mơ hồ cần phải học thêm, rèn cho các em
có sự liên hệ kiến thức vào trong thực tiễn.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phƣơng pháp tự học trong dạy học
môn Giáo dục công dân trong trƣờng THPT Xuân Hòa, tỉnh Vĩnh Phúc.
1.2.1. Khái lược về hoạt động dạy - học môn Giáo dục công dân ở trường

THPT Xuân Hòa
1.2.1.1.Vài nét về trường THPT Xuân Hòa.
Trƣờng THPT Xuân Hòa thành lập ngày 04-03-1987 đƣợc tách ra từ
trƣờng cấp 3 Phúc Yên, tiền thân là trƣờng thực nghiệm, thực hành trực thuộc

14


trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 quản lý và chỉ đạo (thuộc thành phố Hà
Nội). Năm học đầu tiên thành lập (1987-1988), chỉ có 2 lớp với 100 học sinh
và 5 cán bộ, giáo viên kiêm nhiệm của Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2; Năm học thứ
hai (1988-1989) tăng lên 4 lớp; Đến năm học thứ ba (1989-1990) tăng lên 9
lớp với 460 học sinh (tăng gấp hơn 4 lần so với năm đầu thành lập) với 10
CBGV dạy và học tại 2 dãy nhà do Unicef tài trợ thuộc trƣờng ĐHSP Hà Nội
2. Đến năm 1989 trƣờng chính thức tồn tại độc lập và đóng trên địa bàn
phƣờng Xuân Hòa- Phúc Yên- Vĩnh Phúc. Hiệu trƣởng đầu tiên là thầy
Nguyễn Văn Chấn (nhiệm kỳ từ tháng 8-1987 đến tháng 12-1999); tiếp theo
là thầy Đặng Việt Phú (nhiệm kỳ từ tháng 01-2000 đến năm tháng 9 năm
2010); và thầy Nguyễn Thanh Hiên từ tháng 9 năm 2010 cho đến nay.
Sau hơn 25 năm xây dựng và trƣởng thành, trƣờng THPT Xuân Hòa đã
phát triển vƣợt bậc: Từ quy mô trƣờng lớp, cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ,
giáo viên cho đến hình ảnh và uy tín của nhà trƣờng trong khu vực. Kỷ
cƣơng, nề nếp nhà trƣờng đƣợc giữ vững, ổn định và không ngừng phát triển.
Chất lƣợng học sinh đã có nhiều chuyển biến đáng mừng. Những thành công
trên chặng đƣờng xây dựng và trƣởng thành của nhà trƣờng đã đƣợc UBND
tỉnh Vĩnh Phúc ghi nhận. Tháng 8-2008 trƣờng đã đƣợc công nhận trƣờng đạt
chu n Quốc gia giai đoạn 2001-2010.
Về cơ sở vật chất, cho đến năm học 2014-2015 diện tích đất nhà trƣờng
hiện có là 27.000 m2, cơ ngơi khá khang trang gồm: Một nhà điều hành 2
tầng; hai dãy nhà lớp học 3 tầng với 24 phòng học; một dãy nhà đa năng 3

tầng gồm: 2 phòng học bộ môn Tin học và Ngoại ngữ, 2 phòng học bộ môn
Vật lý, 2 phòng học bộ môn Hóa học, 2 phòng học bộ môn Sinh học với trang
bị tƣơng đối đầy đủ, hệ thống máy tính đƣợc kết nối internet tốc độ cao, có
thiết bị nghe nhìn Projector, từ đó tạo điều kiện tốt để nâng cao chất lƣợng
dạy và học; Một phòng thƣ viện 90 m2 với hơn 6.000 đầu sách, hàng năm

15


đƣợc bổ sung thƣờng xuyên các sách tham khảo có chất lƣợng; Một nhà giáo
dục thể chất vừa đƣợc xây dựng xong đang đƣa vào khai thác sử dụng; Sân
vận động, sân trƣờng rộng rãi với hệ thống bồn hoa cây cảnh, cây xanh hài
hòa tạo cảnh quan môi trƣờng “Xanh-Sạch-Đẹp”.
Quy mô nhà trƣờng năm học 2014-2015 gồm 24 lớp; Ban Giám hiệu
gồm 03 đồng chí với 57 GV trực tiếp đứng lớp và 04 nhân viên. 100% CBGV
đều có trình độ đạt chu n và trên chu n (trong đó 10 đồng chí có trình độ thạc
sỹ và 09 đồng chí đang theo học thạc sỹ), Chi bộ Đảng gồm 31đồng chí.
Hầu hết đội ngũ giáo viên đều là những thầy cô giáo có kinh nghiệm giảng
dạy, khả năng chuyên môn vững vàng, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao.
1.2.1.2. Hoạt động dạy - học môn Giáo dục công dân ở THPT Xuân Hòa
Trƣờng THPT Xuân Hòa cũng nhƣ tất cả các trƣờng THPT khác trên phạm
vi cả nƣớc, việc dạy học môn Giáo dục công dân đều theo chƣơng trình chu n
của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thực tế việc giảng dạy hiện nay đối với môn học này còn nhiều bất cập.
Một mặt, đội ngũ giáo viên hoặc chƣa thấy hết tầm quan trọng của môn học;
hoặc ngại đổi mới phƣơng pháp dạy học nên đã biến phần lớn các giờ dạy chỉ
đơn thuần mang tính lý luận, xa rời thực tế, trở nên khô khan, nhàm chán;
hoặc không phù hợp với tình hình hiện nay cũng nhƣ thực tiễn. Mặt khác, với
một tƣ tƣởng đã ăn sâu vào tiềm thức của các em môn Giáo dục công dân chỉ
là môn phụ nên tự học môn Giáo dục công dân với các em là xa lạ và mới mẻ.

Trƣờng THPT Xuân Hòa cũng nhƣ các trƣờng THPT khác hiện nay cho
thấy, mối quan tâm hàng đầu là vấn đề chuyên môn của các môn học liên
quan trực tiếp đến nghề nghiệp, tƣơng lai của các em nhƣ môn: Toán, Lý,
Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Anh. Còn các môn cơ sở, mang tính định hƣớng
chính trị, giáo dục ph m chất và các năng lực khác nhƣ môn GDCD thƣờng ít
đƣợc coi trọng, hoặc chỉ mang tính chất bổ trợ, theo chƣơng trình quy định

16


chung mà thôi, việc tổ chức ngoại khóa cho môn này còn rất ít. GV chủ yếu
sử dụng phƣơng pháp dạy học truyền thống, và còn có hiện tƣợng dạy chéo môn
(GV dạy các bộ môn khác sang giảng dạy môn GDCD). Điều này dẫn đến
chất lƣợng dạy của môn GDCD rất thấp, từ đó gây tâm lý coi nhẹ môn học
trong các em, dẫn tới hiệu quả học tập thấp.
1.2.2. Thực trạng tự học trong việc dạy - học môn Giáo dục công dân ở
THPT Xuân Hòa
Tác giả tiến hành điều tra nhận thức của học sinh trƣờng THPT Xuân
Hòa về tầm quan trọng của môn Giáo dục công dân. Việc điều tra đƣợc tiến
hành trên 152 học sinh lớp 11 năm học 2014-2015 thuộc các lớp
11a1,11a2,11a3,11a4.
* Kết quả điều tra từ học sinh
Bảng 1.1:Kết quả điều tra nhận thức của học sinh về ý nghĩa của môn
Giáo dục công dân
STT

Mức độ nhận thức về ý nghĩa của môn Giáo Ý kiến đánh giá
dục công dân

SL


TL(%)

1

Môn học thiết thực, cần thiết

80

52.6

2

Môn học: học cũng đƣợc và không cũng đƣợc

43

28.3

3

Môn học không thiết thực

29

19.1

Từ kết quả điều tra cho ta thấy rằng, chiếm phần lớn học sinh đều nhận
thức đúng đắn đƣợc tầm quan trọng của môn học. Tuy vậy, vẫn còn 19.1 %
học sinh chƣa nhận thức đúng ý nghĩa và tầm quan trọng của môn học. Đó là

điều ảnh hƣởng không nhỏ tới chất lƣợng giảng dạy môn GDCD.

17


Bảng 1.2: Thái độ học tập đối với với môn Giáo dục công dân
STT

Thái độ học tập đối với môn GDCD

Ý kiến đánh giá
SL

TL(%)

1

Học thƣờng xuyên

20

13.2

2

Học tùy theo hứng thú

98

64.4


3

Học theo mùa thi

26

17.1

4

Không dành thời gian để tự học

8

5.3

Qua số liệu thăm dò đã cho thấy thái độ tự học môn Giáo dục công dân
chƣa tốt, chƣa tự giác, chƣa tích cực. Chỉ có những học sinh nào có ý thức và
thái độ học tập tốt mới tự học thƣờng xuyên, liên tục. Hầu hết học sinh chỉ
học tùy theo hứng thú.
Nhƣ vậy, qua việc tìm hiểu thực trạng tự học môn Giáo dục công dân ở
trƣờng THPT Xuân Hòa, chúng ta nhận thấy một thực tế rằng: nhìn chung học
sinh chƣa nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của môn học đối với bản thân. Bên
cạnh đó, các em cũng chƣa có phƣơng pháp tự học, tự nghiên cứu phù hợp. Vì thế,
vấn đề đặt ra là giáo viên cần phải có biện pháp hƣớng dẫn cho học sinh thích học
và có một phƣơng pháp tự học để đạt đƣợc kết quả học tập tốt, nhất là đối với môn
học mang tính trừu tƣợng hóa cao nhƣ môn Giáo dục công dân.
1.2.3. Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tự học trong việc học môn
Giáo dục công dân ở trường THPT Xuân Hòa

*Nguyên nhân khách quan
Trƣớc hết là các cấp quản lý chƣa thực sự quan tâm đến môn GDCD,
vẫn còn coi đó là môn phụ nên chƣa tạo điều kiện về bố trí GV và các điều
kiện cần thiết khác để GV GDCD nâng cao chất lƣợng dạy học. Bên cạnh đó,
Ban Giám hiệu Nhà trƣờng chƣa xác định đúng mục đích của môn học, hoặc
vì ƣu tiên cho mục đích khác mà họ cho là quan trọng hơn. Vì vậy, trƣờng

18


thƣờng xếp môn Giáo dục công dân học vào tiết 4 và tiết 5. Một nguyên nhân
chính nữa đó là: Khi GV dạy môn GDCD có việc đột xuất phải nghỉ dạy thì
Ban Giám hiệu Nhà trƣờng phân công chuyên môn GDCD cho các giáo viên
dạy bộ môn khác sang dạy ( GV dạy môn Ngữ Văn) thay nên hiệu quả giảng
dạy thấp, không chuyên sâu, làm cho các em không thấy đƣợc vai trò của môn
học trong khi môn học luôn có một phần quan trọng nhất là tri thức thực tế,
nội dung kiến thức của môn GDCD không “tĩnh”, nghĩa là không mang tính
ổn định, trừ một số nội dung về pháp luật, đặc thù môn học thật gần gũi với
đời sống lại phù hợp với sự thay đổi tâm lý của các em giúp các em liên hệ
với bản thân. Chính từ đó giúp các em định hƣớng, điều chỉnh thái độ, hành
vi phù hợp một cách nhanh nhất.
Bản thân không phải giáo viên chuyên ngành nên các GV dạy thay
chƣa vận dụng phƣơng pháp tự học cho các em mà chủ yếu là giảng dạy dƣới
hình thức đọc chép, giảng theo cảm tính và bài giảng còn mang hơi hƣớng
văn học .
* Nguyên nhân chủ quan
Hầu hết các em học sinh khi đƣợc hỏi về tự học môn GDCD đều trả lời:
“Do môn GDCD là môn phụ nên em không dành nhiều thời gian học, mà thay
vào đó em dành thời gian học các môn chính, những môn trực tiếp thi tốt
nghiệp và thi đại học, hơn nữa môn GDCD trừu tƣợng, khô khan. Các cô dạy

GDCD cũng hay tạo điều kiện cho chúng em học các môn ôn thi học sinh giỏi
hay những môn sắp thi tốt nghiệp vào giờ của mình”. Nhƣ vậy từ những
nguyên nhân trên ta thấy:
Về phía Nhà trường: chƣa quan tâm thỏa đáng đối với công tác giảng
dạy môn GDCD.
Về phía GV : chƣa thật sự tâm huyết với nghề, thiếu sự đầu tƣ cho công
tác giảng dạy, thiếu tự tin vào môn mình giảng dạy.

19


×