TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
ĐỎ THỊ QUỲ NH
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC XÂY
DựNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI
HỌC
•
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
ĐỎ THỊ QUỲ NH
HÀ NỘI, 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC XÂY
DỤNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
•
• • •
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Ngưòi hưótầg dẫn khoa học ThS. Chu Thị Diệp
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục chính
trị đã tận tình giúp đờ, hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa
luận, đặc biệt là thầy cô trong tố chủ nghĩa xã hội.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Chu Thị Diệp đã tận tình hướng dẫn em
trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
HÀ NỘI, 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Trong quá trình thực hiện khóa luận vì sự hạn chế về thời gian và kiến thức của
bản thân, nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong sự góp ý
của thầy cô và các bạn sinh viên đế khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn ỉ
Hà Nội, tháng 5, năm 2015 Sinh viên thực hiện
Đỗ Thị Quỳnh
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn Thạc sĩ Chu Thị Diệp.
Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Neu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
HÀ NỘI, 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Hà Nội, Tháng 5, năm 2015 Sinh viên thực hiện
Đỗ Thị Quỳnh
HÀ NỘI, 2015
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
59
MỞ ĐÀU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh viên là lực lượng xã hội to lớn, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực
lượng xung kích trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi phải có sự
hy sinh gian khố, phải có sức khỏe và sự sáng tạo. Sinh viên là độ tuối sung sức về
thể chất và sự phát triển về trí tuệ, sinh viên luôn năng động sáng tạo và muốn khắng
định mình. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm, chăm lo,
giáo dục, rèn luyện sinh viên đê họ trở thành những người có đủ sức đủ tài đế gánh
vác được tương lai của Tố quốc, của nhân dân. Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có căn dặn: “ Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm
rất quan trọng và cần thiết”.
Công cuộc đối mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn hai mươi năm qua
đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Toàn Đảng, toàn dân ta đang phấn đấu đế đến
năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp nhằm đưa đất nước “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đe đạt được mục tiêu này
thì sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ kỹ thuật là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, sự tăng
trưởng kinh tế không thế tách rời sự tiến bộ văn hóa - xã hội, sự phát trien con người.
Đại hội Đại biếu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đa nêu:
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt
quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp, ý thức cội nguồn và lòng tự hào dân tộc, khắc phục
tâm lí sử dụng đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Tiếp thu
tinh hoa văn hóa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam
[20, tr.ll].
Tinh thần này tiếp tục được Đảng ta khắng định tại Đại hội lần thứ IX, lần X,
XI của Đảng, rằng văn hóa là nên tảng tinh thần của xã hội, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đấy sự phát
triền kinh tế - xã hội. Điều đó đòi hỏi mỗi người Việt Nam, trong đó có đội ngũ sinh
6
viên phải hiếu biết sâu sắc những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mình, của
các thế hệ thanh niên, để tiếp tục phát huy những giá trị này trong cuộc sống.
Nen kinh tế thị trường đã cho thấy được những ưu thế của nó trong đời sống
hiện thực, thúc đấy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, công nghệ đồng thời tạo
điều kiện đế con người bộc lộ khả năng của mình. Con ngưòi trở nên năng động hơn,
sáng tạo hơn, nhạy bén và tự chủ hơn. Bên cạnh đó kinh tế thị trường cũng làm nảy
sinh các mặt tiêu cực, tạo ra một bộ phận dân cư sống thực dụng, cá nhân hẹp hòi,
bất chấp đạo lý, làm mai một giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Trong đó Sinh viên cũng đang bị tác động bởi những nhân tố trên. Quan trọng
hon đó là, sinh viên là lực lượng đặc biệt quan trọng và trong tương lai gần họ là lực
lượng lao động có trình độ, là bộ phận sẽ tham gia vào đội ngũ tri thức góp phần
quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó sinh
viên đang phải đối mặt với nhiều áp lực sau khi ra trường về việc làm, về năng lực
chuyên môn, ngoại ngữ, tin học... mà sự phát triển của xã hội đòi hởi.Trường Đại
học sư phạm Hà Nội 2 là một trường Đại học có số lượng sinh viên đông (năm 2015
là 20.000 sinh viên). Sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đang phải đúng
trước với nhừng thách mà sinh viên cả nước đang đối mặt.
Điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải nhận thức đúng đắn vai trò của việc
xây dựng và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo
đức mới cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội 2 nói riêng,
vấn đề kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và xây dựng đạo đức mới ở nước ta
hiện nay đó được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, nhưng vấn đề phát huy
giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên ở một
Trường Đại học cụ thế như Đại học Sư phạm Hà Nội 2 chưa có đề tài nào nghiên
cứu. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “ Phát huy vai trò của giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dụng đạo đức mói cho sinh viên Đại học SU' phạm Hà Nội 2 hiện nay
” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
7
2. Tình hình nghiên cửu đề tài
Phát huy giá trị truyền thống, trong đó có giá trị đạo đức và vấn đề xây dựng
đạo đức nói chung, xây dựng thế hệ trẻ nói chung, xây dựng đạo đức mới cho thế hệ
trẻ nói riêng đó được nhiều nhà khoa học nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, cụ
thế như: “Giả trị tinh thần truyền thong Việt Nam ” do Trần Văn Giàu chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích
các giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, đặc biệt là “chủ nghĩa yêu nước” Việt
Nam - cái làm nên bản sắc, tinh thần, cốt cách con người Việt Nam.
Vấn đề giữ gìn và nâng cao giá trị truyền thống cũng thu hút được nhiều sự
quan tâm nghiên cứu như: “Cảc giá trị truyền thong và con người Việt Nam hiện
nay” do Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang chủ biên đã nghiên cứu quá trình hình
thành, phát triến và biến đối của các giá trị truyền thống của người Việt Nam, đánh
giá những mặt mạnh, mặt yếu của di sản truyền thống đồng thời đưa ra những
phương hướng và giải pháp giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống.
Vũ Thị Huệ với luận văn thạc sỹ Triết học “Quan hệ giữa phát triển kinh tế
thị trường với việc giữ gìn và nâng cao những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
Việt Nam ” đã nghiên cứu những giá trị đạo đức truyền thống trước những thách
thức của nền kinh tế thị trường và những biện pháp đế giữ gìn và phát huy giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc ta.
Cao Thu Hằng với luận văn Thạc sỹ Triết học “Giả trị đạo đức truyền thong
và sự phát triền nhân cách con người ”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2002, cho thấy nhừng giá trị đạo đức truyền thống có ảnh hưởng to lớn đến
sự phát triển nhân cách. Khi xã hội có biến đổi, nó có thể gây ra sự xung đột khi nhìn
nhận, đánh giá những giá trị đạo đức truyền thống đó, và người ta có những quan
niệm khác nhau về ý nghĩa của giá trị đạo đức truyền thống khi đó, các giá trị đạo
đức truyền thống có một vai trò không nhỏ trong sự hình thành và phát triến nhân
8
cách. Đây chính là tiền đề khách quan đế xây dựng nhân cách Việt Nam vừa mang
tính hiện đại, vừa đậm đà bản sắc dân tộc trong một thế giới “phang” như hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm yụ của khóa luận
3.1.
Mục đích của khóa luận
Qua thực tế ở trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, phân tích thực trạng của việc
phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh
viên, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại
học sư phạm Hà Nội 2 hiện nay.
3.2.
Nhiệm vụ của luận vãn
Đế đạt được mục đích trên, khóa luận cần thực hiện những nhiệm vụ sau: Thứ
nhất: làm rõ giá trị đạo đức truyền thống.
Thứ hai: phân tích vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng
đạo đức mới cho sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội 2 hiện nay.
Thứ ba: phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức trong việc xây dựng đạo
đức mới cho sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội 2 hiện nay.
Thứ tư: đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền
thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội 2
hiện nay.
4. Đối tưọng và phạm vi nghiên cún của khóa luận
Những giá trị đạo đức truyền thống tích cực của người Việt Nam cần được đội
ngũ sinh viên kế thừa và phát huy .
Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu vai trò của giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
hiện nay.
9
5. Co’ sỏ’ lý luận và phưoìig pháp nghiên cún của khóa luận
Cơ sở lý luận chủ yếu của khóa luận là dựa trên nhũng quan điếm của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng, những nguyên lý đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, về đạo đức, đạo đức mới.
Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu: phân
tích, tống hợp, logic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học.......................
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Góp phần làm sáng tở sự cần thiết phải phát huy giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dựng đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay trong đó có sinh
viên Đại học sư phạm Hà Nội 2.
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tố chức, các đoàn thế
trực tiếp làm công tác thanh niên.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa
luận gồm 3 chương, 6 tiết.
Chu'0'ng 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG ĐÓI VỚI VIỆC XÂY DựNG ĐẠO
ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
HIỆN NAY
1.1.
Môt số lí luân về giá tri đao đửc truyền thống của người Viêt Nam
•
1.1.1.
•
o
•
•
%}
o
o
•
Khải niệm giá trị, giá trị đạo đức
Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri
thức triết học. Đen đầu thế kỷ XX, giá trị học mới bắt đầu hình thành như một khoa
học độc lập. Khái niệm “giá trị” trở thành trung tâm của giá trị học. Ngoài ra, nó còn
được sử dụng trong các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học,
kinh tế học...với những nội dung rộng, hẹp khác nhau.
1
0
Xung quanh khái niệm “giá trị” cũng có nhiều cách hiểu khác nhau do xuất
phát từ góc độ tiếp cận và nhằm những mục đích không giống nhau. Song, có thế
thấy những điểm chung được đề cập đến trong quan niệm về “giá trị”, đó là:
Thứ nhất, giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần có khả
năng thoả mãn nhu cầu tích cực của con người, là nhũng thành tựu góp phần vào sự
phát triển của xã hội. Như vậy, việc khẳng định nội dung của giá trị đã bao hàm
trong nó sự phân biệt vói các sự vật, hiện tượng mà ta gọi là “phản giá trị”, “vô giá
trị”- tức là những gì đi ngược lại sự phát triến của lịch sử, ngăn cản sự tiến bộ của xã
hội.
Thứ hai, giá trị có tính lịch sử - khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay
mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người, mà do yêu
cầu của từng thời đại lịch sử, trong đó có con người sống và hoạt động.
Thứ ba, giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thế
trong quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thế hiện sự đánh giá, lựa chọn của
chủ thế đối với sự vật, hiện tượng ấy.
Thứ tư, giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con người, được
xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được
kiếm tra bằng thực tiễn. Thực tiễn “vừa là tiêu chuấn của chân lý về bản chất của
khách thế, vừa là tiêu chuấn chân lý về giá trị của khách thế” [9, tr 29]. Theo
V.I.Lênin : “....toàn bộ thực tiễn của con người, thực tiễn này vừa với tính cách là
tiêu chuấn của chân lý, vừa với tính cách là kẻ xác định một cách thực tế mối liên hệ
giữa sự vật với những điều cần thiết đối với con người, cần phải được bao hàm trong
“định nghĩa””.
Sự đánh giá đúng đắn của một giá trị không chỉ căn cứ vào nhu cầu, lợi ích của
chủ thế đánh giá mà còn phải căn cứ vào hiệu quả xã hội của hoạt động của chủ thế
theo đuối những giá trị nhất định.
1
1
Thứ năm, giá trị đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là
cái mà con người dựa vào đê xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của
mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuối. Giá trị là cơ sở của các chuẩn
mực, quy tắc xác định cách thức hành động của con người. Nói cách khác, cách thức
và hành động của con người trong xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị, người ta dựa
vào các giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động
phù hợp nhất. Giá trị là động cơ thúc đấy hoạt động của con người vì các nguyện
vọng và mục đích của cá nhân đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc
của nhân cách.
Trong việc nghiên cứu giá trị, do nhừng mục đích cụ thê khác nhau mà người
ta thường phân loại giá trị theo cách của riêng mình, ở cấp độ chung nhất, các giá trị
được chia thành: giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thường được thể hiện một cách rõ nét trong kinh tế, nó quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là nhừng phấm
chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng,
đạo đức, văn hoá, nghệ thuật, phong tục tập quán... Từ đó, giá trị tinh thần được phân
thành các loại giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị thấm mỹ,
giá trị chính trị.
Giá trị khoa học gắn với quá trình con người vươn lên nắm bản chất, quy luật
của hiện thực khách quan đế ngày càng làm chủ những điều kiện sinh hoạt của mình.
Giá trị thấm mỹ gắn với nhu cầu thưởng thức, đánh giá, hưởng thụ và sáng tạo cái
đẹp trong cuộc sống và trong nghệ thuật.
Giá trị đạo đức gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo
hướng tạo nên sự thống nhất hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Những
giá trị tinh thần ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống của nhân dân và chúng trở thành
những chuẩn mực để con người đánh giá, phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp
1
2
trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với xã hội, con người với
con người.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và
được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con
người với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đối theo
sự biến đối của đòi sống xã hội.
Nghiên cứu sâu hơn về bản thân các giá trị, nếu xét theo chiều thời gian (lịch
đại), có thế phân thành giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Mỗi dân tộc đều có
truyền thống lịch sử của riêng mình.
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thắng của người Việt Nam
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành và phát
triển qua hàng ngàn năm lao động sáng tạo, chiến đấu kiên cường của cả dân tộc. Là
kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu đế xác định các giá trị đạo đức truyền thống đã
thu hút sự quan tâm của nhiều học giả.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù sáng tạo,
trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc.
Còn Giáo sư Trần Văn Giàu khi nói về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam lại sắp xếp: “Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương
người, vì nghĩa” [8, tr.108].
Giáo sư Nguyễn Hồng Phong lại nhận định: tính cách dân tộc gần như là tất cả
nội dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thế - cộng đồng, trọng
đạo đức, cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu
chuộng hoà bình, nhân đạo lạc quan.
1
3
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn về công tác tư tưởng
hiện nay chỉ rõ: “ Những giá trị văn hoá truyền thống vững bền của dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người
như thế thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động” [7, tr. 19].
Giá trị đạo đức truyền thống tiêu biếu của dân tộc Việt Nam ta đó chính là:
Truyền thong yêu nước, là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó là “sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt
Nam từ cổ đại đến hiện đại” [8, tr. 100], là “tiêu điểm của các tiêu điếm, giá trị của
các giá trị” [8, tr. 94], là “động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời
là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta” [19, tr.74].
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã gắn con
người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình, chính vì vậy truyền thống yêu
nước của dân tộc Việt Nam được bắt nguồn từ tình yêu quê hương làng xóm, yêu cây
đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm...
Nơi con người hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên đế duy trì và xây dựng
cuộc sống. Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn với lịch sử lâu dài và liên tục các cuộc
chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Truyền thong nhân ái, yêu thương con người là
một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, truyền thống này bắt
nguồn sâu xa từ trong sinh hoạt công xã nông thôn, được củng cố, phát tri en qua quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tấm lòng nhân nghĩa, nhân ái chính là cơ sở
cho cách xử thế của người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Với
người Việt Nam, sống là hết lòng vì nghĩa cả, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó
khăn mà không hề tính toán, là lên án một cách mạnh mẽ những kẻ xấu, “tán tận
lương tâm”, “phụ tình bạc nghĩa”
Từ trong lịch sử, nhân dân Việt Nam luôn gắn tình yêu quê hương đất nước với
lòng nhân ái, yêu thương con người. Cho nên con người yêu nước với con người yêu
1
4
dân luôn gắn bó chặt chẽ nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn đứng
trước nguy cơ xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết chúng ta hiếu rõ quyền sống của
mình gắn với vận mệnh tố quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái, vì con người của dân tộc ta còn thê hiện ở lòng vị tha cao
thượng, không cố chấp đối với những người lầm đường, lạc lối. Chính tư tưởng “lấy
nhân nghĩa đế thắng hung tàn, lấy chí nhân đế thay cường bạo” trong Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi là sự thể hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt lấy tình
yêu thương đế làm cách xử thế ở đời, đối với kẻ thù, thậm chí còn mở đường hiếu
sinh khi thua trận, Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh, còn cấp lương
thảo và phương tiện cho đám tàn quân về nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu cho lòng nhân ái, nhân nghĩa của
con người Việt Nam. Tư tưởng của Người được xuất phát từ lòng yêu thương con
người, trước hết là người lao động, lòng yêu quê hương, đất nước. Bác đã giành cả
cuộc đời mình cho độc lập của dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Do vậy, truyền thống nhân nghĩa nhân ái là một trong nhừng truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta. Nó là cái gốc của đạo đức, là nguyên do sâu xa, bền chặt của chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực.
Truyền thong cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo là một trong những giá trị
đạo đức có từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triến trong
nhũng điều kiện tự nhiên và xã hội hết sức khó khăn.về tự nhiên: liên tục xảy ra bão
lụt, hạn hán; về xã hội: liện tục chiến tranh chống giặc ngoại xâm.. Dầu vậy, trong
suốt chiều dài lịch sử dân tộc, nhân dân ta vẫn kiên trì bám đất, bám làng, vừa sản
xuất vừa đánh giặc đế tồn tại và bảo vệ tố quốc. Với đức tính cần cù và tiết kiệm, dân
tộc Việt Nam đã không chỉ đứng vững mà còn từng bước khẳng định vai trò, vị thế
của mình trong khu vực và trên thế giới.
1
5
Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì vậy cần mà
không kiệm thì khác nào: “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng nêu rõ: con người phải có bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính.
Truyền thong đoàn kết, của dân tộc Việt Nam cũng hoà vào dòng chảy của chủ
nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây là nhân tố tinh
thần họp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Đoàn kết là
sức mạnh tống hợp của cả dân tộc trong việc xây dựng và bảo vệ tố quốc, là điều
kiện tất yếu đế thể hiện ý chí tự lực, tự cường dân tộc, ngay cả khi đất nước có chiến
tranh hay khi bước vào hoà bình. Nó đã trở thành điếm tựa tinh thần vững chắc, một
động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Truyền thong hiếu học, là một nội dung trong học thuyết của Nho giáo, khi vào
Việt Nam được dân tộc ta tiếp biến, trở thành một nội dung đạo lý của người Việt
Nam. Học trò nước ta luôn ghi nhớ: “Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” hay “ Không thầy
đố mày làm nên”, đó là một triết lý sống của người Việt Nam. Hiếu học là một
truyền thống trong giáo dục của người Việt từ xưa tới nay. Ngay từ buối đầu dựng
nước, ông cha ta đã nhận ra tầm quan trọng của giáo dục, cho nên, việc chăm sóc và
bồi dưỡng nhân tài đã được thực hiện sớm. Trong sự nghiệp đối mới đất nước, Đảng
ta ý thức một cách sâu sắc rằng: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là một trong
những động lực quan trọng thúc đấy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, là điều kiện đế phát huy nguồn lực con người. Việc phát huy truyền thống hiếu
học, tôn trọng người hiền tài càng trở nên có ý nghĩa, tôn trọng trí thức, tôn trọng
hiền tài, tôn trọng sáng tạo trên cơ sở, nền tảng đạo đức trong sáng.
Có thế nói các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam không chỉ tạo nên sức
mạnh cho nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thách thức trong lịch sử. Trong hiện
tại,các giá trị đạo đức ấy đang là động lực to lớn góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đối mới đất nước.
1
6
Cơ sơ hình thành và phát triển những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam là do những thế hệ con người Việt Nam nối tiếp nhau tạo thành, dựa trên
những điều kiện kinh tế - xã hội của dân tộc ta trong suốt tiến trình lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
ta được cô đúc trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của dân tộc, nó gắn liền với
đời sống, với những thăng trầm của dân tộc. Toàn bộ giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc là cái thề hiện cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ nét nhất bản chất dân tộc. Đồng
thời nó cũng chính là sức mạnh nội sinh để dân tộc ta tồn tại và phát triển.
1.2.
Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo
đửc mói cho sinh viên đại học sư phạm Hà Nội 2 hiện nay
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang đấy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, bên cạnh đó là sự mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế nhằm thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong điều kiện
như vậy, con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Do đó, con người
cần phải có những phấm chất cần thiết cho xã hội hôm nay, những phấm chất mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường gọi là "đạo đức mới” hay “đạo đức cách
mạng”.“Đạo đức mới” hay “đạo đức cách mạng” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến
là nền đạo đức tiếp thu, kế thừa từ truyền thống dân tộc như: "Lòng nước thương
dân", "Tinh thần tương thân tương ái" ...
1.2.1.
Bản chất của đạo đức mới
C.Mác, Ph.Ảngghen, là những người đầu tiên đưa ra khái niệm "đạo đức vô
sản". Trong tác phấm "Chống Duy-rinh" (1876), sau khi xem xét đạo đức phong
kiến, đạo đức tôn giáo, đạo đức khai sáng, đạo đức tư sản, Ph.Ăngghen đi đến khẳng
định: "Thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi
ích của tương lai, tức là đạo đức vô sản - là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất
những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài" [16, tr. 136]. Đạo đức vô sản là đạo
1
7
đức mang bản chất giai cấp vô sản, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên
tiến, cách mạng đương thời.
Sau Cách mạng Tháng Mười, Lênin cũng rất chú ý đến việc xây dựng kiểu đạo
đức mà Lênin gọi là "Đạo đức cộng sản”. "Đạo đức cộng sản" về bản chất là sự phát
triển mới của đạo đức vô sản trong điều kiện giai cấp vô sản đó tiến hành cách mạng
lật đố giai cấp thống trị, giành được chính quyền nhà nước. Đạo đức cộng sản là đạo
đức cần có và cần được xây dựng trong quá trình giai cấp công nhân và nhân dân lao
động bắt tay vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội trong đó chính mình làm
chủ.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, cụ thể hoá
cho phù hợp với điều kiện thực tế, Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức mới: "Mang bản
chất của giai cấp công nhân, kết họp vói những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
những tinh hoa đạo đức của nhân loại" [1, tr. 179].
Khi nói về đạo đức, Hồ Chí Minh đó sử dụng những khái niệm, những phạm
trù đạo đức quen thuộc, đưa vào đấy những nội dung mới, đồng thời bố sung những
khái niệm, những phạm trù mới.
Đe xây dựng đạo đức mới, Hồ Chí Minh chủ trương phải có sự kế thừa và đổi
mới từ các nội dung của đạo đức cũ (đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức
tôn giáo), kết hợp với một số nội dung mới, Đạo đức mới ấy được Hồ Chí Minh gọi
là "Đạo đức cách mạng". Trên tạp chí Học tập số 12, trong bài “Đạo đức cách
mạng” Người viết: ”Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân
dân" [18, tr.285]
Có thế nói, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, đạo đức
cộng sản hay đạo đức mới tiêu biếu cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thê
nhân dân lao động, nó có sứ mệnh góp phân thủ tiêu hoàn toàn sự áp bức, bóc lột. So
với các nền đạo đức trước đây, đạo đức mới là bước phát triển về chất. Nó chứa đựng
1
8
và kế thừa tất cả những nội dung tốt đẹp nhất của các nền đạo đức trong các thời đại
trước. Và thế, đạo đức mới bao hàm nhiều yếu tố đạo đức chung của cả nhân loại.
Cơ sở kinh tế - xã hội của đạo đức mới được hình thành trên cơ sở chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, do đó đạo đức mới hoàn toàn đối lập với đạo đức của giai
cấp bóc lột và là vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân. Bản chất của đạo đức mó’i
được biểu hiện ở nội dung sau:
Một là, chủ nghĩa tập thế là cơ sở của đạo đức mới.
Chủ nghĩa tập thế là sự thống nhất tự giác giữa những cá nhân với những lý
tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất giữa tình đồng chí, tinh thần trách
nhiệm, thái độ tôn trọng, tinh thần họp tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đảm bảo cho
các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ lợi ích của xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên
tắc đạo đức cơ bản trong chủ nghĩa xã hội là phải có sự thống nhất giữa các lợi ích
của cá nhân với lợi ích của cộng đồng. Trong chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tập thế trở
thành quan hệ xã hội phố biến, thế hiện trong mối quan hệ xã hội và trong mọi hình
thức của đời sống xã hội.
Chủ nghĩa tập thế đòi hỏi phải kiên quyết chống lại chủ cá nhân và chủ nghĩa
phường hội và chủ nghĩa phường hội chang qua chỉ là sự biến tướng của chủ nghĩa
cá nhân, chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều cái xấu như: lười biếng, ngại khó khăn, gian
khố, tranh việc dễ, đùn việc khó cho người.... Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn
luôn nhắc nhở cán bộ và nhân dân ta phải nâng cao tinh thần tập thể đế chống chủ
nghĩa cá nhân. Chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng không “giày xéo lên lợi ích cá
nhân”.
Hai là, lao động tự giác sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới.
Lao động là hoạt động sáng tạo của con người để cải biến tự nhiên, xã hội và
chính mình phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con người, với sự phát triển và tiến bộ
xã hội.
1
9
Lao động là một hiện tượng xã hội, là một hoạt động có ích cho xã hội, đây là
lý tưởng đạo đức cao nhất của con người. Trong cuộc sống, người ta có nhiều chuẩn
mực để đo phẩm giá của con người như: lương tâm trong sáng, động cơ hành vi hợp
đạo đức, có nhu cầu tinh thần và xã hội phát triển cao, lành mạnh thực hiện tốt các
chuấn mực đạo đức. Người lao động chỉ được kính trọng khi có thái độ lao động
đúng đắn, biếu hiện cụ thế là:
- Lao động cần cù, khoa học sáng tạo, lao động với năng suất, chất lượng hiệu
quả.
- Chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô, tham nhũng.
- Coi trọng lao động trí óc và chân tay
- Yêu quý lao động của mình và của người khác
Ba là, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế
Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, yêu nhân dấn lao động Tố quốc xã hội chủ
nghĩa là tố quốc của nhân dân. Nhà nước xã hội là thành quả đấu tranh cách mạng
của toàn dân, là nước của dân, do dân và vì dân. Đây là nhà nước đại diện cho sự
thống nhất công bằng và văn minh nhất.
Lý tưởng chủ nghĩa xã hội và lý tưởng của dân tộc là thống nhất. Yêu nước xã
hội chủ nghĩa là lòng tụ’ hào dân tộc, lòng tự hào về sức lao động, sản xuất, lòng tự
hào về những người anh hùng bất khuất bảo vệ Tố quốc, bảo vệ nhân dân, là tinh
thần xả thân vì sự nghiệp cách mạng xã hôi chủ nghĩa, vì độc lập tự do của Tố quốc.
- Yêu nước trên lập trường chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân biếu hiện bản chất tốt đẹp của
giai cấp công nhân nhằm đoàn kết, giúp đờ và giải phóng nhân dân lao động toàn thế
giới khỏi mọi xiềng xích áp bức bóc lột của kẻ thống trị. Thực tế lịch sử cho thấy,
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế có quan hệ hữu
cơ không thế tách rời. Muốn hoàn thành
nhiệm vụcách
mạng dân tộc phải làm tốt nhiệm vụ quốc tế. Sự kết họp giữa chủ
2
0
nghĩa
yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế trở thành một nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức mới.
Song cần chống quan điểm của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và các quan điểm đạo đức
khác trái với đạo đức mới.
Bon là, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa lý
tưởng nhân đạo trong lịch sử nhân loại. Đây là chủ nghĩa nhân đạo có tính
chất hiện thực và trực tiếp nhằm giải phóng con người chứ không phải chỉ là những
cảm nhận xót thương về thân phận con người. Trên ý tưởng đó, chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản là nội dung cơ bản của đạo đức mới.
Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo triệt đế nhất, là chủ nghĩa nhân đạo
hiện thực. C.Mác đã khái quát rằng:
Chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự xoá bở một cách tích cực chế độ tư hữu
- sự tự tha hoá ấy của con người - và do đó với tính cách là sự chiếm hữu một cách
thực sự bản chất con ngưòi bởi con người và vói con người ... Chủ nghĩa cộng sản
như vậy, với tính cách là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa
tự nhiên.
Chủ nghĩa nhân đạo mác-xít đề cập đến tình yêu thương của con người trong
lao động, chứ không nói đến sự cảm thông và tình yêu đối với con người nói chung,
không kể người đó tốt hay xấu. Đồng thời, chủ nghĩa nhân đạo mác-xít cũng tỏ rõ
thái độ phẫn nộ với những thế lực đối địch với người lao động. Chủ nghĩa nhân đạo
mác-xít với sự công minh khuyến khích, tạo điều kiện cho cái tốt phát triển và phê
phán, trừng trị, loại bỏ cái xấu.
1.2.2.
Vai trò của các giá trị truyền thống đối với việc xây dựng đạo đức
mới cho sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội 2 hiện nay
Giá trị đạo đức truyền thống có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng đạo
đức mới cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội 2
nói riêng.
2
1
Thứ nhất, giá trị đạo đức truyền thống là nền tảng, cơ sở để xây dựng đạo đức
mới cho con người, đặc biệt là đối với sinh viên là thế hệ trẻ, là chủ nhân tương lai
của đất nước trong xã hội hiện nay. Dựa vào những giá trị truyền thống, người ta có
thế thấy được sự tiếp nối, sự liên kết giữa quá khứ - những giá trị đạo đức truyền
thống mà ông cha ta xây dựng. Trên cơ sở nhũng giá trị truyền thống đó, gốc rễ đó
chúng ta xây dựng những giá trị đạo đức mới.
Các giá trị đạo đức truyền thống còn tạo điều kiện và là yếu tố đảm bảo cho
đạo đức mới được hình thành, được khắng định và phát triển vững chắc. Các giá trị
đạo đức truyền thống làm nên bản sắc văn hóa, tâm hồn, lối sống con người Việt
Nam từ thời ông cha ta đến ngày nay. Sự hình thành và phát triển của đạo đức sinh
viên Việt Nam nói chung và sinh viên Đại học sư phạm Hà Nội 2 nói riêng cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Giá trị đạo đức mới của sinh viên là sự kế thừa các giá
trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phát huy các giá trị truyền thống đáng tự hào
của các thế hệ sinh viên và kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức mới của thời
đại.
Giá trị truyền thống có vai trò tích cực trong việc truyền lại cho thế hệ đang
trưởng thành như sinh viên những giá trị đạo đức mà các thế hệ trước tạo ra, đế xây
dựng lối sống đạo đức có sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại, một lối sống
đạo đức mới có ứng xử văn hóa cao.
Giá trị đạo đức truyền thống còn ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển
yếu tố tài năng trong mỗi sinh viên. Neu không có những giá trị đạo đức truyền
thống làm cơ sở, nền tảng thì sẽ rất khó phát triển hoặc phát triển một cách lệch lạc.
Ví dụ: Chủ nghĩa yêu nước là động lực, là nguồn thôi thúc, động viên con người Việt
Nam hăng hái học tập, lao động sáng tạo, rèn luyện, có tài và đức để phục vụ đất
nước, nhân dân.
2
2
Thứ hai, các giá trị truyền thống là động lực, là ngọn nguồn phát triến dân tộc,
tạo nên sức mạnh tinh thần và bản lĩnh cho thế hệ sinh viên vươn lên trong thời kỳ
hội nhập của đất nước.
Trong giai đoạn đất nước ta ngày càng mở của giao lưu và hội nhập đã mở ra
cho con người những thời cơ và thách thức, trong đó nảy sinh nhiều vấn đề nhất là
biến đối về mặt đạo đức. Trong đó, đồng tiền trở thành yếu tố cực kỳ quan trọng
trong việc điều tiết các quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Điều này
ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của phần lớn thanh niên sinh viên hiện nay. Với sự bồng
bột, non trẻ, ít kinh nghiệm sống nên rất dễ bị cám dỗ trước các giá trị vật chất, dễ bị
cuốn vào vòng xoáy của cái “lợi” mà quên đi những giá trị làm người, đánh mất
lương tâm và danh dự... Bên cạnh đó các thế lực thù địch, luôn tìm cách chống phá,
phá hoại những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đạt được, nhất là trên lĩnh vực
tư tưởng, văn hóa. Thế hệ trẻ Việt Nam rất dễ bị làm “mất phương hướng” với những
thủ đoạn thâm độc của chúng bằng cách mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo thanh niên sinh
viên tiếp cận với những yếu tố phản văn hóa, hình thành tư tưởng hưởng thụ, lối
sống lệch lạc, bản năng, vị kỷ, vô cảm, thiếu trách nhiệm.
Vì thế, hơn lúc nào hết các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sẽ
trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc, khơi dậy ở sinh viên lòng tự hào, tự tôn dân
tộc tình yêu Tố quốc, dẫn dắt họ vượt qua những thử thách, có ý chí vươn lên là chủ
cuộc sống, xây dựng và giữ gìn lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời
đại mới.
Giá trị đạo đức truyền thống là nền tảng để tạo ra đội ngũ trí thức tương lai,
đồng thời góp phần phát huy nguồn lực con người - đây là vấn đề mang tính chiến
lược trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ ba, phát huy giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên góp phần xây
dựng hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho họ, giúp họ đứng vững
trước tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa hiện nay. Nhân cách
2
3
sinh viên, sự hình thành, phát triển của nó quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội,
nhưng cái trực tiếp tác động đến quá trình xây dựng nhân cách đạo đức ở tầng sâu
của nó là lợi ích. Lợi ích cá nhân đóng vai trò trực tiếp, là cơ sở cho hoạt động tích
cực, tự giác của con người. Lợi ích xã hội là điều kiện đóng vai trò định hướng cho
việc thực hiện lợi ích cá nhân. Sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là
động lực phát triển cho nhân cách của người sinh viên. Ớ đây, sinh viên tiếp thu giá
trị đạo đức truyền thống góp phần nâng cao nhận thức và hành động cho họ trong
việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống với tư
cách là “hệ chuấn giá trị”, có vai trò như một màng lọc
màu nhiệm, giúp sinh viên phân biệt đúng - sai, tốt xấu, giúp họ xác định “nên” và “không nên” trong hành vi,
ứng xử, từ đó có khả năng lựa chọn đúng đắn và tiếp thu
những giá trị tiến bộ, văn minh của nhân loại cũng như
biết thanh lọc, loại bỏ những phản giá trị, góp phần quan
trọng cho việc xây dựng lối sống mới hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Như vậy, giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị
tinh thần của dân tộc Việt Nam, là nhân lõi, là sức sống của dân tộc. Giá trị truyền
thống là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được xác định là những chuấn mực,
những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử của con người với con người,
giữa con người với tự nhiên. Đặc điếm cơ bản của giá trị truyền thống nói chung, giá
trị đạo đức truyền thống nói riêng là sự kế thừa.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã luyện
và đào tạo nên những thê hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương con
người, cần cù, thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó... Những đức tính tốt đẹp
đã đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà hàng ngàn
đời nay chúng ta vẫn gìn giữ quý trọng.
Vai trò của giá trị đạo đức truyền thống là cơ sở, nền tảng, là động lực, là
ngọn nguồn dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần và bản lĩnh cho thế hệ sinh viên, giá
2
4
trị đạo đức truyền thống truyền lại cho thế hệ đang trưởng thành như sinh viên những
giá trị đạo đức mà các thế hệ trước tạo ra, đế xây dựng một lối sống thống nhất giữa
truyền thống và hiện đại. Giá trị đạo đức truyền thống là cốt lõi vững chắc để xây
dựng giá trị đạo đức mới cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học sư phạm Hà
Nội 2 nói riêng
Chương 2
PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC XÂY
DỤNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC su PHẠM
HÀ NỘI 2 HIỆN NAY
2.1.
Tống quan về trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 và sinh viên
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
2.1.1.
Tống quan về trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 là trường đại học được thành lập ngày 14
tháng 8 năm 1967 theo Quyết định số 128/CP của Hội đồng chính phủ. Nhiệm vụ
chính của trường là đào tạo cử nhân đại học và sau đại học các ngành: Sư phạm
Toán, Sư phạm Vật lý, Cử nhân khoa học ngành Ngữ văn, Sư phạm Giáo dục Tiểu
học, Giáo dục Tiểu học...góp phần cung cấp nguồn nhân lực sư phạm cho cả nước.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 được thành lập theo Quyết định số 128/CP,
ngày 14/8/1967 của Hội đồng Chính phủ, trên cơ sở chia tách Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội thành 03 trường: Đại học Sư phạm Hà Nội 1, Đại học Sư phạm Hà Nội
2 và Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Trụ sở ban đầu được đặt ở Cầu Giấy, Từ
Liêm, Hà Nội. Trong khoảng thời gian này, chiến tranh Việt Nam đang hồi ác liệt
nên nhiều cán bộ, sinh viên của Trường đã tình nguyện lên đường nhập ngũ, trực
tiếp tham gia chiến đấu
Ngày 11/10/1975, Bộ trưởng Bộ Giáo dục ra Quyết định số 872/QĐ về việc cải
tạo xây dựng trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 (nay là trường Đại học Sư phạm Hà
2
5