Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. thực tiễn tại huyện lấp vò tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.51 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 38 ( 2012-2015 )

Đề tài:

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG.
THỰC TIỄN TẠI HUYỆN LẤP VÒ - TỈNH ĐỒNG THÁP

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

NGUYỄN HỮU LẠC

TRẦN THỊ MỸ CHÂU

Bộ môn Luật hành chính

MSSV: S120002
Lớp: Luật bằng 2- Đồng Tháp

Cần Thơ, tháng 11 năm 2015


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Trong những năm qua đất nước đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập cùng với
thế giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,...Việt
Nam trở thành thành viên của ASEAN, gia nhập tổ chức WTO, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống chất lượng cho người dân, xã hội
cũng được cải thiện đáng kể, phát triển khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển
mạnh mẽ và nhanh chóng của công nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
người dân tiếp cận, học tập, giao lưu văn hóa, ... đời sống người dân được nâng lên tạo
cơ hội cho cho mọi người làm giàu nên đa số các gia đình lo làm ăn kinh tế thiếu trách
nhiệm trong sự giáo dục con em cứ nghĩ cung cấp đầy đủ vật chất là tạo điều kiện tốt
nhất cho các em, thiếu sự quan tâm chăm sóc đặc biệt là tâm lý các em hoặc các em
sống gia đình điều kiện kinh tế gặp khó khăn. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng
tích cực thì các thông tin văn hóa mang tính chất bạo lực,... cũng tiếp cận đến người
dân ở khu vực đô thị, vùng đồng bằng đặc biệt là người chưa thành niên, dẫn đến xuất
hiện nhiều thói hư tật xấu tình hình trật tự trở nên phức tạp hơn, các tệ nạn xã hội như:
đánh nhau, gây rối trật tự công cộng, đánh bạc, trộm cắp tài sản các hành vi vi phạm
pháp luật và tội phạm ngày càng gia tăng rất nhanh. Pháp luật xử lý vi phạm hành
chính được ban hành nhằm điều chỉnh các hành vi vi phạm của cá nhân, cơ quan, tổ
chức nhưng hành vi vi phạm đó chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự,
đồng thời ngăn chặn tội phạm mới có thể xảy ra.
Một trong những biện pháp xử lý trách nhiệm đối với người chưa thành niên vi
phạm. Đó là biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đây là một trong những biện pháp
xử lý hành chính. Theo đó đối tượng chịu áp dụng biện pháp này là cá nhân thực hiện
hành vi gây rối trật tự công cộng, an toàn xã hội nhưng tính chất, mức độ chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối tượng áp dụng biện pháp này phải chịu lao
động, sinh hoạt, học văn hóa, học nghề, quản lý, giáo dục chung của cơ quan chức
năng trong thời gian nhất định nhằm cảm hóa các đối tượng trở thành những công dân
tốt có ích cho xã hội sau khi chấp hành hết thời gian trở về hòa nhập với cộng đồng.
Mục tiêu áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính nói chung và biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng nói riêng là hình thức cưỡng chế áp dụng đối với người có hành vi
vi phạm pháp luật. Do tính chất nghiêm khắc của biện pháp này liên quan đến việc hạn

chế quyền tự do, dân chủ của công dân nên cấp Ủy, Chính quyền các cấp đều quan
tâm chỉ đạo sát sao, có nhiều biện pháp tích cực trong việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện. Xuất phát từ những lý do tồn tại nêu trên người viết chọn đề tài: “Áp dụng
GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-1-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Thực tiển tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng
Tháp”, làm luận văn tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu chọn đề tài
Việc nghiên cứu đề tài là nhằm tìm ra nguyên nhân những khó khăn còn tồn tại
trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, trên cơ sở
đó người viết đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế người chưa thành niên vi phạm
pháp luật và hoàn thiện pháp luật áp dụng biện pháp vào trường giáo dưỡng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào các văn bản pháp luật xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng hiện hành như: Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Nghị định 02/2014/NĐCP (ngày 10/01/2014); Nghị định 81/2013/NĐ-CP (ngày 19/7/2013); Pháp lệnh 09/
UBTVQH (hiệu lực ngày 01/7/2014) và thực tiễn áp dụng biện pháp này tại huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng Tháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác LêNin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước về nhà nước và pháp luật xây
dựng nhà nước pháp quyền, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong giai đoạn
hiện nay. Trong quá trình thực hiện đề tài người viết còn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, và

phương pháp phân tích các số liệu thống kê.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài luận
văn được chia làm ba chương.
Chương 1: Những vấn đề chung về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Chương 2: Quy định hiện hành của pháp luật về biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng.
Chương 3: Thực tiễn và nguyên nhân, giải pháp nhằm hạn chế người chưa thành
niên vi phạm pháp luật và hoàn thiện pháp luật về việc áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-2-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO
DƯỠNG
Để giúp người đọc hiều rõ hơn về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, ở
chương này người viết sẽ trình bày khái quát chung về xử lý hành chính và người chưa
thành niên. Qua đó đưa ra một số khái niệm cơ bản về vi phạm hành chính và dấu hiệu
vi phạm hành chính, các hình thức xử lý vi phạm hành chính, quá trình hình thành các
quy định pháp luật về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Bên cạnh đó, người viết
tìm hiểu khái niệm người chưa thành niên và một số yếu tố về đặc điểm tâm lí, sinh lý,
ý thức ảnh hưởng đến người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Sau cùng là đưa ra

mục đích và ý nghĩa trong việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
1.1 Khái niệm về vi phạm hành chính và dấu hiệu vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã
hội.Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội phạm hình sự nhưng vi
phạm hành chính đều là những vi phạm gây thiệt hại cho nhà nước, tập thể, lợi ích của
cá nhân cũng như lợi ích cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tội phạm nảy sinh trên
toàn lĩnh vực của đời sống xã hội nếu không được ngăn chặn và xử lý kịp thời, đặc
biệt là xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, tạo cơ sở pháp lý cần
thiết cho việc xử lý đấu tranh, phòng chống một cách có hiệu quả đối với vi phạm
hành chính, cần thiết để xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành
chính nói riêng ra đời là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước nhằm
duy trì trật, tự kỹ cương trong quản lý hành chính Nhà nước. Đây là một số định nghĩa
chính thức về vi phạm hành chính.
Trước khi Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ban hành ngày 30/11/1989,
được hiểu là: “ tất cả những hành vi xâm phạm đến trật tự xã hội mà có tính chất đơn
giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc áp dụng các biện pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh”.1
Từ sau ngày 30/11/1989, Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính quy định “ vi
phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.2 Định nghĩa này sau đó được áp dụng
rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp
luật.
1
2

Nghị định số 143 /CP của Hội Đồng Chính Phủ ngày 27/5/1977 v/v ban hành “Điều lệ xử phạt vi cảnh”.
Điều 1 của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 1989.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc


-3-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

Khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban hành ngày 06/7/1995 và sau
đó là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực ngày 01/10/2002 thì khái niệm
vi phạm hành chính không được định nghĩa riêng biệt nữa mà được “lẫn” vào trong
khái niệm “ xử lý vi phạm hành chính”. Tại khoản 2 Điều 1 xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 thì vi phạm hành chính được hiểu là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ
chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.3
Theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực ngày 01/7/2012 quy
định cụ thể hơn về khái niệm vi phạm hành chính tại khoản 1 Điều 2 như sau:
a) Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân tổ chức thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Luật xử lý vi phạm hành
chính quy định rõ và cụ thể hơn về xử lý vi phạm hành chính ở khoản 2, khoản 3,
khoản 4 Điều 2.
b) Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện
hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính.
c) Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi
phạm pháp luật về an ninh, an toàn, trật tự xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm
biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn ; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở
bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

d) Biện pháp thay thế và xử lý hành chính là biện pháp mang tính giáo dục
được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt vi phạm hành chính hoặc biện pháp
xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở
và biện pháp quản lý tại gia đình .
e) Vi phạm hành chính nhiều lần là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành
vi vi phạm hành chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này
nhưng chưa bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý”.
Theo nguyên tắc hành vi, Luật hành chính Việt Nam không đặt vấn đề trách
nhiệm hành chính đối với những khuynh hướng tư tưởng của con người, không đặt
vấn đề trách nhiệm hành chính đối với cả biểu hiện ra bên ngoài mà không phải hành
vi.
Hành vi vi phạm được xác định thông qua bốn đặc điểm: Tính xâm hại nguyên tắc
3

Khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-4-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

quản lý nhà nước; tính có lỗi; tính trái pháp luật hành chính; tính chịu xử phạt vi phạm
hành chính.
Dấu hiệu vi phạm hành chính:
- Khách thể:
+ Khách thể ở đây là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ và bị xâm

phạm.
+ Khách thể là yếu tố quan trọng trong việc quyết định tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi trái pháp luật.
+ Một số khách thể như: trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu xã hội chủ nghĩa,
quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự quản lí hành chính nhà nước...
- Mặt khách quan:
+ Là những hành vi vi phạm pháp luật hành chính được thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động.
+ Đa phần mặt khách quan của vi phạm pháp luật hành chính không bắt buộc
phải có dấu hiệu hậu quả có hại của hành vi và mối quan hệ nhân quả giữa hành vihậu quả. Nghĩa là chỉ cần tính đến dấu hiệu " hình thức" ( hành động hoặc không hành
động) làm căn cứ để áp dụng sử phạt hành chính.
+ Tuy nhiên đối với nhiều vi phạm hành chính khác thì hậu quả có hại là dấu hiệu
bắt buộc chẳng hạn như: hành vi phá hoại các công trình lịch sử, văn hóa... đây là căn
cứ giúp cho việc lựa chọn biện pháp tác động thích hợp, đặc biệt trong trường hợp
phải bồi thường thiệt hai gây ra.
- Chủ thể:
+ Chủ thể là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính.
+ Cá nhân chịu trách nhiệm hành chính phải là người có năng lực hành vi pháp lý
hành chính.
+ Những người hành động trong tình thế khẩn cấp, phòng vệ chính đáng và sự
kiện bất ngờ hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình sẽ không phải chịu trách
nhiệm hành chính.
- Mặt chủ quan:
+ Mặt chủ quan thể hiện ở tính chất có lỗi: đó là thái độ chủ quan của con người
đối với hành vi vi phạm pháp luật và hậu quả do hành vi đó gây ra.
+ Lỗi có 2 dạng:

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-5-


SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

Lỗi cố ý: người vi phạm nhận thức rõ được tính chất nguy hiểm, mong muốn hay
để mặc cho hậu quả xảy ra.
Lỗi vô ý: người vi phạm không biết hoặc không nhận thức được hậu quả mà đáng
lẽ ra phải biết hoặc nhận thức được. Hoặc nhận thức được nhưng cho rằng có thể ngăn
ngừa được hậu quả xảy ra nên vẫn vi phạm.
1.2 Các hình thức xử lý vi phạm hành chính
1.2.1 Xử phạt vi phạm hành chính
“Xử phạt vi phạm hành chính” là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng các
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện
hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính.4
Xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên là hoạt động áp dụng
các hình thức xử phạt với người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi thực hiện
vi phạm hành chính. “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử phạt hành chính
về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về
mọi vi phạm hành chính” .5
Theo Luật hiện hành, các hình thức xử lý vi phạm hành chính vẫn không thay đổi
so với Pháp lệnh xử phạt hành chính năm 2002 (đã được sửa đổi bổ sung các năm
2007, 2008). Bên cạnh đó, Luật xử lý vi phạm hành chính cũng có một số điểm mới
về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính gồm có:
a) Phạt cảnh cáo
“Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không
nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì áp dụng hình thức xử phạt
cảnh cáo đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14

tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản”.6 Cảnh cáo
là hình thức này chỉ áp dụng đối với vi phạm mà tính chất, mức độ gây hại của hành vi
đó là chưa cao hoặc chưa nghiêm trọng là hình thức khiển trách công khai mang tính
quyền lực nhà nước, là hình thức xử phạt nhẹ nhất trong xử phạt vi phạm hành chính
vì nó không có khả năng hạn chế các quyền và lợi ích về thể chất cũng như tài sản của
người vi phạm. Mục đích của xử phạt hành chính Cảnh cáo là mang ý nghĩa giáo dục
nhiều hơn trừng trị đối với người vi phạm, mục tiêu chính của hình thức xử phạt này là
nhắc nhở, giáo dục việc tôn trọng và chấp hành trật tự quản lý Nhà nước, giúp người
4

Khoản 2 Điều 2 luật xử lý vi phạm hành chính.
Điểm a, khoản 1 Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
6
Điều 22 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
5

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-6-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

vi phạm hiểu rõ về hành vi sai trái của mình là trái với quy tắc xử sự chung đã được
pháp luật quy định từ đó kiềm chế không tiếp tục thực hiện những hành vi vi phạm.
Biện pháp phạt cảnh cáo là một biện pháp xử phạt nhẹ và chỉ có tính chất giáo
dục thuyết phục người vi phạm không thực hiện những hành vi vi phạm có tính răng
đe, chế tài cao nên tâm lý người vi phạm thường coi thường, bỏ qua những quy định

pháp luật để thực hiện hành vi sai phạm của mình. Bởi vậy, biện pháp này chỉ áp dụng
đối với vi phạm mà tính chất, mức độ gây hại của hành vi đó là chưa cao hoặc chưa
nghiêm trọng, gây ảnh hưởng chưa lớn cho xã hội và đặc biệt là có thể khắc phục
được. Thủ tục áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo là thủ tục đơn giản (chỉ ra quyết
định xử phạt, không lập biên bản).
Theo đó người chưa thành niên dưới 14 tuổi không bị áp dụng hình thức phạt
cảnh cáo trong mọi trường hợp.
b) Phạt tiền
Phạt tiền là hình thức xử phạt mang tính chất “tài sản”. Trong hình thức phạt tiền
tính chất phạt thể hiện rất rõ. Đó chính là việc tước bỏ ở người có hành vi trái pháp
luật một khoản tiền nhất định thuộc về sở hữu của người vi phạm, tức là thể hiện một
sự hạn chế về mặt pháp luật đối với người đó, sự hạn chế này chứng tỏ phạt tiền là
biện pháp tác động có độ nghiêm khắc hơn biện pháp cảnh cáo. Hình thức phạt tiền
cũng là vi phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn các vi phạm áp dụng hình
thức cảnh cáo.
Trong các hình thức xử phạt hành chính thì phạt tiền là một biện pháp đã, đang
và sẽ mang lại hiệu quả to lớn đối với việc đấu tranh phòng chống vi phạm hành
chính.
Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính từ 50.000 đồng đến
1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với
tổ chức, trừ trường hợp mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực thuế; đo lường; sở hữu trí
tuệ; an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm; hàng hóa; chứn khoán; hạn chế cạnh
tranh theo các luật tương ứng.7
Tuỳ theo tính chất mức độ của hành vi vi phạm và tính chất của các quan hệ xã
hội bị hành vi vi phạm xâm hại tới, nhà làm luật xác định mức phạt tiền tối đa cho mỗi
lĩnh vực cho phù hợp.

7

Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.


GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-7-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

Phạt tiền áp dụng với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, phạt tiền chỉ áp dụng
với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên. Người chưa thành niên vi phạm hành chính bị áp
dụng phạt tiền là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi là chủ thể của mọi vi phạm
hành chính do họ thực hiện, cho nên khi thực hiện hành vi vi phạm nào theo quy định
của pháp luật, hình thức phạt là phạt tiền thì người chưa thành niên sẽ bị áp dụng phạt
tiền. Khi phạt tiền với họ thì mức phạt tiền không được vượt quá một phần hai mức
phạt đối với người thành niên, trong trường hợp người vi phạm không có tiền nộp phạt
thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp phạt thay. Cha mẹ, người giám hộ khi phải
nộp tiền phạt thay người chưa thành niên không có nghĩa là họ đã thực hiện một vi
phạm pháp luật, cũng không có nghĩa họ bị quy kết có hành vi vi phạm pháp luật, họ
chỉ thực hiện thay người chưa thành niên nghĩa vụ có tính chất tài sản. Đây thực chất
là pháp luật đã xác định trách nhiệm của cha, mẹ hoặc người giám hộ với hành vi của
con em mình hoặc người mình có trách nhiệm đại diện...
c) Trục xuất
Trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm hành
chính tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.8
Đối tượng bị trục xuất:9 Người có hành vi vi phạm bị tạm giữ theo thủ tục hành
chính trong các trường hợp quy định tại Điều 11 Nghị định 112/2013/NĐ-CP quy định
hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ

tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời
gian làm thủ tục trục xuất: Người nước ngoài bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất
quy định tại các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính; Người có thẩm quyền xử phạt
trục xuất, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi
phạm hành chính; Các cơ quan, tổ chức khác có liên quan đến việc áp dụng hình thức
xử phạt trục xuất và các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính.
Thẩm quyền quyết định áp dụng hình thức trục xuất thuộc về Giám đốc Công an cấp
tỉnh và Cục trưởng Cục quản lý xuất nhập cảnh có thẩm quyền xử phạt theo quy định
tại khoản 6 Điều 39 Luật xử lý vi phạm hành chính và có quyền quyết định hình thức
xử phạt trục xuất. Về Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng hình thức xử phạt
trục xuất;Quyết định xử phạt trục xuất; Hoãn thi hành quyết định xử phạt trục xuất; Hồ
sơ thi hành quyết định xử phạt trục xuất quy định cụ thể ở các Điều 6, Điều 7, Điều 9,
Điều 10 Nghị định 112/2013/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp
8

Điều 27 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
Điều 11 Nghị định 112/2013/NĐ- CP quy định hình thức trục xuất, biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành
chính và quản lý người nước ngoài trong thời gian làm thủ tục trục xuất.
9

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-8-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước

ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất.
d) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình
chỉ hoạt động có thời hạn
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình thức
xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động
được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt
động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
- Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong các trường hợp sau:
+ Đình chỉ một phần hoạt động gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực
tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường của
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép.
+ Đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc
hoạt động khác mà theo quy định của pháp luật không phải có giấy phép và hoạt động
đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối
với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường và trật tự, an toàn xã hội”.10
- Thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, thời hạn đình
chỉ hoạt động theo quy định trên là từ 01 tháng đến 24 tháng, kể từ ngày quyết định xử
phạt có hiệu lực thi hành. Người có thẩm quyền xử phạt giữ giấy phép, chứng chỉ hành
nghề trong thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Hình thức tước quyền sử dụng giấy phép là sự tước bỏ việc sử dụng quyền quyết
định đã được Nhà nước cho phép đối với công dân hoặc tổ chức khi những đối tượng
này vi phạm điều kiện sử dụng quyền đó.Trong thời hạn bị tước cá nhân, tổ chức mất
quyền tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Tước quyền
sử dụng giấy phép được coi là phương tiện cuối cùng để đấu tranh vi phạm hành chính
khi việc áp dụng các hình thức xử phạt hành chính khác chưa hẳn đã có khả năng
phòng ngừa vi phạm. Mục tiêu nhằm triệt tiêu điều kiện để người vi phạm thực hiện
tiếp vi phạm, tức là đảm bảo thực tế cho việc thực hiện các nghĩa vụ pháp luật sau này.
Hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức thực

tế không áp dụng với người chưa thành niên. Bởi các hoạt động theo quy định của
pháp luật phải được tiến hành trên cơ sở và trong phạm vi của giấy phép, hoặc chứng
10

Điều 25 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-9-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

chỉ là những hoạt động xã hội có tính phức tạp và Nhà nước kiểm sát. Để đảm bảo chủ
thể có thể thực hiện được hoạt động theo đòi hỏi của pháp luật và có khả năng chịu
trách nhiệm độc lập về hoạt động của mình độ tuổi ít nhất là tuổi thành niên.
e) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (tịch thu tang vật vi phạm
hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính)
“Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân sách
nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành
chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân,
tổ chức. Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu được thực
hiện theo quy định tại Điều 82 của Luật xử lý vi phạm hành chính”.11
Thực chất hình thức này là tước bỏ quyền sở hữu của người vi phạm và chuyển
sang quyền sở hữu Nhà nước những vật, tiền, phương tiện ấy. Đối với các tang vật,
phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính mà không thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của tổ chức, cá nhân vi phạm thì không áp dụng biện pháp này mà phải trả lại cho chủ
sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, bởi vì chủ sở hữu hợp pháp những tài sản đó

không có lỗi, đối với tang vật vi phạm hành chính đây là những vật có thực mà việc
chiếm hữu hay sử dụng vật là trái với các quy định của pháp luật hoặc đây là các vật
mà Nhà nước cấm mua bán, trao đổi, sử dụng.
Khi áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính đối với người chưa thành niên cần phân biệt: những tang vật,
phương tiện thuộc sở hữu của người chưa thành niên hoặc không thuộc sở hữu của
người chưa thành niên nhưng việc họ có được phương tiện, tang vật đó là do lỗi của
chủ sở hữu thì bị tịch thu, sung vào công quỹ nhà nước. Các vật này người chưa thành
niên có được từ hành vi vi phạm nên trong mọi trường hợp tang vật phải bị tịch thu và
xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thẩm quyền, thủ tục áp dụng hình thức xử phạt này được pháp luật quy định cụ
thể.
 Như vậy :
Xử phạt vi phạm hành chính là một biện pháp cưỡng chế của nhà nước áp dụng
đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý Nhà
nước. Theo Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành : “Xử lý vi phạm hành chính bao
gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính”.

11

Điều 26, Điều 82 Luật xử lý vi phạm hành chính.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-10-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”


Xử phạt vi phạm hành chính thông thường, áp dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ
chức có hành vi vi phạm hành chính bao gồm:
Hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền chỉ quy định và áp dụng là hình thức
xử phạt chính.
Hình thức xử phạt như: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có
thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính; Trục xuất có thể được quy định là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình
thức xử phạt chính.
Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chỉ bị áp
dụng một hình thức xử phạt chính; có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt
bổ sung. Hình thức phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính.12
So với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (đã được sửa đổi bổ sung
các năm 2007, 2008), xử phạt của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 đã bổ sung
thêm 02 hình thức xử phạt chính là:Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính.
Điểm mới của Luật đã bổ sung hình thức xử phạt mới ( đình chỉ hoạt động có
thời hạn)
1.2.2 Các biện pháp khắc phục hậu quả 13
+ Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
+ Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc
xây dựng không đúng với giấy phép;
+ Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh;
+ Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái
sản xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện;
+ Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi,
cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại;
+ Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc nhằm lẫn;

+ Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm hàng, bao bì hàng hóa, phương tiện thông tin, vật
phẩm;
+ Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng;
12
13

Khoản 3 Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
Khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-11-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

+ Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành
chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định pháp luật;
+ Các biện pháp khắc phục hậu quả do chính phủ quy định;14
1.2.3 Các biện pháp xử lý hành chính
a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp xử lý hành chính áp dụng với các
đối tượng quy định tại Điều 90 của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 để giáo dục,
quản lý họ tại nơi cư trú trong trường hợp nhận thấy không cần thiết phải cách ly họ
khỏi cộng đồng. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn từ 03 đến
06 tháng.15 Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn thuộc về Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Do đó, đòi hỏi chính

quyền địa phương cùng -gia đình phải có trách nhiệm áp dụng những biện pháp cho phù
hợp, hiệu quả, nhằm giúp đỡ người vi phạm để họ có thể nhận thức đúng đắn hơn về
những việc sai lầm mình làm, để có ý thức tuân thủ pháp luật. Về trình tự thủ tục, xem
xét, quyết định, thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
được quy định cụ thể ở các “Điều 97, Điều 98, Điều 108, Điều 109 của Luật xử lý vi
phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn chi tiết kèm theo Luật về việc áp dụng biện
pháp này”.
b) Đưa vào trường giáo dưỡng
Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 92 của luật này nhằm mục đích giúp họ học
văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường. Thời hạn
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng đến 24 tháng.16 Đối với các
quy định của pháp luật về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo; Trình tự,
thủ tục thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Trình tự, thủ tục xem xét
quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Thẩm quyền áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Gửi và thi hành quyết định biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng. Người viết nghiên cứu và phân tích sâu vào các quy định của pháp
luật ở Chương 2 của luận văn này.
c) Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc

14

Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
Điều 89, 90 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
16
Điều 93, 94 luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
15

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc


-12-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 94 của Luật xử lý vi phạm hành
chính để lao động, học văn hóa, học nghề, sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục
bắt buộc. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ 06 tháng đến 24
tháng. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dụng bắt buộc là người thực hiện
hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài; tài sản, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài; vi phạm trật tự, an toàn xã hội
02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này
nhưng không có nơi cư trú ổn định. Thẩm quyền xem xét, quyết định đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Về trình tự thủ tục lập hồ sơ đề nghị;
thủ tục xem xét, quyết định; thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc quy định cụ thề ở các “Điều 101,Điều 102, Điều 105, Điều 106, Điều 107,
Điều 108 và từ Điều 110 đến Điều 114, Điều 118 Luật xử lý vi phạm hành chính và các
văn bản hướng dẫn chi tiết kèm theo như Nghị Định 118/2010/ NĐ-CP ngày 29/12/2010
của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc, Nghị định 02/2014/
NĐ-CP ngày 10/01/2014 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử
lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc”.
d) Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính để hữa
bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24
tháng.17 Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện
ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tai xã, phường, thị trấn mà
vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này không có nơi cư trú ổn định. Thẩm
quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về
Tòa án nhân dân cấp huyện. Về trình tự thủ tục từ khâu đề nghị đến thi hành quyết định
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy định trong Luật xử lý vi
phạm hành chính ở các Điều 103, Điều 104, Điều 107, Điều 110, Điều 118 và từ Điều
110 đến Điều 114,18 và có các văn bản hướng dẫn chi tiết kèm theo Luật xử lý vi phạm
hành chính.
17

Điều 95, Điều 96 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
Điều 103, Điều 104, Điều 107, Điều 110, Điều118 và từ Điều 110 đến Điều 114 Luật xử lý vi phạm hành chính
2012.
18

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-13-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

 Như vậy:
So với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, thì các biện pháp xử lý hành
chính có sự thay đổi như:
- Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thay thế là biện pháp đưa vào trường giáo dục

bắt buộc và biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thay thế là biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc.
- Về thẩm quyền “Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng
các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc”.19 Việc chuyển thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng
các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc từ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là thủ tục hành
chính sang Tòa án nhân dân cấp huyện là thủ tục tư pháp. Việc giao Tòa án quyết định
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nếu trên sẽ bảo đảm quyền dân chủ và khách
quan hơn so với Chủ tịch về thủ tục hành chính.
=> Trong bốn biện pháp xử lý hành chính nêu trên người viết tập chung nghiên
cứu về một biện pháp đó là biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
1.3 Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng
“Đưa vào trường giáo dưỡng” là thuộc nhóm các biện pháp xử lý hành chính
được quy định tại Điều 91, Điều 92 của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.20 Biện
pháp này Tòa án nhân dân cấp huyện quyết định xử lý,21 được áp dụng đối với người
chưa thành niên từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an
toàn xã hội mà không phải là tội phạm.22 Trừ các trường hợp pháp luật có quy định
khác.
“Đưa vào trường giáo dưỡng” có lịch sử tồn tại khá lâu. Luật xử lý vi phạm hành
chính ra đời nhưng vẫn tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính, thay thế cho các văn bản trước là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995,23 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh năm
2002 được sửa đổi bổ sung các năm 2007, 2008.24 Bên cạnh Pháp lệnh cũng có rất
nhiều Nghị định hướng dẫn chi tiết việc thực hiện những quy định của các Pháp lệnh.
Chẳng hạn như:
19

Khoản 2 Điều 105 luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
21
Điều 105 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
22
Điều 92 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
23
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995.
24
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 và Pháp lệnh năm 2002 được sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008.
20

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-14-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

Nghị định số 142/2003/NĐ-CP quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng ban hành ngày 24/11/2003.25
Nghị định số 66/2009/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 142
quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng ban
hành ngày 01/08/2009.26
Nghị định số 118/2010/NĐ-CP quy định sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, giáo dưỡng ban hành ngày
29/12/2010.27 Các văn bản này là văn bản có giá trị pháp lý cao giữ gìn, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội mấy chục năm qua, Việt Nam đã từng sử dụng
một số biện pháp xử lý người vi phạm pháp luật có nội dung, mục đích giống biện

pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Tính đến thời điểm hiện nay, Luật xử lý vi phạm hành chính 2012,28 quy định cụ
thể về áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, Pháp lệnh số 09/2014/
UBTVQH13 Pháp lệnh quy định trình tự thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân có hiệu lực ngày 01/7/2014,29 và các Nghị
định hướng dẫn chi tiết việc thực hiện những quy định của Luật như : Nghị định
81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp xử lý hành chính ban hành
ngày 19/7/2013,30 Nghị định 02/2014/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng, thi hành biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc ban
hành ngày 10/01/2014,31 Pháp lệnh 09/2014 vẫn được kế thừa và dần được sửa đổi, bổ
sung phù hợp với từng thời kỳ.
Sự tồn tại và phát triển của các quy định về áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng qua các giai đoạn đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của chế tài pháp lý
này trong đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật nói chung và phòng, chống vi
phạm hành chính nói riêng. Đây là chế tài pháp lý vừa mang tính cưỡng chế vừa thể
hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta. Mục đích áp dụng biện pháp này xuất phát từ lợi
ích của người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật, cách ly các em khỏi môi
25

Nghị định số 142/2003/NĐ-CP quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
ban hành ngày 24/11/2003.
26
Nghị định số 66/2009/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 142 quy định việc áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng ban hành ngày 01/08/2009.
27
Nghị định số 118/2010/NĐ-CP quy địnhsửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định về việc áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục,giáo dưỡng ban hành ngày 29/12/2010.
28
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
29

Pháp lệnh số 09/2014/ UBTVQH13 Pháp lệnh quy định trình tự thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân có hiệu lực ngày 01/7/2014.
30
Nghị định 81/2013/NĐ-CP quy địnhchi tiết một số điều và biện pháp xử lý hành chính ban hành ngày
19/7/2013.
31
Nghị định 02/2014/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc ban hành ngày 10/01/2014.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-15-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

trường xã hội trong một thời gian nhất định để quản lý, giáo dục và tạo dựng môi
trường mới, giúp các em sửa chữa những sai phạm của mình và có điều kiện học văn
hoá, giáo dục pháp luật, hướng nghiệp, dạy nghề, sinh hoạt lành mạnh, giúp các em
rèn luyện khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình để trở thành công dân có
ích cho xã hội.
Mặc dù vậy, đưa vào trường giáo dưỡng vẫn là một biện pháp hạn chế quyền tự
do con người và quyền công dân. Trong khi đó, theo Công ước của Liên hợp quốc về
Quyền trẻ em,32 tước tự do là loại chế tài nghiêm khắc nhất có thể áp dụng đối với
người chưa thành niên vi phạm pháp luật, do đó chỉ được phép áp dụng sau cùng, đối
với người chưa thành niên thực hiện các vi phạm pháp luật nghiêm trọng mang tính
bạo lực hoặc tái phạm nhiều lần. Qua hơn 20 năm thực hiện Công ước của Liên hợp
quốc về Quyền trẻ em, trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam có nhiều

thay đổi vượt bậc, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình ở mức thấp, đã
đến lúc phải nhìn nhận lại để từng bước hạn chế phạm vi áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, thay thế bằng các biện pháp xử lý tại cộng đồng.
Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng biện pháp này trong thời gian qua có những khó
khăn, vướng mắc nhất định. Do đó Luật xử lý vi phạm hành chính có nhiều đề xuất để
cải cách việc áp dụng chế tài đưa vào trường giáo dưỡng theo hướng ngày càng phù
hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế; tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn; tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa
thành niên.
 Khái niệm về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
“Đưa vào trường giáo dưỡng” là biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp luật
quy định áp dụng đối với cá nhân thực hiện hành vi vi pháp luật trong lĩnh vực về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng tính chất và mức độ chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự.33 Là biện pháp thay đổi môi trường, cách ly sự giao tiếp hàng ngày với
bên ngoài có sự kiềm cập, quản lý giáo dục của các trưởng trạm. Mặt khác, nâng cao
trình độ nhận thức cho các em, dạy nghề để sau này ra trường các em có một nghề
nghiệp để giúp đỡ các em có điều kiện tu dưỡng rèn luyện và cải tạo mình. Giáo dục
tải tạo này nhằm nâng cao giá trị lao động, giá trị con người trong xã hội. Trong thời
gian ở trường trại sẽ cách ly các em ra khỏi xã hội một khoảng thời gian để nhìn nhận
một cách tường tận hành vi của mình, những điểm cần sửa chữa khắc phục để trở
thành người công dân có ích cho xã hội, tạo cơ hội để các em được tái hòa nhập cộng
32
33

Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
Khoản 2 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-16-


SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

đồng và bình đẳng về cơ hội phát triển. Đồng thời nhằm giữ gìn kỷ luật, kỷ cương tính
nghiêm minh của pháp luật trong mọi trường hợp phải xử lý.
Tóm lại: Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp xử lý hành chính áp dụng với
người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 92 của Luật xử lý vi phạm hành
chính nhằm mục đích giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản
lý, giáo dục của nhà trường. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
từ 06 tháng đến 24 tháng.34
Cần lưu ý: Chủ thể bị áp các biện pháp xử lý hành chính nói chung và biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng nói riêng chỉ có thể là công dân Việt Nam.
1.4 Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên
1.4.1 Khái niệm
Hiện nay đối với khái niệm người chưa thành niên ở nước ta được quy định tại
nhiều văn bản pháp luật khác nhau, với những tên gọi khác chủ yếu là “ người chưa
thành niên ” , “ trẻ em” và “ vị thành niên”. Để làm rõ thêm những khái niệm này giống
và khác nhau như thế nào người viết xin đưa ra một số dẫn chứng như:
Từ điển tiếng việt ( Viện ngôn ngữ học, 2014 ) ghi nhận “ thanh niên’’ là người ở
độ tuổi được pháp luật công nhận với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, “vị thành niên’’ là
chưa đến tuổi được pháp luật công nhận với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ.
Theo từ điển luật học (nhà xuất bản Bách khoa, Hà nội 1999),35 không đưa ra khái
niệm “thành niên” trước mà đưa ra khái niệm “vị thành niên” và chú giải người chưa
thành niên là người chưa đến tuổi được pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng
quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Theo đó người chưa đủ 18 tuổi là “vị thành
niên”. Từ điển luật học đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, theo đó “người chưa thành niên” là
người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên theo định nghĩa này thì chưa thành niên sẽ không được

pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm,
nhưng mỗi ngành luật đều có những quy định khác nhau căn cứ vào đặc điểm tâm lý của
người chưa thành niên, ý thức của họ khi tham gia vào quan hệ của xã hội bị điều chỉnh
bới những vi phạm của ngành luật đó cụ thể.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: “trẻ em quy định trong luât
này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi’’.36 Trong khi đó, Công ước của Liên hợp quốc
về Quyền trẻ em37 (20/11/1989) được Việt Nam phê chuẩn năm 1990 lại xác định trẻ em
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi
34

Điều 91 luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
Từ điển Luật học (nhà xuất bản Bách khoa, Hà nội 1999).
36
Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
37
Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
35

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-17-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

thành niên sớm hơn ( Điều 1 ). Như vậy, nếu theo công ước của Liên hợp quốc, thì
nhóm tuổi vị thành niên theo quan điểm mà chúng ta vẫn thường hiểu xưa nay hoàn toàn
có thể được xếp vào nhóm trẻ em.

Bộ luật Dân sự Nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng quy định rằng:
“… Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên” : Điều 20 quy định năng luật hành
vi dân sự của người chưa thành niên là người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi và đồng
thời cũng lại quy định trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản
riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.38
Bộ Luật Hình sự 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 của Nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được Quốc hội , tại chương X quy định “người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
chung này…”, tiếp đó Điều 69 khoản 5 lại có sự phân biệt trách nhiệm hình sự của
người chưa thành niên đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.39
Trong khi đó, trên khía cạnh về những vấn đề lao động và việc làm, Bộ luật lao
động của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại có quy định như sau: Người
lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương
và chịu sự điều hành quản lý của người sử dụng lao động ( Điều 3 ); Người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi (Điều 161).40
Như vậy, có thể thấy rằng việc xác định độ tuổi người chưa thành niên là rất khó ,
việc đồng nhất khái niệm “chưa thành niên”, “vị thành niên” và “trẻ em” là không hợp
lý. Nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất cho rằng không nhất thiết phải có một khái
niệm cụ thể về người chưa thành niên, chỉ cần xác định người chưa thành niên bao gồm
những người ở lứa tuổi nào, hợp lý nhất là những người ở độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi
bởi đây là giai đoạn mà theo tâm lý học là giai đoạn có những biến đổi cơ bản nhất, ở độ
tuổi này người chưa thành niên chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Mặc khác, khi
nghiên cứu về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
theo Luật xử lý vi phạm hành chính thì trẻ em và người chưa thành niên từ đủ 12 tuổi có
thể bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về
mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng giới hạng độ tuổi trong
các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định cụ thể những
quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, trong pháp luật Việt

38

Điều 20 Bộ luật dân sự 2005.
Điều 68, khoản 5 Điều 69 Bộ luật hình sự 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.
40
Khoản 1 Điều 3, Điều 161 Bộ luật lao động 2013.
39

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-18-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

Nam “trẻ em và người chưa thành niên là hai khái niệm khác nhau được xác định căn cứ
vào độ tuổi. Mặc dầu các quy định về người chưa thành niên và trẻ em trong các đạo
luật ở nước ta có khác nhau về độ tuổi nhưng giữa “người chưa thành niên” và “trẻ em”
có đặc điểm chung trên cơ sở đó là được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặc thể chất
và tinh thần của con người được giới hạn bằng độ tuổi; ở lứa tuổi này nhìn chung
“người chưa thành niên” và “ trẻ em” cơ thể chưa phát triển đầy đủ, kinh nghiệm sống
chưa nhiều, tâm sinh lý chưa vững vàng, ổn định do đó quyền và nghĩa vụ của họ cũng
khác với người thành niên. Tuy nhiên, tùy từng mối quan hệ mà độ tuổi của “ người
chưa thành niên” và “trẻ em” cũng được quy định khác nhau với mục đích là bảo đảm
cho họ quyền lợi phù hợp với đặc điểm của họ về mặc thể chất và tinh thần. Nhìn ở các
góc độ khác thì “ người chưa thành niên” và “trẻ em” có thể được thể hiện bằng nhiều
cách khác nhau theo lứa tuổi, học sinh tiểu học, trung học phổ thông hoặc đội viên thiếu
nhi, đội viên đội thiếu niên tiền phong, đoàn viên.Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu

người viết chỉ nghiên cứu dựa trên những quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính
có hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm 2013.
1.4.2 Đặc điểm
Dưới góc độ tâm lí học, con người phải trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, mà mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm tâm sinh lí riêng, đặc trưng cùng
với tác động bên ngoài làm hình thành những những hành vi ứng xử khác nhau. Giai
đoạn chưa thành niên là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng trong cả quá trình phát
triển và hoàn thiện ấy. Nghiên cứu người chưa thành niên qua các đặc điểm về tâm lí,
sinh lí sẽ giúp chúng ta lí giải được cơ sở khoa học của những quy định pháp luật nói
chung và của Luật xử lí vi phạm hành chính nói riêng đối với đối tượng này. Sau đây
là một vài đặc điểm đặc trưng về tâm sinh lí của người chưa thành niên:
a) Đặc điểm sinh lí
Thời kì này, cơ thể phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều, biểu hiện bên
ngoài là các em lớn lên trông thấy. Tuỳ thuộc vào độ tuổi, ngay trong cùng giai đoạn
mà sự phát triển giữa nam và nữ là khác nhau, như cùng trong giai đoạn chưa thành
niên nhưng ở độ tuổi 12-13, các em nữ phát triển hơn các em nam về hình dáng thì ở
độ tuổi 14-15, cơ thể các em nam lại phát triển hơn. Tuy nhiên ở cả nam và nữ đều có
những đặc điểm chung của lứa tuổi.
Trọng lượng cơ thể phát triển nhanh cân nặng. Các chất tố thể lực như sức khỏe,
sức bền dự dẻo dai được tăng cường.
Cơ bắp sức lực phát triển mạnh dễ đạt thành tích trong mọi hoạt động.
GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-19-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”


Sự phát triển của hệ xương mà chủ yếu là sự phát triển của xương tay, xương
chân rất nhanh nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Do đó, cơ thể
phát triển không cân đối khiến các em trở nên lóng ngóng, vụng về và hay làm đổ
vỡ…
Sự phát triển của hệ thống tim mạch không cân đối khiến các em dễ rơi vào tình
trạng rối loạn tạm thời với những biểu hiện như: mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu.
Những biểu hiện này diễn ra không lâu nhưng lại thường xuyên, làm ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như tâm lý của người chưa thành niên.41
Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động
thần kinh làm cho các em dễ xúc động, hay bực tức hay nổi nóng, do đó các em hay có
những phản ứng mạnh mẽ và gay gắt về những người xung quanh, về những việc mà
các em cảm thấy không hài lòng.
Hệ thần kinh chưa có khả năng chịu được những kích thích mạnh và kéo dài, dẫn
đến cảm giác ức chế, uể oải, thờ ơ, lãnh đạm, tản mạn khiến các em đôi khi cư xử
không đúng với bản chất của mình, nghiêm trọng hơn là có những hành vi vi phạm
đạo đức xã hội và đặc biệt là vi phạm pháp luật.
Một đặc điểm sinh lí đặc trưng nữa của người chưa thành niên đó là sự phát dục,
đây là dấu hiệu cho thấy rõ ràng nhất sự lớn lên của các em. Điều này làm xuất hiện ở
các em nhiều biểu hiện mới như nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt là với bạn bè
khác giới. Các em trưởng thành hơn về mặt cơ thể, nhưng nhận thức vẫn còn hạn chế.
Chính những đặc điểm về sinh lí ảnh hưởng đến những đặc điểm về tâm lí, từ đó
quyết định đến hành vi của người chưa thành niên.
b) Đặc điểm tâm lí
Người chưa thành niên hay gọi là trẻ em vị thành niên, ở độ tuổi này là thời kỳ
chuyển đổi mạnh mẽ về sinh lý và tâm lý nhưng ở mức độ không đồng đều. Chúng
thường thể hiện tâm lý rất khác nhau ở từng giới tính, trong giai đoạn này hoạt động
chủ đạo của trẻ là học tập nhưng đòi hỏi mặt giao tiếp xã hội rất lớn, đều có tham số
chung thích trở thành “người lớn” và được mọi người thừa nhận, các em thích phóng
đại năng lực bản thân mình, nhu cầu giao lưu bạn bè lớn vì một số bí mật của lứa tuổi
các em thường thổ lộ với nhau. Do vậy nếu người lớn không hiểu và tôn trọng các em

đã xúc phạm đến lòng tự trọng của các em và khi trẻ bị xúc phạm sẽ dẫn đến tâm lý
tiêu cực và thường có hành vi lệch chuẩn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật. Các
em biết những việc nào thì được phép làm, những việc nào không nhưng vẫn làm theo
cách của mình với những lý do rất riêng. Do đó, khi mắc lỗi, thay vì nhìn nhận thẳng
41

Giáo trình Tâm lý học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội .NXB 2006.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-20-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

vào vấn đề để sửa chữa khắc phục thì các em lại cố che dấu, thể hiện ra cử chỉ điệu bộ
ở bên ngoài không tự nhiên, các em mới chỉ phát triển khá hoàn thiện về mặt sinh lí,
còn quá trình nhận thức vẫn chưa đầy đủ. Nhận thức về xã hội, đạo đức, pháp luật…
còn hạn chế, đặc biệt là nhận thức về pháp luật.
Các em muốn sống độc lập hơn và muốn tỏ ra mình là người lớn nhưng các em ở
độ tuổi này vẫn cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ, bởi những khó khăn, rắc rối
về mặt tâm lí, sinh lí là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là người hiểu rõ điều đó để
quan tâm cho đúng mức, sao cho các em vẫn có thể phát huy được tính độc lập của
mình nhưng không thể tách rời sự quản lý chặt chẽ cần thiết của cha mẹ.
Đặc điểm nổi bật trong thời kỳ này là, trẻ có nhu cầu được vừa lòng trong sự
quan tâm của gia đình bố mẹ, do vậy mà chúng sẳn sàng dối trá là phương thức biểu
hiện để thích nghi với môi trường gia đình và xã hội.
Do phát triển ở giai đoạn này đòi hỏi đứa trẻ về mặt ứng xử rất cao cho nên

những trẻ em có hành vi vi phạm thường thể hiện tính tiêu cực của tuyến ứng xử.
Chính vì vậy khi trở thành đối tượng áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng giúp các em nhận thức đúng đắn về pháp luật đảm bảo việc bảo vệ hiệu quả
nhất những quyền lợi của đối tượng "đặc biệt" này.
c) Đặc điềm về ý thức
Người chưa thành niên hành động theo ý muốn, ý thích của bản thân mình, theo hệ
thống quan điểm của bản thân, nhận thức và thái độ của bản thân các em về thế giới
xung quanh. Các em nhận thức pháp luật chưa cao. Chính vì vậy cách thực hiện quy
định chung về pháp luật cũng như những quy định chung được thừa nhận trong xã hội
của người chưa thành niên thường theo hướng không tuân thủ pháp luật hoặc chống đối
hoặc ý thức chấp hành kém . Chính vì vậy, nhu cầu độc lập của người chưa thành niên
trong việc chấp hành những quy định chung thường được thực hiện theo nhiều cách
khác nhau, ý muốn của các em không phải lúc nào cũng đúng đắng, chính đáng và phù
hợp với yêu cầu của xã hội như: ý muốn đua xe, ý muốn hút, chích, muốn vi phạm các
luật lệ thông thường mà xã hội quy định.. Về việc chấp hành luật lệ giao thông, các em
thường đua xe, lạng lách, chở ba, hoặc có hành vi chống đối người thi hành công vụ khi
tham gia giao thông để chứng minh với nhóm bạn của mình rằng mình có thể làm được
những điều đó. Đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật thì nhu cầu độc lập của
các em chưa được chú ý giáo dục và định hướng một cách thỏa đáng nên có thể đó là
một trong những yếu tố trở thành động cơ cho tình trạng vi phạm pháp luật. Người chưa

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-21-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”


thành niên thường theo hướng không tuân thủ pháp luật hoặc chống đối hoặc ý thức
chấp hành pháp luật kém.42
Sự tự chủ ở mức độ thấp ảnh hưởng của bạn đồng trang lứa (người chưa thành niên
mà sự phát triển cản trở họ đóng những vai trò được xã hội chấp nhận, hoặc khiến họ
thấy rằng mình không thể đáp ứng được yêu cầu đặt lên vai họ, thì họ sẽ chọn lấy một
cái chân giá trị tiêu cực theo quan điểm của Erik Erik Son).
Các em muốn chứng tỏ bản thân mình, rằng để không bị lệ thuộc vào bạn bè, rằng
mình phải hành động bằng cách của mình mà không phải theo cách của bạn bè mách
bảo.
Trong mối quan hệ bạn bè người chưa thành niên thường thể hiện nhu cầu độc lập
của mình bằng cách luôn nghĩ rằng mình đã lớn, cách suy nghĩ như thế cùng với việc
các em không được định hướng và giáo dục một cách thấu đáo về lối sống, về ý thức
trách nhiệm đối với bản thân và người khác thì nguy cơ vi phạm pháp luật rất cao.
Đối với trong quan hệ bạn bè là những mong muốn, đòi hỏi được hành động, suy
nghĩ theo cách riêng của mình mà không phụ thuộc gia đình.
Trẻ em vi phạm hành chính không cảm nhận được sự thương hại của cha, mẹ, chán
nản về gia đình, nghĩ gia đình là nơi trầm trọng, nảy sinh ra những xung đột bạn bè.
1.5 Mục đích và ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Mục đích áp dụng biện pháp này là mang tính cưỡng chế hành chính của Nhà
nước đối với chủ thể có hành vi vi phạm hành chính, có tính đặc thù và tính cưỡng chế
cao hơn các hình thức xử phạt hành chính thông thường, chỉ áp dụng đối với chủ thể vi
phạm là cá nhân, căn cứ vào nhân thân và quá trình vi phạm pháp luật của đối tượng
xuất phát từ lợi ích của người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật nhằm
cách ly các em khỏi môi trường xã hội trong một thời gian nhất định để quản lý, giáo
dục và tạo dựng môi trường mới, giúp các em được học tập và giáo dục trong môi
trường tốt nhất để các em có thể sửa chữa những sai phạm của mình và có điều kiện
học văn hoá, giáo dục pháp luật, hướng nghiệp, dạy nghề, sinh hoạt lành mạnh, giúp
các em rèn luyện khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình để phát triển
lành mạnh và trở thành người công dân có ích cho xã hội.43
Ý nghĩa áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là giáo dục cải tạo này

nhằm nâng cao giá trị lao động, giá trị con người trong xã hội. Mặc khác, nâng cao
trình độ nhận thức cho các em, dạy nghề để sau này ra trường các em có một nghề
42

Giáo trình tâm lý học tư pháp, trường Đại học luật Hà Nội. NXB CAND 2006.
Điều 58 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Điều 69 Bộ luật hình sự 2004; Điều 3, Khoản 1
Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em 1989.
43

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-22-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

nghiệp để giúp đỡ các em có điều kiện tu dưỡng rèn luyện và cải tạo mình. Trong thời
gian ở trường trại sẽ cách ly các em ra khỏi xã hội một khoảng thời gian để nhìn nhận
một cách tường tận hành vi của mình, những điểm cần sửa chữa khắc phục để trở
thành người công dân có ích cho xã hội, tạo cơ hội để các em được tái hòa nhập cộng
đồng và bình đẳng về cơ hội phát triển. Đồng thời nhằm giữ gìn kỷ luật, kỷ cương tính
nghiêm minh của pháp luật trong mọi trường hợp phải xử lý và nhằm tăng cường hiệu
quả đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-23-


.

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


Đề tài: “ Áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên thực tiễn tại huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp”

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO
TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Dưới gốc độ của Đảng và Nhà nước cũng như các cơ quan chức năng đã tạo điều
kiện để giảm tình hình vi phạm của người chưa thành niên, hiệu quả nhất là sử dụng
công cụ giáo dục và răng đe của pháp luật. Hiện nay, người chưa thành niên đưa vào
trường giáo dưỡng rất nhiều. Người viết xin nêu các quy định hiện hành của pháp luật
về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Trình tự, thủ tục thực
hiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Trình tự, thủ tục xem xét quyết
định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Thẩm quyền xem xét, quyết định
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Gửi và thi hành quyết định áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Truy tìm người đã có quyết định đưa vào
trường giáo dưỡng bỏ trốn.
2.1 Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là một trong những biện pháp xử lý hành
chính cùng với các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc; và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, do
các đối tượng chịu áp dụng biện pháp xử lý hành chính khác nhau nên pháp luật quy
định cụ thể để phù hợp, theo đó đối tượng buộc phải chịu áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng được pháp luật quy định như sau:
Theo quy định tại Điều 92 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 đối tượng áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng:44
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm rất nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng thực hiện
hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây gối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn.
44

Điều 92 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.

GVHD: Nguyễn Hữu Lạc

-24-

SVTH: Trần Thị Mỹ Châu


×