Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Ảnh hưởng của những giá trị nho giáo đối với đời sống văn hóa xã hội hàn quốc hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.91 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
Trang
Tính cấp thiết của đề tài

1

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu

4

Mở đầu

4

1. Đối với văn hóa gia đình

5

1.1. Ảnh hưởng tích cực

5

1.2. Ảnh hưởng tiêu cực



13

2. Đối với văn hóa giáo dục

16

2.1. Ảnh hưởng tích cực

16

2.2. Ảnh hưởng tiêu cực

20

3. Đối với văn hóa công ty

23

3.1. Ảnh hưởng tích cực

24

3.2. Ảnh hưởng tiêu cực

27

4. Đối với văn hóa cộng đồng

27


4.1. Ảnh hưởng tích cực

29

4.2. Ảnh hưởng tiêu cực

31

Kết luận

34

Tài liệu tham khảo

36


1
ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG GIÁ TRỊ NHO GIÁO
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA - XÃ HỘI HÀN QUỐC HIỆN ĐẠI
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trước đây, trước khi GS Đỗ Hoài Nam nhận chức Chủ tịch Viện Khoa
học xã hội, các Viện đều có đề tài cấp Viện, trong đó, những đề tài làm trong ba
năm liền, đạt chất lượng, được Hội đồng khoa học thông qua thì có thể ra một cuốn
sách. Tôi có tham gia với đề tài Đặc điểm Nho giáo Hàn Quốc, đã được Hội đồng
khoa học duyệt và thông qua đề cương và tôi đã hoàn thành được 3 chương.
Nhưng, do tình hình biến đổi nên phải dừng lại. Từ bấy đến nay, tôi vẫn theo dõi,
nghiên cứu vấn đề này và viết bài với nhiều góc cạnh khác nhau. Bây giờ, Viện
Hàn Lâm KHXH lại tiếp tục cho thực hiện đề tài cấp cơ sở nên tôi muốn được viết

tiếp chương cuối và hoàn thành về cơ bản nội dung cuốn sách.
1.2. Hàn Quốc hiện nay là một quốc gia theo đường lối chính trị tư bản chủ
nghĩa, kinh tế theo hướng thị trường tư bản chủ nghĩa, xã hội theo hướng dân chủ,
tự do, nhưng, Hàn Quốc không giống như các nước phương Tây. Hàn Quốc là một
quốc gia phương Đông, tiếp nhận văn hóa Trung Hoa từ lâu đời, cộng với bản sắc
của văn hóa Hàn Quốc nên có một sắc thái văn hóa riêng. Trong cái riêng đó, có sự
hiện diện của những giá trị Nho giáo và nó còn ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa
gia đình, văn hóa giáo dục, văn hóa công ty, văn hóa cộng đồng .v.v…thời hiện
đại.
Chính vì vậy, nghiên cứu vấn đề Những giá trị Nho giáo đối với xã hội Hàn
Quốc hiện đại, nghiên cứu những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó đối với
con người Hàn Quốc, xã hội Hàn Quốc hết sức có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Nó góp
phần giúp chúng ta, nhất là những người quan tâm tới Hàn Quốc, xã hội Hàn Quốc
hiện đại, tránh những ngộ nhận về đất nước, con người, xã hội Hàn Quốc thời nay.
Thêm nữa, đất nước con người Việt Nam ta, văn hóa Việt Nam ta cũng trải qua


2
hàng nghìn năm phong kiến giống như Hàn Quốc,cũng tiếp nhận văn hóa Trung
Hoa và giá trị của Nho giáo không phải không còn tồn tại, ảnh hưởng tới con
người, xã hội Việt Nam. Bởi vậy, ta cũng có thể tham khảo hoặc rút ra những bài
học kinh nghiệm nhằm tiến tới xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là phân tích, làm rõ những ảnh hưởng tích cực và tiêu
cực của văn hóa Nho giáo đối với con người và xã hội Hàn Quốc hiện đại.
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ của đề tài là:
Phân tích ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến:
+ Văn hóa gia đình
+ Văn hóa giáo dục

+ Văn hóa công ty
+ Văn hóa cộng đồng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là văn hóa Nho giáo truyền thống, văn hóa gia đình và
xã hội Hàn Quốc.
Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa xã hội tiêu biểu
như đã nêu trên chịu ảnh hưởng của giá trị văn hóa Nho giáo truyền thống ở Hàn
Quốc thời hiện đại.
4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng cách tiếp cận lịch sử cụ thể, văn hóa học, nghiên cứu các vấn
đề văn hóa xã hội Hàn Quốc hiện đại, từ những cái chung đến cái riêng của vấn đề
đã nêu.
Các phương pháp nghiên cứu chính là phân tích, tổng hợp. Đề tài được
nghiên cứu chủ yếu theo phương pháp phân tích định tính trên cơ sở các tài liệu
cuả Hàn Quốc, Việt Nam và trải nghiệm của người viết khi học tập và nghiên cứu
ở Hàn Quốc cùng với các kỷ yếu hội thảo và một số bài viết đã được công bố.


3
5. Nội dung
Đề tài không viết lại những giá trị của văn hóa Nho giáo truyền thống như
Lễ, Nghĩa, Dũng, Tín, tam cương, ngũ luân… bởi các phần viết trước đây đã nêu,
chỉ nêu khái quát nhất, xen kẽ vào từng mục nhỏ, mà tập trung vào hai phần chính
là ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó đối với những vấn đề văn hóa xã hội tiêu
biểu. Cho nên, ngoài phần Mở đầu và Kết luận ra, bố cục được sắp xếp như sau:
1. Đối với văn hóa gia đình
1.1 Ảnh hưởng tích cực
1.2 Ảnh hưởng tiêu cực
2. Đối với văn hóa giáo dục
2.1 Ảnh hưởng tích cực

2.2 Ảnh hưởng tiêu cực
3. Đối với văn hóa công ty
3.1 Ảnh hưởng tích cực
3.2 Ảnh hưởng tiêu cực
4. Đối với văn hóa cộng đồng
4.1 Ảnh hưởng tích cực
4.2 Ảnh hưởng tiêu cực


4
Mở đầu
Nho giáo được sản sinh ra ở Trung Quốc vào thời Xuân thu – Chiến quốc,
do Khổng Khâu (thường gọi là Khổng Tử: 551 TCN – 479TCN), người nước Lỗ
sáng lập ra. Ông là người đã san định, hiệu đính, giải thích Ngũ kinh, tức Kinh thi,
Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Sau khi ông mất, học trò tập hợp những lời dạy của thày
lại soạn ra Luận ngữ. Học trò xuất sắc của Khổng Tử là Tăng Sâm (thường gọi là
Tăng Tử) dựa vào lời thày soạn sách Đại học. Một người cháu nội của Khổng Tử,
đồng thời cũng là học trò giỏi của Ông là Khổng Cấp (thường gọi là Tử Tư) viết ra
sách Trung dung. Sang thời Chiến quốc, nhiều học phái nổi lên, có người là Mạnh
Kha (thường gọi là Mạnh Tử) đã ủng hộ, biện luận chặt chẽ, khúc triết, có tính
thuyết phục cao, bảo vệ xuất sắc tư tưởng của Khổng Tử. Những lời biện luận của
Mạnh Tử về sau được học trò biên soạn lại thành sách Mạnh Tử. Bốn bộ sách trên
về sau hợp lại gọi là Tứ thư. Ngũ kinh và Tứ thư là những bộ sách kinh điển của
Nho gia, được truyền bá cho đến tận ngày nay. Như vậy, Mạnh Tử đã khép lại một
giai đoạn quan trọng hình thành nên Nho giáo, thường được gọi là Nho giáo Khổng
– Mạnh. 1
Đến đời Hán Vũ đế (140 TCN – 25TCN), ông vua này nghe theo lời khuyên
của Đổng Trọng Thư, lần đầu tiên đưa Nho giáo lên địa vị quốc giáo. Từ đây, Nho
giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến Trung Hoa và càng
ngày càng hoàn thiện hơn. Trải các triều đại đến đời Tống, hai anh em Trình Di,

Trình Hạo và Chu Hy còn chú thích, giải nghĩa kỹ càng hơn, phục vụ đắc lực hơn
cho khoa cử Nho giáo và thực tế đương thời nên thường được nói tới là Trình-Chu
hoặc Cửa Khổng – Sân Trình.
Nho giáo không chỉ dừng lại ở khuôn viên đại lục Trung Hoa mà nó còn
được truyền bá nhanh, mạnh sang các nước Đông Á. Tuy nhiên, sự truyền bá và
1

Còn có những tên gọi khác như Nho giáo nguyên thủy hay Nho giáo tiên Tần (trước thời Tần) Nho giáo

nguyên bản.


5
tiếp nhận không phải là dập khuôn nguyên dạng mà đã có sự biến đổi. Nói theo GS
Phan Ngọc thì nhất định phải qua “sự khúc xạ”. Điều đó tức là, Nho giáo mà các
nước Đông Á tiếp nhận đã có sự đậm nhạt khác nhau, tạo ra những nét riêng, bởi
thế mới xuất hiện Việt Nho, Hàn Nho…
Ở Hàn Quốc, sự tiếp nhận Nho giáo diễn ra rất sớm (năm 392) và được các
triều đại phong kiến áp dụng một cách triệt để, các nho sĩ không chỉ học tập Ngũ
kinh, Tứ thư mà còn tranh luận sâu sắc về nghĩa lý, tạo ra những học phái tranh
luận quyết liệt. Do nhà nước Chosun sùng bái Nho giáo, đến thế kỷ XV, thời vua
Sejong, Nho giáo đã vượt lên trên Phật giáo, chiếm địa vị độc tôn. Sự độc tôn đó
được các triều vua Chosun ngày càng đẩy lên mức cao hơn, thậm chí cực đoan.
Điều đó cũng có nghĩa là Nho giáo nơi đây đậm nét hơn hẳn Nho giáo Trung Hoa.
Năm 1910, Nhật chiếm bán đảo Hàn, đánh dấu chấm hết cho Nho giáo
Chosun. Triều đại Chosun, triều đại phong kiến cuối cùng ở bán đảo này đã một đi
không trở lại. Tư tưởng Nho giáo cũng không còn là tư tưởng chính thống cai trị xã
hội. Nhưng, các giá trị của nó vốn đã ăn sâu trong tâm thức con người Hàn Quốc
suốt mấy nghìn năm không thể tan đi trong một sớm một chiều. Hơn nữa, xã hội
hiện đại Hàn Quốc không có nhiều đợt phê phán, “đào tận gốc trốc tận rễ” tư tưởng

Nho giáo giống như Trung Quốc và Việt Nam, cho nên, sự ảnh hưởng của những
giá trị Nho giáo diễn ra khá bình thường, tới mọi mặt của đời sống xã hội. Trong
sự ảnh hưởng đó, nó diễn ra theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Ở đây, chúng
tôi tìm hiểu nghiên cứu cả hai hướng trên đối với văn hóa gia đình, văn hóa giáo
dục, văn hóa công ty và văn hóa cộng đồng ở Hàn Quốc trong thời kỳ hiện đại.
1. Đối với văn hóa gia đình
1.1. Ảnh hưởng tích cực
Khác với tư tưởng phương Tây tôn trọng tự do cá nhân, tư tưởng phương
Đông nói chung và đặc biệt là Nho giáo luôn xem xét cá nhân con người trong tổng
hòa của các mối quan hệ giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân với gia đình và xã


6
hội. Theo Nho giáo, cá nhân con người, bất kể sang hèn, đều phải tuân thủ qui
phạm của 5 mối quan hệ: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè (tức
ngũ luân, hay còn gọi là ngũ điển).
Qui phạm đó còn được coi là qui phạm đạo đức và được chế độ phong kiến
coi như luật pháp và bắt buộc mọi người phải tuân theo. Hơn thế nữa, Nho giáo tôn
lên như một lẽ trời định phận cho mỗi con người, vua phải ra vua, tôi ra tôi, cha ra
cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ. Điều đó có nghĩa là, cách ứng xử cần
phải tương ứng với thân phận. Vua phải thương dân, dân phải trung thành với vua;
cha phải nuôi con, thương yêu dạy dỗ con cái nên người, làm con phải có hiếu với
cha mẹ, ghi nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già;
anh em cần phải thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, làm em thì phải biết nghe lời
anh chị… Cách ứng xử theo danh phận đó, Nho giáo gọi là Lễ.
Ở Hàn Quốc, vào triều đại Chosun (1392 – 1910), Nho giáo định hình vững
chắc và chiếm địa vị độc tôn. Dẫu triều đại Chosun có lúc thịnh lúc suy, có những
lúc xảy ra tranh luận quyết liệt về mặt luân lý Nho giáo ở thế kỷ XVII, thế kỷ
XVIII 2 nhưng triều đại này vẫn vững vàng kéo dài hơn 500 năm, vẫn từng bước
phát triển tư tưởng Nho gia ngày một quy chuẩn hơn, thậm chí đẩy lên tới mức cực

đoan, bảo thủ. Tính cực đoan đó thể hiện rõ nét trong 5 mối quan hệ nêu trên. Cực
đoan ở chỗ nhấn mạnh ở vế thứ hai, bề tôi phải tuyệt đối trung thành với nhà vua,
con phải thờ cha chí hiếu, vợ phải nhất thiết phục tùng chồng, em phải nghe lời
huynh trưởng. Trong 5 mối quan hệ trên, ta thấy rõ có 3 mối quan hệ liên quan chặt
chẽ tới quan hệ gia đình (cha – con, chồng – vợ, anh – em).

2

Cuộc tranh luận về “Tứ đoan thất tình” (4 phẩm hạnh và 7 biểu hiện tình cảm) diễn ra suốt thế kỷ XVII.

Sang thế kỷ XVIII, lại nổ ra tranh luận về “Nhân vật tính đồng dị luận” (Bàn luận vấn đề đồng và dị của nhân tính
và vật tính). Các cuộc tranh luận đào sâu các khía cạnh tư tưởng Nho giáo và điều này riêng chỉ có ở Hàn Quốc, khó
có thể thấy ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản. Tham khảo thêm Dẫn nhập lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, tg. Kim
Seong Beom, Kim Sang Ho, Đào Vũ Vũ; Nxb KHXH 2011.


7
Trước hết, hãy bàn về mối quan hệ thứ nhất là mối quan hệ mang tính chất
huyết thống, rường cột và lâu dài.
Mối quan hệ cha con, mở rộng hơn tới hai ba thế hệ và hơn thế nữa.
Trong gia đình truyền thống tuân theo quy phạm Nho giáo thì người ông,
người cha có quyền quyết định cao nhất. Tất cả việc lớn trong nhà đều do họ quyết
định. Đồng thời, họ cũng là người có trách nhiệm và nghĩa vụ lớn nhất đối với
cuộc sống gia đình. Họ phải “tu thân” tốt thì “tề gia” mới tốt. “Tu thân” ở đây
không chỉ hiểu ở nghĩa trau dồi đạo đức, nhân phẩm của cá nhân mà còn phải phấn
đấu đạt tới những điều tốt đẹp liên quan đến kinh tế gia đình và bản thân, mà con
đường đi sáng sủa nhất là học hành thành tài, thi cử đỗ đạt, ra làm quan (đã ra làm
quan thì gia đình sung túc, danh giá và cả họ được nhờ). Đối với người con thì phải
lễ phép nghe lời cha mẹ, con phải đặt đạo Hiếu lên trên hết.
Đạo Hiếu là đạo ứng xử của con cái đối với cha mẹ, hiểu theo nghĩa rộng

hơn, còn là đạo ứng xử đối với thế hệ trên nữa, tức các bậc tiên tổ. Làm người có
hiếu không chỉ đối xử lễ phép, chu đáo với ông bà, cha mẹ khi còn sống mà cả khi
qua đời; lo ma chay chu đáo, trông nom giữ gìn cho mồ yên mả đẹp, lo cúng giỗ
đầy đủ, ghi nhớ công ơn cha mẹ.
Nho giáo Chosun phát triển thịnh vượng từ thế kỷ XV còn mở rộng phạm vi
đạo Hiếu. Đối với một người nêu cao đạo Hiếu, nếu chỉ dừng lại ở những điều trên
thì mới đạt được Tiểu Hiếu. Hiếu phải gắn liền với Trung. Trung là trung với vua,
trung với nước, dốc lòng trung quân ái quốc. Như thế mới là đại hiếu. 3 Ngoài ra,
người con có hiếu phải lấy vợ, có thể lấy nhiều vợ để sinh con nối dõi tông đường.
Về điểm này, Nho giáo Chosun cũng tương tự như Nho giáo ở Trung Quốc và Việt
Nam thời kỳ trung đại.

3

Không chỉ Nho giáo mới đề cập đến đạo Hiếu, mà Phật giáo cũng nêu cao đạo Hiếu. Nhưng, Phật giáo

quan niệm về đại hiếu khác với Nho giáo, cho rằng chỉ có những người từ bỏ thế tục, xuất gia đi tu, dùng Phật pháp
hướng cha mẹ hành thiện tích đức, tụng kinh niệm Phật để vong linh cha mẹ siêu thoát lên cõi niết bàn mới là đại
hiếu.


8
Năm 1910, Nhật chiếm toàn bộ bán đảo Hàn và đặt ách cai trị cho tới năm
1945. Lịch sử Hàn Quốc gọi thời kỳ này là thời kỳ Nhật thuộc hay thời kỳ thực
dân. Năm 1910 cũng là năm đánh dấu chấm hết thời kỳ phong kiến kéo dài hơn
1000 năm ở Hàn Quốc. Điều đó cũng có nghĩa là Nho giáo cũng tàn lụi theo thể
chế tạo dựng và suy tôn nó. Nhưng, giá trị văn hóa, giá trị tư tưởng Nho gia không
dễ dàng xóa bỏ. Chuyển sang thời hiện đại, tính từ ngày 15 – 8 – 1948, nước Đại
Hàn Dân Quốc thành lập, đã có những thời kỳ mà người Hàn Quốc nhân “phong
trào xây dựng làng mới” được đẩy mạnh vào những năm 1970 đã đập phá, bãi bỏ

những thứ mà họ cho là tàn dư, tàn tích của chế độ phong kiến. Tất cả những gì họ
cho là “cổ hủ”, cũ kỹ của truyền thống đều bị coi là lỗi thời, lạc hậu, cần phải gạt
bỏ nhanh chóng để tiến lên hiện đại hóa. Thế là rất nhiều những di vật, di sản văn
hóa có giá trị bị đập phá, nhiều sách vở tư liệu cổ quý giá được dùng làm giấy dán
tường, làm mồi châm lửa. Thời kỳ này do Tổng thống Parkjung – hee nắm quyền,
ông ta đã định dẹp bỏ tất cả những gì gọi là truyền thống để nhanh chóng đạt được
cái gọi là hiện đại hóa. Nhưng, về tư tưởng, ông ta không đưa ra được một học
thuyết chính trị nào phù hợp mà nhận ra rằng, không thể không sử dụng những yếu
tố tích cực của Nho giáo, trong đó, Trung và Hiếu là giá trị quan xuyên suốt nhiều
thế kỷ ở Hàn Quốc. Giá trị quan này được ông ra chỉ thị dạy trong nhà trường và
truyền bá trong nhân dân. Có điều, ở xã hội mới, nhà vua không còn, nên chữ
Trung ở đây mang đậm ý nghĩa là trung thành với quốc gia, quyết chí dốc lòng bảo
vệ đất nước, bảo vệ chính quyền khi xảy ra chiến tranh hoặc biến loạn. Cần nói
thêm rằng, vào thời kỳ đó, đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận nóng bỏng giữa các học
giả Hàn Quốc về tính hữu dụng của truyền thống, của yếu tố tích cực trong Nho
giáo mà kết quả cuối cùng là Tổng thống Park đã đi đến quyết định như vừa nêu.
Từ đó cho đến tận ngày hôm nay, vấn đề chữ Hiếu vẫn được nêu cao và được coi
là truyền thống tốt đẹp của người Hàn Quốc.
Vậy, truyền thống tốt đẹp đó được thể hiện thế nào?


9
Trước tiên, việc thờ cúng tổ tiên, chăm sóc phần mộ, xây dựng mộ trang
nghiêm hơn, viết lại gia phả dòng họ, cúng giỗ theo nghi lễ Nho giáo đang là
những công việc được người Hàn Quốc chú trọng.
Dưới triều đại phong kiến Chosun, việc lập bàn thờ cúng lễ tổ tiên đã được
nhà nước phong kiến qui định rõ ràng, nếu nhà nào không có sẽ bị phạt. Làng xã
nào có nhiều “gương điển hình” về đạo Hiếu sẽ được phong tặng danh hiệu “Làng
hiếu thảo”, 4 được triều đình ban thưởng. Trong văn học có một truyện rất nổi tiếng
viết về người con hiếu thảo là SimCheong jeon (Thẩm thanh truyện) 5 mà hầu như

người Hàn Quốc nào cũng biết.
Dẫu xã hội Hàn Quốc ngày nay đã có nhiều biến đổi nhưng việc thờ cúng tổ
tiên tại nhà và ở mộ vẫn được duy trì, thậm chí còn thịnh soạn hơn thời phong kiến
do đời sống kinh tế khá giả. Ở nông thôn, gian thờ tổ tiên vẫn tồn tại. Nhưng ở
thành phố, bàn thờ tổ tiên không được lập nên, chỉ tới ngày giỗ mới lập ban thờ,
dựng bài vị, bày đồ cúng lễ và cung thỉnh tổ tiên về chứng giám lòng thành. Đời
sống càng khá giả, giàu có thì việc cúng giỗ càng theo phương thức mà các Yang
ban (quí tộc) trong quá khứ đã làm. Việc cúng giỗ này tuy phức tạp, tốn kém
nhưng họ vẫn thực hiện để bày tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, cầu mong tiên tổ
phù hộ độ trì cho con cháu có được cuộc sống yên bình, làm ăn phát đạt.
Việc thờ cúng tổ tiên càng được chú trọng hơn vào dịp Tết trung thu và Tết
Nguyên đán.
Tết Trung thu ở Hàn Quốc không phải là Tết dành cho thiếu nhi như ở Việt
Nam mà là ngày lễ lớn. Người Hàn gọi Tết này là Chu seok (Thu tịch), diễn ra vào
4

Dòng họ Lý Hoa Sơn gốc Việt có nhiều người được coi là “điển hình” về đạo Hiếu nên ngôi làng họ ở

được phong là “Làng hiếu thảo”. Nguyên văn là Hiếu tử lý.
5

Đây là câu chuyện viết về lòng hiếu thảo của con gái đối với người cha bị mù. Vì cha bị mù, Simjeong

(Thẩm Thanh) từ nhỏ đã phải đi làm thuê để nuôi cha. Lớn lên, nghe thấy nói rằng cần có 300 thạch gạo dâng lên
nhà chùa cúng lễ thì cha sáng mắt, cô bèn bán mình cho đám thương nhân cần một thiếu nữ làm vật tế thần biển để
có đủ 300 thạch gạo dâng lên chùa.


10
ngày 15 tháng 8 âm lịch. Ngày lễ này còn được gọi là ngày lễ tạ ơn, là dịp mọi

người tạ ơn tổ tiên của mình, cầu mong cho mùa màng bội thu, cuộc sống no đủ.
Nguồn gốc của ngày lễ này bắt nguồn từ lễ hội mừng vụ mùa bội thu. Những sản
phẩm mới thu hoạch từ vụ mùa được dâng cúng cho thần thánh trong làng và tổ
tiên, tức là Chuseok bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng. Trong xã hội hiện đại,
Chuseok vẫn được xem như một lễ tạ ơn vô cùng quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt
đối với người Hàn Quốc. Đây là dịp đoàn tụ gia đình. Bất kể người Hàn Quốc nào
dù đi làm ăn xa ở đâu cũng trở về quê hương và thể hiện lòng thờ kính tổ tiên.
Nghi lễ không chỉ ở nhà mà còn được thể hiện một cách hết sức trang nghiêm ở
ngoài phần mộ. Họ thường dọn sạch cây cỏ dại trên phần mộ, bày đồ cúng lễ và
quì lạy hết sức kính cẩn. Tục này được gọi là Tảo mộ và cũng tương tự như ở Việt
Nam, có điều, ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa xuân chứ không thực hiện vào
dịp Trung thu.
Về phía nhà nước, Chính phủ cho phép được nghỉ dài ngày và tới ngày lễ,
Tổng thống Hàn Quốc đều có bài phát biểu chúc Tết Trung thu, đồng thời cũng
muốn bày tỏ quan điểm lãnh đạo của mình.
Tết Nguyên đán thực chất mới là ngày lễ lớn nhất trong năm. Vào dịp Tết
Nguyên đán, do thời tiết ở Hàn Quốc rất lạnh, thường là dưới 0oC nên quang cảnh
xã hội không được nhộn nhịp, sôi động như Tết Trung thu, nhưng về mặt tín
ngưỡng, tâm linh, thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên và trực tiếp đối với người
còn sống là ông bà, cha mẹ thì sâu sắc hơn cả. Vào dịp Tết Nguyên đán, khác với
không khí nhộn nhịp của Tết Trung thu, một không khí trang nghiêm, cung kính
bao trùm tới từng gia đình. Họ chuẩn bị một cái bàn lớn với rất nhiều món bánh
truyền thống và hoa quả, đặt trước vị trí chỗ ngồi của ông bà cha mẹ và tới sáng
mồng một tết, tất cả con cháu theo thứ tự trên dưới đều mặc trang phục truyền
thống lần lượt vào lễ với những lời chúc phúc thọ; ông bà cha mẹ cũng chúc mừng


11
con cháu rồi trao tặng cho con cháu một phong bao có tiền, gọi là tiền mừng tuổi. 6
Nghi thức lễ ông bà cha mẹ cũng có những qui định cụ thể, các con cháu đều phải

cúi rạp đầu xuống đất để tỏ tấm lòng kính hiếu.
Sự thể hiện đạo Hiếu của con cháu đối với ông bà cha mẹ còn thấy rõ ở các
lễ Thất tuần (chúc thọ 70 tuổi), Bát tuần (chúc thọ 80 tuổi). Dưới thời phong kiến,
lễ chúc thọ được tổ chức vào dịp ông bà cha mẹ tròn 60 tuổi. Tính theo sự kết hợp
can chi đủ một vòng là tròn 60 năm, gọi là lục thập hoa giáp. Do tuổi thọ của người
già trước đây còn thấp nên cha mẹ sống trọn một hoa giáp đã là điều mong ước của
nhiều gia đình, dòng họ. Bởi thế, lễ mừng thọ này được tổ chức rất linh đình, từ
vua quan đến thứ dân. Tùy theo điều kiện kinh tế, các gia đình, dòng họ đều muốn
“phô trương” trong điều kiện có thể. Yang ban Chosun còn đặt ra nhiều nghi thức
thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với ông bà cha mẹ.
Trong xã hội hiện đại, do tuổi thọ của người Hàn nâng lên, 7 bởi vậy, lễ Hoa
giáp chúc thọ 60 tuổi rất ít được tổ chức, thay vào đó là lễ Thất tuần, Bát tuần. Do
không gian nhà ở chật chội, lễ chúc thọ thường được tổ chức ở các nhà hàng truyền
thống. Người viết đã đôi lần được dự lễ chúc thọ Thất tuần ở Seoul, tận mắt chứng
kiến đại lễ diễn ra rất trang nghiêm và vui vẻ. Lễ chúc thọ cũng gần tương tự như
lễ chúc ông bà cha mẹ vào ngày mùng 1 Tết âm lịch. Ông bà ngồi trước một cái
bàn lớn bày biện rất nhiều bánh trái truyền thống, (nhưng không có các loại hoa
quả đã cắt phần đầu khi cúng giỗ), các con cháu lần lượt vào lễ chúc thọ, cũng cúi
rạp đầu xuống đất, (nhưng không nhận được phong bao mừng tuổi như ngày Tết).
Sau đó, mọi người ngồi vào bàn, ăn uống rượu chè thoải mái, vui vẻ. Vào ngày
này, không chỉ riêng con cháu mà bè bạn hoặc người thân cũng được mời đến dự

6

Hiện nay, tục lệ mừng tuổi cũng có ở Việt Nam vào dịp Tết Nguyên đán nhưng không được tổ chức trang

nghiêm theo nghi lễ Nho giáo như ở Hàn Quốc, mà diễn ra đơn giản hơn, tiền mừng tuổi nhiều khi đến từ hai phía,
cũng nhiều lúc, con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ.
7


“Tuổi thọ trung bình của người Hàn Quốc tăng dần, từ 52,4 tuổi trong năm 1960 lên 78,5 trong năm 2005,

80,5 vào năm 2009”. Trần Thị Nhung (chủ biên); Gia đình đa văn hóa Hàn Quốc; Nxb. ĐHQG Hà Nội; 2014; tr.19.


12
và ăn tiệc mừng, cũng có phong bì mang theo và những lời thăm hỏi, chúc mừng
rất lễ phép, lịch sự.
Trong mối quan hệ chồng – vợ, dẫu có nhiều vấn đề mà chúng tôi sẽ nêu ra
ở phần ảnh hưởng tiêu cực nhưng một chuẩn mực đạo đức để ràng buộc trách
nhiệm và nghĩa vụ giữa hai vợ chồng là NGHĨA thì quả thực có giá trị rất lớn.
Nghĩa phu thê (nghĩa chồng vợ) là vợ chồng phải yêu thương và có trách nhiệm với
nhau trong cuộc sống gia đình, cho dù có gặp phải muôn vàn khó khăn, trở ngại.
Tuy nhiên, Nho giáo Chosun khắt khe hơn đối với phụ nữ, đối với người vợ, đòi
hỏi người vợ trong gia đình phải phục tùng mệnh lệnh của chồng, của cha mẹ
chồng. Có như vậy, người vợ mới được coi là người có phẩm hạnh, đạo đức, dâu
hiếu thảo. Ở phía người chồng, Nghĩa lại đặt lên vai họ một trách nhiệm lớn hơn
đối với đời sống kinh tế gia đình và làng xã.
Trong xã hội Hàn Quốc hiện đại, giá trị của Nghĩa vợ chồng vẫn phát huy
tác dụng. Dẫu trong cách ứng xử giữa hai vợ chồng không còn khắt khe như thời
phong kiến nhưng trách nhiệm của người đàn ông đối với kinh tế gia đình vẫn là
chính, đa số phụ nữ sau khi lấy chồng, mang thai, sinh con, nuôi dưỡng con cái đều
ở nhà chăm lo việc nhà, nuôi dạy con cái cho tới lúc khôn lớn. Họ vẫn nêu cao đức
hạnh, dâu thảo, vợ hiền, thực hiện Nghĩa vợ chồng như tuân theo một bộ luật bất
thành văn.
Trong mối quan hệ anh – em trong gia đình, Nho giáo nêu cao sự hòa thuận,
trên kính dưới nhường, anh ra anh, em ra em. Nho giáo Chosun nhấn mạnh hơn tới
trách nhiệm của bậc huynh trưởng và sự tuân theo của người em. Giá trị này vẫn
hiện hữu trong xã hội Hàn Quốc ngày nay, thậm chí còn được nêu cao hơn. Trong
một xã hội hiện đại cạnh tranh gay gắt và đan xen nhiều mối quan hệ làm ăn phức

tạp, tình cảm giữa con người với nhau cũng đậm nhạt theo lợi ích vật chất, thậm
chí bất đồng đan xen với đồng thuận, nay là quan hệ làm ăn tốt đẹp thì mai đã là kẻ
đối đầu không thương tiếc. Điều đó tức là, các mối quan hệ đó không yên ả như
thời xưa và chính từ đó, con người nhận thức ra rằng, quan hệ máu mủ ruột thịt,


13
tình nghĩa anh em một nhà mới thực sự lâu bền. Để đạt được sự gắn kết lâu bền đó,
cách ứng xử đúng đắn nhất vẫn là anh ra anh, em ra em. Anh trưởng làm trọn trách
nhiệm của bậc huynh trưởng và em thứ cần tôn trọng ý kiến của huynh trưởng. Mối
quan hệ anh – em ở Hàn Quốc thể hiện rất tốt nét văn hóa trọng tình trong truyền
thống văn hóa Hàn Quốc.
1.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Đối với văn hóa gia đình, ảnh hưởng tiêu cực dễ nhận biết nhất và từng bị
phê phán rất nhiều, đó là tính gia trưởng.
Gia đình Hàn Quốc đã và đang biến đổi mạnh mẽ. Gia đình lớn hay gọi là
gia đình truyền thống gồm ba bốn thế hệ chung sống đang yếu đi rõ rệt và gia đình
nhỏ, trong đó, vợ chồng là trung tâm đang mạnh lên theo sự phát triển nhanh của
xã hội Hàn Quốc. Sự tách chia nhỏ ra như vậy đã hạn chế rất nhiều “quyền uy gia
trưởng” của các bậc bề trên như cha ông, huynh trưởng. Nếu như trước đây, họ
cùng chung sống trong một ngôi nhà thì con, em phải luôn luôn tuân theo cha, anh,
bất kể là qui phạm đạo đức lớn hay qui định nhỏ trong nhà. Nhưng ngày nay, cuộc
sống riêng rẽ, độc lập đã vô hình trung tạo cho họ một sự tự do thoải mái nhất
định. Hơn nữa, văn hóa gia đình hiện đại nêu cao tự do, bình đẳng phát triển mở
rộng càng tạo thêm sự tự do cho con người. Có điều, tính gia trưởng trong văn hóa
Hàn Quốc có cội rễ sâu xa trải hàng nghìn năm không thể biến mất nhanh chóng
chỉ sau vài chục năm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay như thời
Tổng thống Parkjung – hee nắm quyền, dẫu ông có ra lệnh phá bỏ những thứ bị
cho là hủ lậu, hết thời nhưng tính gia trưởng không nằm trong số đó và chính bản
thân ông cũng là một nhân vật mang đậm tính gia trưởng, thậm chí còn được gọi là

độc tài, quân phiệt.
Gia đình Hàn Quốc không chỉ biến đổi về hình thái mà cự ly khoảng cách về
mặt địa lý cũng xa ra. Thông thường, ông bà già cả vẫn sống ở quê hương, các con


14
cháu lên thành phố làm ăn, an cư lạc nghiệp. Anh chị em tuy cùng ra thành phố
sinh sống nhưng mỗi người mỗi nơi. Dẫu họ không còn phải ra thưa vào chào các
bậc bề trên như chung sống trong gia đình lớn nhưng tính gia trưởng của người đàn
ông trong nhà (tức người chồng) đối với vợ và con cái vẫn hiện hữu. Sự ngược đãi,
bạo hành gia đình do tính gia trưởng tạo nên không thể nói là đã hết. Điều này càng
trầm trọng hơn đối với những người đàn ông có trình độ học vấn thấp, sống ở nông
thôn, ít giao tiếp và bảo thủ. Điều đó càng thể hiện rõ rệt trong các gia đình đa văn
hóa hiện nay ở Hàn Quốc. 8
Ngoài tính gia trưởng, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại trong
văn hóa gia đình cũng như xã hội Hàn Quốc ngày nay.
Dưới chế độ phong kiến Chosun, tư tưởng trọng nam khinh nữ thể hiện rõ
trong đạo Tam tòng, tứ đức. Phụ nữ Chosun nhất nhất phải tuân theo đạo Tam
tòng: Ở nhà thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con (Tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) và Tứ đức là công, dung, ngôn, hạnh.
Đây là nguyên tắc rất cứng nhắc của nhà nước Chosun. Nếu người phụ nữ nào vi
phạm thì sẽ bị xử phạt, bị dư luận làng xã lên án; thậm chí, trong cách ăn nói thưa
gửi, người phụ nữ phải sử dụng kính ngữ một cách mềm mại, dễ nghe, nếu không
sẽ bị coi là thiếu giáo dục, không hiểu tứ đức là gì. Về phía nhà nước, nhằm “tuyên
dương” những người phụ nữ thực hiện “xuất sắc” những điều trên, họ được phong
danh hiệu là Liệt nữ. 9 Điều đó có nghĩa là, ngoài việc pháp luật bắt buộc phụ nữ
Chosun phải tuân theo các đạo luật trên, làng xã, nhà nước Chosun còn có những
biện pháp “mềm dẻo” để khuyến khích họ, coi điều đó là vinh dự không chỉ cho cá
nhân mà còn cho cả dòng họ, làng xã.


8

Xem thêm Gia đình đa văn hóa Hàn Quốc; Trần Thị Nhung (chủ biên), Nxb ĐHQG Hà Nội, 2014, tr.86 –

9

Ở Việt Nam thời phong kiến cũng có trường hợp tương tự, nhưng danh hiệu được phong gồm 4 chữ Tiết

87.
hạnh khả phong.


15
Còn đối với nam giới, người con trai dù có hèn kém thì cũng được coi trọng
hơn con gái, dù có nhỏ tuổi cũng được tôn trọng hơn, được hưởng nhiều quyền lợi
hơn người con gái lớn tuổi; người vợ dù có đảm đang nuôi nấng chăm lo gia đình
thì cũng phải phụ thuộc vào người chồng dù lười biếng, bất tài, người đàn ông có
thể lấy nhiều vợ cũng là chuyện thường tình, còn người phụ nữ “chỉ thờ một
chồng”, dù trong hoàn cảnh nào cũng không được tái giá. (Tài trai năm thê bảy
thiếp/ Gái ngoan gái thờ một chồng.)
Một quan điểm nổi bật nữa cũng phản ánh rõ tư tưởng trọng nam khinh nữ,
đó là coi trọng việc sinh con trai nối dõi tông đường. Tư tưởng nho giáo cho rằng:
“nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (sinh được một con trai thì coi là có con, sinh
được mười con gái thì cũng coi là không), hoặc: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”
(Tội bất hiếu thì có ba, 10 song không có con trai nối dõi là lớn nhất.)
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, cũng với sự phát triển kinh tế, xã hội, quá
trình dân chủ hóa đã làm biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc tư tưởng phong kiến trọng
nam khinh nữ. Quan hệ vợ chồng trong gia đình đã bình đẳng hơn trong sinh hoạt
gia đình và nuôi dạy con cái. Tuổi kết hôn của phụ nữ đã cao lên, xấp xỉ 30 tuổi đã
tạo ra một khoảng thời gian nhất định từ khi trưởng thành, đi làm và có thu nhập

của người phụ nữ, bởi vậy, sau khi thành hôn, phụ nữ cũng có một số tiền trong tài
khoản, tức không bị lệ thuộc hoàn toàn vào người chồng. Đó cũng là một trong
những nguyên nhân chính tạo nên sự bình đẳng hơn trong gia đình. Về mặt nhà
nước và pháp luật, bộ luật về gia đình ban hành năm 1991 đã có nhiều điều mục
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của phụ nữ; Bộ Bình đẳng giới và Gia đình đã
được thành lập ngày 23 tháng 6 năm 2005, chuyên giải quyết chính sách về phụ
nữ, gia đình. Các đoàn thể xã hội, các tổ chức phi chính phủ không chỉ lên tiếng
bênh vực quyền bình đẳng, quyền lợi cá nhân của phụ nữ mà còn có những biện
pháp, việc làm thiết thực bảo vệ phụ nữ. Các Bộ có liên quan như Bộ Y tế và Phúc
10

Ba tội bất hiếu là: A dua làm việc xấu đến nỗi hại đến cha mẹ; bố mẹ già rồi mà chưa có bổng lộc, chưa

làm quan; không có con trai để nối dõi.


16
lợi; Bộ Giáo dục, Bộ Lao động và Việc làm đều có những giải pháp thiết thực giúp
người phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng. Tuy nhiên, tất cả những điều nêu trên
cũng chỉ đang trong quá trình hướng tới sự bình đẳng nam nữ thực sự mà thôi. Ảnh
hưởng tiêu cực của Nho giáo chỉ có thể nói rằng đang dần thu hẹp lại chứ không
thể loại bỏ hoàn toàn. Hơn nữa, trong sinh hoạt gia đình và cộng đồng, người phụ
nữ dẫu có tinh thần tham gia tích cực vào công việc xã hội, dẫu chỉ sinh ít con
nhưng do phải đảm bảo thiên chức làm vợ, làm mẹ nên gánh nặng công việc nội
trợ, chửa đẻ, nuôi con vẫn đè lên vai người phụ nữ. Công việc vì thế bị gián đoạn,
các công ty ở Hàn Quốc không chấp nhận giữ chỗ chờ đợi họ cho tới lúc có thể đi
làm. Thực tế xảy ra trong các gia đình Hàn Quốc hiện nay khi có con nhỏ thì chi
phí thuê người giúp việc, chăm sóc con nhỏ còn cao hơn cả tiền lương của người
phụ nữ đi làm. Thế là mô hình gia đình xưa kia ở Hàn Quốc là người chồng ra
ngoài kiếm tiền nuôi đủ cả gia đình, người vợ ở nhà chăm lo công việc nội trợ, dạy

dỗ con cái lại lặp lại, hoặc nói cách khác, vẫn là một mô hình tốt. Và lẽ tất nhiên,
người vợ trong gia đình Hàn Quốc hiện đại nhiều lúc, nhiều nơi vẫn không thể bình
đẳng với chồng. Hơn thế nữa, xin nói thêm rằng, xã hội Hàn Quốc hiện đại vẫn cho
rằng, công việc nội trợ là của phụ nữ, là bổn phận, trách nhiệm của người mẹ,
người vợ và chăm sóc dạy dỗ con cái học hành thành đạt là trách nhiệm lớn lao và
họ coi đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của đời người phụ nữ.
2. Đối với văn hóa giáo dục
2.1. Ảnh hưởng tích cực
Giáo dục là một trong những nội dung chủ yếu nhất của Nho giáo, là một
trong những biện pháp cơ bản nhất để tạo ra mẫu người lý tưởng cần có của chế độ
phong kiến, là một trong những phương tiện chủ yếu nhất để truyền bá Nho giáo và
ý thức hệ phong kiến, là một phương thức lựa chọn nhân tài, triển khai đường lối
đức trị.


17
Vào thời phong kiến Chosun, nền giáo dục thực sự có hệ thống, có tổ chức
chặt chẽ với nền giáo dục Nho học. Ngoài hệ thống trường công, còn có một hệ
thống trường tư rất có chất lượng, thày dạy là những nhà nho nổi tiếng về học vấn
lẫn nhân cách. Hơn nữa, chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với nho sinh cũng rất ưu
ái. Nho sinh không phải đi quân dịch, lao dịch, chỉ chuyên tâm học tập và thi cử.
Thi cử được tổ chức đều đặn ba năm một lần, thi tiểu khoa vào những năm tí ngọ
mão dậu, thi đại khoa vào những năm thìn tuất sửu mùi. Thi tiểu khoa được tổ
chức vào mùa thu năm trước, thi đại khoa được tổ chức vào mùa xuân năm sau,
dân gian vẫn gọi là kỳ thi hai năm. Mỗi kỳ thi đại khoa tuyển chọn 33 người đỗ
tiến sĩ, sau đó vào điện thí, tức thi Đình để chọn ra 3 người đỗ đầu, gọi là Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Nhà nước sẽ bổ nhiệm 33 người đỗ đại khoa vào
những chức quan thích hợp và họ thực sự đứng vào hàng ngũ Yangban.
Như vậy, ta thấy rõ, mục đích đào tạo của triều đình ChoSun là đào tạo và
tuyển dụng nhân tài. Về phía nho sinh, mục đích học tập là thi cử đỗ đạt, ra làm

quan.
Trong quá trình đào tạo và thi cử, triều đình Chosun nhắm tới mục đích là
tạo ra những con người luôn suy nghĩ và hành động phù hợp với những chuẩn mực
đạo đức của Nho giáo Chosun, để mỗi người, tùy theo địa vị và chức phận của
mình mà hành xử theo lý tưởng của Nho giáo. Lý tưởng đó tập trung vào bốn chữ:
tu, tề, trị, bình. Bởi thế, tài liệu giảng dạy và học tập trong hệ thống nhà trường phổ
biến là Tứ thư, Ngũ kinh.
Xem xét một cách khái quát như vậy, ta thấy sự nghiệp giáo dục của nhà
nước phong kiến Chosun chẳng khác gì với những nước trong vùng Hán ngữ và
Hán hóa, nhưng, triều đại phong kiến Chosun ổn định kéo dài hơn 500 năm (chưa
kể trước đó, khoa cử Koryeo cũng đã đi vào nề nếp) thì sự nghiệp giáo dục của
Chosun ổn định, vững vàng, nề nếp hơn hẳn các nước khác. Sự ổn định, nề nếp đó
đã góp phần to lớn tạo ra một phong cách riêng của Nho học Chosun. Đó là lòng
hiếu học cao độ; tư tưởng trọng danh (nền tảng của văn hóa trọng danh Hàn Quốc);


18
truyền thống tôn sư trọng đạo sâu đậm; kẻ sĩ hết lòng trung quân ái quốc, không
dao động, ngả nghiêng thờ vua nọ chúa kia; mọi hành vi ứng xử phải nghiêm chỉnh
theo lễ giáo, lễ nghi.
Triều đại phong kiến Chosun chấm dứt, cũng có nghĩa là khoa cử Nho giáo
đã chấm hết. Giáo dục ở Hàn Quốc đã có một bước ngoặt lớn. Nếu xét trên bình
diện chung thì giáo dục ở Hàn Quốc đã chuyển hẳn từ Đông sang Tây. Nền giáo
dục ở Hàn Quốc hiện nay là theo mô hình giáo dục của Mỹ, tức là mô hình,
phương thức đào tạo, nội dung và chất lượng đào tạo… đều theo phong cách Mỹ.
Nhưng, con người Hàn Quốc, văn hóa Hàn Quốc vẫn giữ được những truyền thống
tốt đẹp trong giáo dục của dân tộc họ, phát huy tốt những giá trị của giáo dục
truyền thống kết hợp với những giá trị của giáo dục hiện đại nhằm tạo nên một nền
giáo dục hiện đại mang bản sắc Hàn. Việc tạo dựng bản sắc Hàn trong nền giáo
dục hiện đại đó thì không thể không bàn tới những ảnh hưởng tích cực của Nho

học truyền thống.
Một là giá trị của tinh thần tôn sư trọng đạo.
Về phía nhà nước, sự đãi ngộ đối với giáo viên, đặc biệt là các giáo sư giảng
dạy ở các trường đại học là rất tốt. Sự đãi ngộ mang tính tôn trọng đó thể hiện từ
lương bổng, phòng ốc và điều kiện làm việc, giảng dạy đã được xếp vào hàng các
nước phát triển. Trí thức Hàn Quốc được xếp vào hạng trung lưu, đời sống kinh tế
khá giả và đặc biệt là họ được tôn trọng thực sự về tri thức. Các chính khách
thường xuyên cần họ tham vấn và trân trọng ý kiến mang tính chuyên gia của họ.
Về phía nhân dân, đối với nghề giáo, đối với trí thức, người dân luôn luôn
tôn trọng. Sự tôn trọng đó không chỉ thể hiện ở ngôn ngữ, hành vi ứng xử mà từ
trong tâm khảm, mọi người dân vẫn luôn coi người có học là những người đáng
được kính trọng. Từ cách nói sử dụng kính ngữ, thể hiện sự lễ phép bằng những cử
chỉ, hành động, người dân luôn luôn dành cho họ những tình cảm tốt đẹp nhất.


19
Đối với học sinh, tôn sư trọng đạo vẫn là nguyên tắc bất di bất dịch và người
thày cảm thấy vinh dự, cố gắng hết sức mình vì học trò. Thày ra thày, trò ra trò vẫn
là điều dễ nhận biết ở Hàn Quốc.
Hai là giá trị của tinh thần hiếu học.
Hiếu học là điểm đặc biệt của Nho giáo nói chung. Học để làm người chân
chính, học để có nghề nghiệp thanh cao, được hưởng nhiều bổng lộc, thay đổi thân
phận, được ra làm quan. Đối với xã hội Chosun vốn có một nề nếp học hành, khoa
cử như đã nêu trên thì học tập cũng hướng tới những mục đích đó, song, so với các
nước trong khu vực Đông Á, tính ổn định trong suốt quá trình học tập, đào tạo
vững vàng hơn, đất nước ít xảy ra chiến tranh, biến loạn 11 và tính cạnh tranh nhằm
mục đích trên quyết liệt hơn, gay gắt hơn, nhất là đích ra làm quan. Bởi thế, tinh
thần hiếu học được hình thành trong suốt quá trình dài như vậy đã tạo nên nét riêng
của nó – sự nhiệt thành đặc biệt. Người viết khi đọc cuốn Kinh tế Hàn Quốc đang
trỗi dậy, thấy giáo sư Byung – NakSong nói có lý rằng: “Người Hàn luôn khát

khao học tập và có thể coi là dân tộc hiếu học nhất trên thế giới”. 12
Giá trị của tinh thần hiếu học vẫn hiện rõ trong xã hội Hàn Quốc hiện đại.
Hơn hẳn thời phong kiến, học tập ở Hàn Quốc hiện nay đã được xã hội hóa, tất cả
công dân Hàn Quốc đều được học tập, có thể học suốt đời, trẻ em đều được tới
trường, phổ cập giáo dục đã tới cấp Trung học cơ sở.
Hiện nay, hầu hết học sinh đều có nguyện vọng thi vào đại học, nhất là các
trường đại học danh tiếng ở Hàn Quốc như Đại học Seoul, Đại học Koryeo, Đại
học Yonsei…; Đó cũng là mong muốn của các bậc phụ huynh. Bởi khi con em họ
thi đỗ vào Trường Đại học Seoul hoặc các trường tư nổi tiếng ở Seoul thì sẽ được
học tập trong những điều kiện tốt nhất, được theo học các giáo sư nổi tiếng, và hơn
thế nữa, sau khi ra trường, họ thường có những vị trí quan trọng trong xã hội. “Vị
11

Chỉ xảy ra cuộc chiến tranh với Nhật Bản từ 1592 – 1597 mà lịch sử Hàn Quốc gọi là Nhâm Thìn Oa

loạn và Loạn giặc Hồ năm Bính Tí 1636 – 1637.
12

Byung – Naksong; Kinh tế Hàn Quốc đang trỗi dậy; Nxb Thống kê, 2002; tr.39.


20
thế của Trường Đại học Seoul ở Hàn Quốc cũng giống như Havard của Mỹ, Tokyo
của Nhật Bản và Bắc Kinh của Trung Quốc. Nhưng, nếu xét ở mức độ độc tôn
những học sinh và tốt nghiệp sinh xuất sắc thì Trường Đại học Seoul đứng ở vị trí
cao hơn các trường đại học của bất cứ quốc gia nào khác”. 13 Điều đó càng thôi
thúc học sinh cố gắng học tập để làm sao có thể thi đỗ và được học tập ở trường
này. Điều đó cũng lý giải một điều rằng tại sao phụ huynh học sinh không tiếc tiền
bạc và thời gian chăm lo cho con học tập ở nhà, ở trường và học thêm. Song, cần
nói rõ rằng, những điều nêu trên không phải là một hiện tượng nổi bật nhất thời mà

là một sự kết nối từ quá khứ. Nếu so sánh một chút thì trường Đại học Seoul cũng
gần tương tự như Quốc tử giám, Thành quân quán thời phong kiến.
Ngoài trường Đại học Seoul ra, ở Hàn Quốc có nhiều trường đại học tư chất
lượng cao, đủ để đáp ứng nhu cầu học cao lên của người Hàn. Mức độ nhiệt tình
đối với giáo dục bậc đại học của người Hàn Quốc được đánh giá là cao nhất thế
giới. 14 Tinh thần hiếu học đó chẳng phải là đã được hun đúc từ nghìn năm sao?
Bước vào thời đại toàn cầu hóa, vấn đề du học nước ngoài, nhất là ở các
nước sử dụng tiếng Anh như Mỹ, Anh, Úc, Canada, Newzealand là vấn đề được
quan tâm nhiều ở Hàn Quốc. Số học sinh Hàn Quốc du học nước ngoài ngày một
tăng. Phụ huynh học sinh không ngại tốn kém, muốn tạo điều kiện tốt nhất cho con
em được du học, thậm chí, nhiều bà mẹ còn theo con sang nước ngoài chăm sóc
cho con để con yên tâm học tập, học tập nhiều hơn, tốt hơn. Theo số liệu thống kê
của Cục thống kê Hàn Quốc, năm 2008, 48,3% phụ huynh Hàn Quốc muốn cho
con đi du học nước ngoài. Để thực hiện được điều đó, họ phải chi một khoản tiền

13

Đại học Quốc gia Seoul; Xã hội Hàn Quốc hiện đại; Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, 2008; tr.127.

14

Đại học Quốc gia Seoul; Xã hội Hàn Quốc hiện đại; Nxb ĐHQG Hà nội; tr. 126 có viết: “Việc so sánh

với các quốc gia khác về số người được giáo dục cao trên tỷ lệ 1000 người cũng có thể thấy được mức độ nhiệt tình
giáo dục bậc cao lên rất mạnh. Trường hợp của Nhật Bản là 27 người, Đài Loan là 43 người và ở Mỹ - quốc gia có
nền giáo dục đại học được phổ cập hóa cao nhất cũng chỉ là 54 người, trong khi đó, Hàn Quốc là 67 người”.


21
không hề nhỏ mà họ phải làm việc vất vả, tích lũy nhiều năm mà đáng lý ra họ sẽ

được hưởng lúc tuổi già.
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Một ảnh hưởng tiêu cực mà bất kể người nghiên cứu giáo dục Hàn Quốc nào
cũng đã rõ, đó là sự nhiệt tình thái quá, đầu tư thái quá cho giáo dục.
Theo ý Khổng Tử, thái quá cũng như bất cập, tức là không đúng mực, không
đạt chuẩn. Nhưng, ở thời Khổng Tử sinh sống và dạy học, tức vào thời Xuân Thu –
Chiến quốc của Trung Quốc cổ đại thì không thấy nói tới cái gọi là “sự thái quá”
trong giáo dục. Ông chủ trương: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi mệt”
(Học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện) “sống đến già học đến già” (sinh đáo lão
học đáo lão). Ý nghĩa lớn lao của những lời dạy bảo đó là chăm chỉ học tập, dùi
mài đèn sách, học suốt đời, thày dạy hết lòng vì học trò, dạy học không ngưng
nghỉ. Tư tưởng giáo dục này có ảnh hưởng rất tích cực đối với mọi tầng lớp, mọi
quốc gia ở Đông Á thời phong kiến, đặc biệt là Chosun. Vậy thì tại sao vào thời
hiện đại ở Hàn Quốc, các nhà nghiên cứu lại coi đó là một ảnh hưởng tiêu cực đối
với giáo dục? Theo sự tìm hiểu còn nông cạn của người viết, có thể lý giải như sau:
Thời đại Khổng Tử nêu tư tưởng trên, thời đại phong kiến Chosun khác xa
với thời hiện đại ở Hàn Quốc, tức là hình thái xã hội đã thay đổi hoàn toàn. Dưới
thời phong kiến Chosun, nho sinh được sự ưu đãi đặc biệt của nhà nước (như đã
nêu trên), gia đình, cha mẹ không phải “đầu tư” tốn kém như thời đại ngày nay;
học sinh không phải đi lại vừa xa vừa nhiều lần để học thêm trong một ngày trước
mỗi kỳ thi tuyển; cha mẹ không phải chi tiêu một khoản tiền lớn cho con đi du học
ở bên trời Tây xa xôi.
Như nhiều người đã biết, ở Hàn Quốc, phổ cập giáo dục đã tới cấp Trung
học cơ sở, nhà nước đã bỏ các kỳ thi lên Trung học cơ sở và Trung học phổ thông
nhằm giảm chi phí cho gia đình học sinh, giảm áp lực thi cử cho học sinh. Vậy thì,
những điều vừa nêu trên xảy ra ở giai đoạn nào? Đó chính là giai đoạn Phổ thông


22
trung học và ôn thi vào đại học, đặc biệt là phải vào học ở các trường đại học danh

tiếng. Từ thời phong kiến cho tới thời hiện đại, ở Hàn Quốc, mọi người luôn tin
một điều rằng, giáo dục chính là con đường “thăng tiến” quan trọng. Để đạt được
sự “thăng tiến”, con đường đúng đắn nhất là học đại học, tốt nghiệp ra trường và có
những vị trí quan trọng ở công ty lớn hoặc cơ quan nhà nước. Chính vì thế, để
chuẩn bị cho một kỳ thi vào đại học, phụ huynh không chỉ chi tiêu tốn kém cho con
em học ở trường mà còn lo chuyện học thêm cho con cái sao cho có hiệu quả cao.
Các bậc phụ huynh cho rằng, con cái họ nếu chỉ học ở trường thì không thể đủ
năng lực cạnh tranh trong kỳ thi vào đại học. Vì thế, họ cố gắng chuyển đến những
nơi có điều kiện học thêm tốt hơn như học ở các trung tâm, học ở lớp có các thầy
luyện thi giỏi. Hệ quả của câu chuyện này là nhà ở trong khu có các trung tâm đào
tạo tốt, thày dạy giỏi trở nên đắt đỏ, điển hình là khu Kang Nam ở Seoul. Đối với
học sinh, họ cũng nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của việc thi vào các
trường đại học lớn, thêm nữa là báo đáp công lao cha mẹ lo lắng cho mình nên đã
học tập, luyện thi quên ăn quên ngủ, nếu năm nay không thi đỗ thì năm sau cũng
cố gắng để thi vào trường tốt. “Vòng xoáy” học, học thêm, luyện thi, thi không đủ
điểm, lại luyện thi, lại cạnh tranh thi cử không phải diễn ra trong một thời gian
ngắn, không phải chỉ bỏ công sức suốt ngày đêm học tập mà cha mẹ học sinh cũng
cảm thấy quá sức trong việc chăm lo cho con cái cùng với chi phí lớn hơn họ nghĩ.
Trước kỳ thi, người viết đã chứng kiến hàng trăm hàng nghìn phụ huynh học sinh
đến các ngôi chùa, các đền miếu ở trên núi với một tâm trạng lo lắng xen lẫn thành
kính cầu xin cho con em mình gặp nhiều may mắn trong kỳ thi, thi đỗ điểm cao để
được vào học trường đại học lớn. Có lẽ tâm trạng đó đã phản ánh đầy đủ “sự nhiệt
tình thái quá” đối với giáo dục của người Hàn Quốc thời hiện đại.
Sự thái quá đó còn thể hiện ở việc đưa con ra nước ngoài học tập, thậm chí
còn cho con ra nước ngoài học từ bậc tiểu học và trung học cơ sở. Mức chi hàng
năm cho con cái học ở nước ngoài khoảng từ 30 – 80 triệu won, (tương đương
28.700 – 76.500USD). Nếu người mẹ theo con để chăm sóc thì mức chi còn lớn


23

hơn. Chỉ tính riêng số lượng sinh viên Hàn Quốc học ở Mỹ năm 2009 là 113.519
người. 15 Một số lượng không nhỏ!
Một ảnh hưởng tiêu cực dễ nhận biết là coi trọng lao động trí óc, khinh
thường lao động chân tay.
Tư tưởng Nho giáo cho rằng: “Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao”
(Mọi nghề đều hèn kém, duy đọc sách là cao), ý nghĩa sâu xa của nó là hết mực coi
trọng những người học sách thánh hiền, coi mọi nghề khác đều thuộc hạng dưới,
khinh thường lao động chân tay.
Vào thời phong kiến ở Hàn Quốc, tư tưởng đó còn nặng nề hơn. Ngay trong
triều đình, hai bên quan văn quan võ cũng không được tôn trọng ngang nhau.
Những người đọc sách thánh hiền, thi cử đỗ đạt, ra làm quan được coi trọng hơn
những người thi ở ban võ, thậm chí có những thời kỳ, quan võ bị khinh rẻ, bị đối
xử tệ bạc. Điều này thể hiện rõ ở triều đại Koryeo thế kỷ XII, ở triều đại Choseon
thế kỷ XVII. 16 Ngoài xã hội, tầng lớp trên đó được kính trọng, được coi là “dân chi
phụ mẫu”, chỉ bàn chuyện luân lý đạo Nho, tu, tề, trị, bình mà họ cho là việc lớn;
còn những việc khác là việc của tầng lớp dưới, bị coi là thấp hèn.
Chuyển sang thời hiện đại, từ tư duy, ý thức cũng như quan niệm ngành
nghề của các thành viên trong xã hội Hàn Quốc đã có nhiều thay đổi, song, ảnh
hưởng của quan niệm xưa cũ coi trọng lao động trí óc vẫn còn đậm nét. Sự nhiệt
tình thái quá đối với giáo dục cũng là một sự thể hiện mong muốn được tham gia
vào lực lượng lao động trí óc để được hưởng lương cao, nơi làm việc sạch sẽ, lịch
sự, không lo ngại thời tiết nắng mưa giá buốt… Chính điều đó đã gây nên sự mất
cân bằng nghiêm trọng trong phân công lao động. Cho dù tỉ lệ thất nghiệp ở Hàn
15

TS. Trần Thị Nhung (chủ biên); Gia đình đa văn hóa Hàn Quốc, Nxb ĐHQG Hà nội, 2014, tr.45.

16

Thế kỷ XII, dưới thời Koryeo, quan văn được coi trọng quá mức, dẫn đến chuyện coi thường quan võ,


thậm chí khinh rẻ. Bởi thế, năm 1170, xảy ra cuộc chính biến do võ quan Jeong Jung – bu cầm đầu, giết nhiều quan
văn rồi đày vua Uijong đi biệt xứ, độc chiếm chính quyền. Thế kỷ XVII, dưới thời Chosun, sau Nhâm Thìn Oa loạn,
dù quan võ có nhiều công lao chống giặc ngoại xâm Nhật Bản nhưng cũng không được triều đình đối xử ngang bằng
với quan văn, thậm chí tệ bạc nên nhiều người đã treo mũ từ quan.


24
Quốc luôn ở mức cao, từ 6% đến 9% lực lượng lao động, nhưng có một nghịch lý
là người thất nghiệp lại không làm những việc thuộc nhóm 3D mà họ chỉ muốn
làm những công việc sạch sẽ, an toàn. Bởi thế, những người lao động nước ngoài
mới xuất hiện ở Hàn Quốc và làm những công việc đó. Và cũng từ đây, biết bao
nhiêu vấn đề xã hội đã nảy sinh, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống văn hóa xã hội
Hàn Quốc.
3. Đối với văn hóa công ty
3.1. Ảnh hưởng tích cực
Những giá trị của Nho giáo đã có những ảnh hưởng tích cực tới văn hóa
công ty Hàn Quốc và được thể hiện ở mấy điểm sau:
Thứ nhấtlà giữ chữ Tín nhằm tạo dựng uy tín thực sự đối với khách hàng,
xây dựng thương hiệu tốt đẹp.
Nét nổi bật, dễ nhận thấy ở các công ty Hàn Quốc, nhất là các công ty, tập
đoàn lớn là họ rất chú trọng đến xây dựng thương hiệu. Mỗi một công ty đều có
Logo, có biểu trưng riêng, có tên gọi mang một ý nghĩa nhất định. Chẳng hạn như
Daewo có nghĩa là Vũ trụ bao la, Vũ trụ rộng lớn (Đại vũ), Samsung có nghĩa là
Ba ngôi sao (Tam tinh), Hyundai có nghĩa là Hiện đại… Khi tên công ty đã được
xác định thì ít khi thay đổi mà chỉ các công ty con sau này mọc lên thì thêm từ vào
chỉ chuyên ngành cụ thể, ví dụ như Điện tử Samsung, Ô tô Samsung… Họ nhận
thức rõ rằng, cần phải xây dựng được thương hiệu có uy tín trên thị trường, uy tín
thương hiệu càng cao thì giá cả bán ra cũng nâng lên theo tỷ lệ thuận. Để xây dựng
được một thương hiệu có uy tín, các doanh nghiệp, các công ty Hàn Quốc rất coi

trọng chữ Tín trong sản xuất, kinh doanh, ký kết và thực hiện hợp đồng với đối tác,
không dùng các thủ đoạn gian dối xảo trá để trục lợi, chú trọng đến chất lượng sản
phẩm, không quảng cáo thổi phồng quá mức, gắn lợi ích của doanh nghiệp, công ty
với lợi ích của khách hàng. Đây thực sự là nét văn hóa đặc sắc mà người Hàn đã
lưu giữ được từ truyền thống và phát huy tốt trong thời hiện đại, biến nó từ chỗ


×