Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 36 (2010-2014)
Đề tài:
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA VỢ CHỒNG
ĐỐI VỚI TÀI SẢN CHUNG

Giảng viên hướng dẫn:
Trần Khắc Qui
MSCB: 002285
Bộ môn: Luật Tư Pháp

Sinh viên thực hiện:
Phan Ngọc Ẩn
MSSV: 5106030
Lớp: Luật Tư Pháp 1 – K36
Cần Thơ, 5/2014


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................Trang
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu..............................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu ...............................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................3
5. Kết cấu đề tài .........................................................................................................3

CHƯƠNG 1


LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA VỢ CHỒNG
VỚI TÀI SẢN
1.1. Khái niệm chung về trách nhiệm pháp lý về tài sản .......................................5
1.1.1. Trách nhiệm pháp lý .................................................................................5
1.1.2. Khái niệm giao dịch dân sự ......................................................................6
1.1.3. Khái niệm tài sản, quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng .......................7
1.1.3.1. Khái niệm tài sản .................................................................................7
1.1.3.2. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng .................................................9
1.2. Đặc điểm, phân loại trách nhiệm pháp lý ..................................................... 11
1.2.1. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý ................................................................11
1.2.2. Một số loại trách nhiệm pháp lýcơ bản ..................................................12
1.3. Đặc điểm, phân loại giao dịch dân sự ............................................................ 13
1.3.1. Đặc điểm giao dịch dân sự ......................................................................13
1.3.2. Phân loại giao dịch dân sự .....................................................................15
1.4. Tài sản chung của vợ, chồng .......................................................................... 16
1.5. Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm pháp lý liên đới của vợ chồng với
tài sản ....................................................................................................................... 18
1.5.1. Ý nghĩa về mặt pháp lý ............................................................................18
1.5.2. Ý nghĩa về mặt xã hội ..............................................................................18

CHƯƠNG 2
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA VỢ CHỒNG ĐỐI VỚI TÀI SẢN
THEO LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ,
chồng về tài sản....................................................................................................... 19
2.1.1. Căn cứ vào mục đích của người thực hiện hành vi làm phát sinh nghĩa
vụ tài sản ............................................................................................................20


2.1.2. Căn cứ vào sự thỏa thuận của vợ, chồng trong hành vi làm phát sinh

nghĩa vụ tài sản .................................................................................................20
2.2. Trách nhiệm pháp lý của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên vợ hoặc
chồng thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng .............................. 21
2.2.1. Những quy định về nghĩa vụ tài sản chung của vợ, chồng ...................21
2.2.2. Nguyên tắc áp dụng trách nhiệm dân sự liên đới ..................................24
2.2.2.1. Giao dịch hợp pháp............................................................................24
2.2.2.2. Giao dịch phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình ....................25
2.2.3. Những trường hợp vợ, chồng phải chịu trách nhiệm liên đới về tài sản
do một bên vợ hoặc chồng thực hiện ................................................................26
2.2.3.1 Những giao dịch phục vụ nhu cầu thiết yếu trong gia đình ................26
2.2.3.2. Những giao dịch bảo đảm lợi ích chung của gia đình có giá trị lớn
hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình .....................................................28
2.3. Trách nhiệm của vợ, chồng có nghĩa vụ riêng đối với tài sản ..................... 31
2.3.1. Những quy định về nghĩa vụ tài sản riêng của vợ, chồng.....................31
2.3.2. Nội dung nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng ........................33
2.3.2.1. Nghĩa vụ trả nợ ..................................................................................34
2.3.2.2. Nghĩa vụ về bồi thường thiệt hại ........................................................37
2.3.2.3. Nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng ......................................................38

CHƯƠNG 3
VƯỚNG MẮC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
3.1. Vướng mắc và hướng hoàn thiện giải quyết tranh chấp hợp đồng liên quan
đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng ...................................................... 43
3.1.1. Một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng liên
quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng ........................................43
3.1.1.1. Vướng mắc trong thực tiễn xác định về hình thức của hợp đồng liên
quan đến tài sản chung có giá trị lớn .............................................................43
3.1.1.2. Vướng mắc về thực tiễn xác định tài sản chung có giá trị lớn của vợ
chồng theo các hợp đồng ................................................................................45

3.1.1.3. Một số nhận xét và hướng hoàn thiện về những vướng mắc trong thực
tiễn xác định hình thức và xác định tài sản chung có giá trị của hợp đồng ...48
3.2. Những thuận lợi của việc quy định chế định trách nhiệm pháp lý của vợ
chồng đối với tài sản của Luật hôn nhân gia đình hiện hành ............................ 53


3.3. Một số vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện về chế định trách nhiệm pháp
lý của vợ chồng đối với tài sản .............................................................................. 54
3.3.1. Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện về chế định trách nhiệm về tài sản
chung của vợ chồng ..........................................................................................54
3.3.2. Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện về chế định trách nhiệm về tài sản
riêng của vợ chồng ............................................................................................59

KẾT LUẬN ............................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, cơ thể có được linh hoạt, khỏe mạnh hay
không đó là phải xem tế bào trong cơ thể có bền vững liên kết liền mạnh với nhau
hay không. Và gia đình cũng tương tự như vậy, gia đình là một phần của xã hội, gia
đình có tốt thì xã hội mới có sự ổn định và phát triển một cách bền vững, vững
mạnh. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy rõ được điều này nên đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật để nhằm điều chỉnh các quy định có liên quan đến lĩnh vực hôn
nhân và gia đình. Tồn tại những quy định đặc trưng điều chỉnh đó như là: Bộ luật
Dân sự 2005, Luật bình đẳng giới 2006, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em
2005 và Luật phòng chống bạo lực gia đình 2007,…và rất nhiều những quy định

quan trọng khác nhưng quan trọng hơn hết là luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
(sửa đổi bổ sung 2010). Với mục đích giải quyết những yêu cầu đặt ra ở thực tại và
điều chỉnh các vấn đề phát sinh liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Trong
quan hệ vợ chồng bên cạnh những nhu cầu về tinh thần như yêu thương, đùm bọc,
chăm sóc và cùng nhau giáo dục con cái,… và những nhu cầu về vật chất liên quan
đến nhu cầu thiết yếu của gia đình hằng ngày cũng không thể nào xem nhẹ được.
Trong đó, các quan hệ về tài sản của vợ chồng là một trong những nhân tố cơ bản
để vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Tạo điều kiện để các nhu cầu
về vật chất và tinh thần phát triển một cách hoàn thiện nhất.
Trong đời sống vợ chồng, bản chất của các quan hệ liên quan đến lĩnh vực
hôn nhân và gia đình là các mối quan hệ về nhân thân và tài sản, nó gằn liền với
những chủ thể nhất định, không thể tách rời được. Chính vì vậy đã làm nảy sinh các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ đối với nhau do vậy các nhà làm luật đã xây dựng
các quy định về các quyền và nghĩa của vợ chồng về tài sản chung, tài sản riêng,
cũng các căn cứ xác định trách nhiệm của các bên vợ chồng,…tổng hợp các quy
định này lại thành trách nhiệm về tài sản của vợ chồng.
Những quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm pháp lý của vợ
chồng đối với tài sản ngày càng được xây dựng hoàn thiện hơn và đáp ứng được đòi
hỏi của thực tại, đều đó đã góp phần tích cực vào việc kế thừa phát huy truyền
thống văn hóa, các giá trị đạo đức trong quan hệ hôn nhân, tôn trọng quyền tự do cá
nhân của vợ, chồng trong các quan hệ gia đình, quan hệ với các chủ thể khác ngoài
xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được trong những quy định thì
Luật hôn nhân và gia đình hiện hành vẫn còn nhiều bất cập liên quan đến các quy

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 1

SVTH: Phan Ngọc Ẩn



Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

định của pháp luật về trách nhiệm pháp lý của vợ chồng về tài sản. Một trong những
mặt tồn tại đó là những quy định của pháp luật vẫn chưa có quy định thật cụ thể các
vấn đề về trách nhiệm chung cũng như trách nhiệm riêng về tài sản của vợ chồng.
Chính vì thế sẽ rất ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ chồng và cả người có liên quan
khi giao dịch với nhau, một số thực tiễn xét xử giải quyết về tranh chấp của vợ
chồng về tài sản có giá trị lớn cũng rất khó giải quyết do luật quy định chưa cụ thể
về cách giải quyết, như những quy định về giao dịch đối với những tài sản trên có
hiệu lực ra sao và điều liện thế nào, có thể thấy những giao dịch này nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình hay đảm bảo cuộc sống gia đình và có sự thỏa thuận
hai bên vợ chồng mới có hiệu lực, cũng có những trường hợp lợi dụng vào kẻ hở
của quy định mà vợ, chồng đã gây ra nhiều thiệt hại cho người thứ ba trong mối
quan hệ thường gặp trong đời sống. Đồng thời các quy định pháp luật ban hành ra
chưa chặt chẽ nên đã gây ra sự khó khăn trong quá trình giải quyết của các cơ quan
thẩm quyền đối với những quyền lợi ích của vợ chồng và cả với người thứ ba.
Vì những lý do trên, người viết chọn đề tài: “Trách nhiệm pháp lý của vợ
chồng đối với tài sản chung”. Với mục đích phân tích những mặt còn tồn tại của
chế độ trách nhiệm pháp lý của vợ chồng về tài sản trong luật định và ngoài thực
tiễn. Qua đó, người viết kiến nghị một số ý kiến liên quan đến vấn đề trách nhiệm
pháp lý của vợ chồng với tài sản theo những quy định của luật hiện hành, nêu ra
được những vấn đề thật sự đang là vướng mắc hiện nay ảnh hưởng đến các chủ thể
tham gia giao dịch và rộng lớn hơn là ảnh hưởng xấu đến xã hội ở nước ta, từ đó
góp phần nhỏ công sức vào việc hoàn thiện pháp Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Người viết nghiên cứu đề tài với mục tiêu sau:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này tìm hiểu một số vấn đề về lý luận chung
về chế độ trách nhiệm pháp lý của vợ chồng về tài sản, để thông qua đó có thể hiểu

rõ hơn về trách nhiệm của vợ chồng trong các mối quan hệ trong gia đình và ngoài
xã hội, đó là các trách nhiệm chung hay riêng về tài sản của vợ chồng được pháp
luật quy định hiện hành cũng như các vấn đề ngoài thực tiễn trong việc xét xử của
các cơ quan có thẩm quyền. Cũng chính vì vậy, người viết cũng trình bày một số bất
cập trong khâu quy định của pháp luật và một số vướng mắc trong khâu xét xử liên
quan đến trách nhiệm của vợ chồng về tài sản, đồng thời đưa ra một số kiến nghị về
việc xây dựng và hướng hoàn thiện về pháp luật nhằm đảm bảo việc thi hành về

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 2

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

pháp luật về trách nhiệm của vợ chồng đối với quyền và lợi ích của người có liên
quan trong việc giao dịch của các bên trên thực tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp, đề tài tập trung nghiên
cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của các quy định pháp luật về các vấn đề
trách nhiệm, nghĩa vụ tài sản chung, nghĩa vụ tài sản riêng của vợ chồng đối với
người có quyền theo quy định của luật hiện hành. Các trường hợp phải chịu trách
nhiệm liên đới của vợ chồng và một số trường hợp phải chịu nghĩa vụ riêng. Đưa ra
một số vướng mắc và đề xuất hướng giải quyết để bảo vệ được quyền lợi của các
chủ thể có liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài mang tính khoa học, người viết sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:

Trong quá trình nghiên cứu, trình bày đề tài, tác giả dựa trên những cơ sở
những kiến thức đã học, thu thập, tổng hợp nguồn tài liệu có liên quan giúp ích cho
việc thực hiện đề tài.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên
quan đến chế định về trách nhiệm, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng và khái quát
những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn;
Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật
hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như pháp luật một số
nước khác quy định về chế định trên.
Mục đích của người viết khi sử dụng các phương pháp trên nhằm giúp chúng
ta có một cái nhìn toàn diện hơn đối với những quy định của pháp luật hiện hành về
chế định trách nhiệm pháp lý của vợ chồng về tài sản.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời nói đầu, mục lục, kết luận và tài liệu tham khảo thì đề tài kết cấu
gồm ba chương:
Chương 1. Lý luận chung về trách nhiệm pháp lý của vợ chồng với tài sản
Chương 2. Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản theo luật hiện
hành
Chương 3. Vướng mắc và giải pháp hoàn thiện về trách nhiệm pháp lý về tài
sản của vợ chồng

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 3

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung


GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 4

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA VỢ CHỒNG
VỚI TÀI SẢN
Hôn nhân gia đình là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá nhân
và xã hội, ngoài chức năng duy trì nòi giống, thong qua những hoạt động trong hôn
nhân còn thể hiện nét văn hóa riêng đặc biệt của một cộng đồng nói chung và còn
thể hiện những thẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân nói riêng. Nhận rõ ý nghĩa quan
trọng đó, pháp luật Việt Nam đã dành riêng một đạo luật để hướng dẫn về vấn đề
này-Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Và phương diện về những chế định trách
nhiệm pháp lý về tài sản của Luật hôn nhân gia đình quy định sẽ cho chúng ta cái
nhìn tổng thể về khái quát chung về những khái niệm trách nhiệm pháp lý của vợ
chồng đối với tài sản.
1.1. Khái niệm chung về trách nhiệm pháp lý về tài sản
1.1.1. Trách nhiệm pháp lý
Trong ngôn ngữ hàng ngày, thì thuật ngữ “trách nhiệm’’ được dùng theo
nhiều nghĩa khác nhau, trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong lĩnh vực chính trị, đạo đức “trách nhiệm” được hiểu theo nghĩa bổn
phận, vai trò. Nó luôn mang tính tích cực xuất phát từ sự ý thức của con người về vị
trí, vai trò của mình đối với những tiến bộ xã hội, đối với mọi người như trách
nhiệm bảo vệ bạn bè, trách nhiệm phải chăm sóc gia đình hay trách nhiệm có tính
chất liên kết, liên quan đến nhau mà các bên phải thực hiện thay cho nhau và rất

nhiều trách nhiệm mà trong xã hội này chúng cần phải thực hiện để đảm bảo lợi ích
chung cho toàn xã hội.
Trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” cũng được sử dụng theo hai
nghĩa: nghĩa vụ và hậu quả bất lợi (trừng phạt). Trách nhiệm được hiểu theo nghĩa
nghĩa vụ là nói đến những điều pháp luật yêu cầu các chủ thể phải làm nghĩa vụ
trong một chức vụ, một hoạt động nhất định. Còn trách nhiệm theo nghĩa thứ hai là
nguy cơ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến
chủ thể đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi mình đã gây ra cho chủ
thể khác và trách nhiêm này luôn gây bất lợi cho chủ thể gây ra hành vi vi phạm
pháp luật. Đó là thái độ xử lý của nhà nước đối với những chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội.
Trách nhiệm pháp lý do chính các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 5

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Truy cứu trách nhiệm pháp lý tức là áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà
nước đã được quy định trong chế tài các quy định pháp luật. Tuy nhiên, cũng có
một số biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng không liên quan đến trách
nhiệm pháp lý (nó được áp dụng cả khi không xảy ra vi phạm pháp luật), ví dụ
cưỡng chế cách ly những người mắc một số bệnh truyền nhiễm, nhà nước trưng thu,
trưng mua một số loại tài sản nào đó khi thấy cần thiết.
Tóm lại, trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa

nhà nước (thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ thể vi phạm pháp luật,
trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện
pháp cưỡng chế nhà nước được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.
Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý, ngoài tác dụng trừng phạt còn có ý nghĩa
rất lớn trong việc phòng ngừa, cải tạo và giáo dục những người vi phạm pháp luật.
Đồng thời răn đe tất cả những người khác, khiến họ phải tuân thủ, giữ mình không
vi phạm pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật và thực hiện pháp luật
nghiêm minh, làm cho mọi người tin tưởng vào công lý, tích cực đấu tranh chống
mọi biểu hiện vi phạm pháp luật, dần dần từng bước loại trừ hiện tượng vi phạm
pháp luật ra khỏi đời sống xã hội Xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm giao dịch dân sự
"Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" (Điều 121 BLDS năm 2005).
 Từ khái niệm giao dịch dân sự được quy định tại điều luật này ta có thể
xác định: Hậu quả của việc xác lập giao dịch dân sự là làm thay đổi hoặc phát sinh,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự.
Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý (hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa
phương-một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lý. Tùy từng giao dich
dân sự mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch là
hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch
dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch với mục đích và
động cơ nhất định.
 Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lí quan
trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung ứng dịch vụ
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong xã hội. Trong
nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, thông qua giao dịch dân sự (hợp

GVHD: Trần Khắc Qui


Trang 6

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

đồng) các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và các nhu cầu khác trong
đời sống hàng ngày của mình1.
1.1.3. Khái niệm tài sản, quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng
1.1.3.1. Khái niệm tài sản
Tài sản là vấn đề trung tâm cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan
hệ pháp luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã được đề cập rất lâu trong thực tiễn cũng
như trong khoa học pháp lý. Tài sản trên thực tế tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, vô
cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên thì mỗi loại tài sản có những đặc tính khác
biệt cần thiết phải có những quy chế pháp lý điều chỉnh riêng. Theo khái niệm tài
sản theo Bộ luật dân sự 2005 đã mở rộng hơn Bộ luật dân sự 1995 về những đối
tượng nào được coi là tài sản, theo đó, không chỉ những “vật có thực” mới được gọi
là tài sản mà cả những vật được hình thành trong tương lai cũng được gọi là tài sản.
Khái niệm tài sản lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995, theo
đó tại Điều 172 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định “Tài sản bao gồm vật có thực,
tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Tiếp đó, Điều 163 Bộ luật
dân sự 2005 (Bộ luật dân sự hiện hành) quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản”. Khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự 2005 đã mở
rộng hơn Bộ luật dân sự 1995 về những đối tượng nào được coi là tài sản, theo đó,
không chỉ những “vật có thực” mới được gọi là tài sản mà cả những vật được hình
thành trong tương lai cũng được gọi là tài sản.
Vậy khái niệm tài sản theo Bộ luật dân sự hiện hành quy định: tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Nhìn chung thì các khái niệm trên chỉ định nghĩa theo hướng liệt kê điều này

đã không đáp ứng sự phát triển của thực tiễn cuộc sống và gây ra sự tranh cãi về
một số đối tượng như: tài sản ảo trong game online, khoảng không, hệ thống khách
hàng… có được coi là tài sản trong pháp luật dân sự hay không? Chính điều này đòi
hỏi cơ quan lập pháp phải tiến hành sửa đổi quy định về khái niệm tài sản trong Bộ
luật dân sự theo hướng khái quát hơn và đưa ra những tiêu chí để phân biệt đâu là
tài sản, đâu không phải là tài sản.
Đã có rất nhiều quan điểm khac nhau về vấn đề này và sau đây là một số
quan điểm đươc xem la tiêu biểu:

1

Nguyễn Thị Ngọc Tuyền, Giáo trình Luật dân sự 2, Trường Đại học Cần Thơ, năm
2010

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 7

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Quan điểm thứ nhất cho rằng, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu2. Như
vậy, theo quan điểm này muốn hiểu tài sản là gì thì trước tiên chúng ta phải hiểu
quyền sở hữu là gì. Tuy nhiên, tại Điều 164 Bộ luật dân sự 2005 khái niệm quyền
sở hữu cũng chỉ được đưa ra theo hướng liệt kê, theo đó, quyền sở hữu bao gồm
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo
quy định của pháp luật. Do đó, nếu áp dụng khái niệm này thì chúng ta lại bị rơi vào
vòng luẩn quẩn định nghĩa tài sản thông qua một khái niệm quyền sở hữu trong khi

đó bản thân khái niệm quyền sở hữu cũng chưa giải quyết được một cách triệt để,
thậm chí còn là phái sinh từ khái niệm tài sản.
Quan điểm thứ hai cho rằng, tài sản là của cải vật chất tồn tại dưới dạng cụ
thể, được con người sử dụng và được nhận biết bằng giác quan tiếp xúc như giường,
tủ, bàn ghế, xe mô tô, tờ tiền…. Như vậy, theo quan điểm này thì chỉ những gì
thuộc về thế giới vật chất, hiện đang tồn tại và chúng ta có thể cầm, nắm … thì mới
được coi là tài sản. Do đó, quyền tài sản không được coi là tài sản.
Quan điểm thứ ba cho rằng, tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Đây
thực chất là một cách phân loại tài sản dựa trên tính chất vật lý không di dời được
về mặt cơ học và nó cũng rơi vào vòng luẩn quẩn như quan điểm thứ nhất khi định
nghĩa tài sản thông qua khái niệm bất động sản và động sản trong khi đó khái niệm
bất động sản và động sản cũng chưa được làm sáng tỏ và thậm chí muốn hiểu thế
nào là bất động sản và động sản thì phải hiểu thế nào là động sản trước. Hơn nữa,
nếu theo quan điểm này thì quyền tài sản không biết được xếp vào bất động sản hay
động sản?
Quan điểm thứ tư cho rằng, tài sản là những gì định giá được.
Thứ nhất, tài sản là những gì định giá được có thể hiểu là tài sản là những gì
trị giá được bằng tiền và tiền ở đây chỉ được hiểu là nội tệ vì ngoại tệ không được
coi là tiền, bởi lẽ ngoại tệ không bao giờ được coi là công cụ thanh toán đa năng
một tính năng quan trọng nhất của tiền3. Như vậy, tiền sẽ được định giá bằng gì? Và
nó có được coi là tài sản không?

2

/>
GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 8

SVTH: Phan Ngọc Ẩn



Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Thứ hai, nếu cứ những gì định giá được thì được gọi là tài sản, vậy tài sản nợ
- nghĩa vụ trả nợ cũng sẽ được xem là tài sản vì nó cũng có thể định giá được (cứ
xem giá của nó là 0 đồng thì giá 0 đồng hoàn toàn khác với không định giá được),
trong khi đó, tài sản thì có thể để lại thừa kế được còn nghĩa vụ trả nợ thì không để
lại thừa kế được, trừ nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi di sản do người chết để lại.
Với các quan điểm trên thì tài sản được hiểu với nhiều gốc độ pháp lý khác
nhau, thể hiện được rõ ràng các đặc tính khác biệt của nhiều loại tài sản trong các
quan hệ xã hội về tài sản.
1.1.3.2. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng
Quyền sở hữu tài sản chung đối với tài sản chung hợp nhất:
Theo Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ
chồng. Theo đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc
phát sinh của tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ chồng gồm những tài sản như sau:
Tài sản do vợ chồng làm ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh trong thời kỳ hôn nhân;
Những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: tiền
lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có được hoặc tài sản
mà vợ chồng được xác lập quyền sở hửu theo quy định của pháp luật...
Các tài sản mà vợ chồng mua sắp được thu nhập bằng thu nhập nói trên;
Tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hoặc thừa kế chung;
Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản mà vợ
hoặc chồng được thừa kế riêng hay tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng đã
thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung theo pháp luật quy định là tài sản chung.
Như vậy, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng do vợ, chồng
tạo ra bằng công sức của mỗi người từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm
dứt và những tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Cơ

sở pháp lý để xác định những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu là tài sản chung
của vợ chồng chính là giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản có ghi tên cả vợ và
chồng.
Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt (Khoản 2 Điều 219 Bộ luật
dân sự 2005 và Khoản 1 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình 2000). Như vậy, về
3

TS. Bùi Đăng Hiếu, Đại học Luật Hà Nội, Tiền - Một loại tài sản trong quan hệ
pháp luật dân sự - Tạp chí Luật học số 1/2005

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 9

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

nguyên tắc, vợ, chồng có quyền nghĩa vụ bình đẵng với nhau trong việc xây dựng,
phát triển và duy trì khối tài sản, đồng thời họ cũng có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tài sản thuộc sở hữu chung
hợp nhất. Đảm bảo cho vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình và lao động tạo ra
tài sản vì lợi ích chung của gia đình.
Đối với tài sản có giá trị lớn là nguồn sống duy nhất của gia đình, hay việc
dùng tài sản để đầu tư sản xuất kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc và thỏa
thuận (như vậy mới có giá trị pháp lý), trong trường hợp vì lí do nào đó mà chỉ có
một bên thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhưng xuất
phát từ lợi ích chung của gia đình thì phải chịu trách nhiệm liên đới.

Đối với tài sản có giá trị không lớn hay để phục vụ nhu cầu cần thiết hằng
ngày cho gia đình thì chỉ cần một trong hai bên thực hiện đương nhiên được coi là
sự đồng của bên kia.
Về việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân: Khoản 1 Điều 20 Luật hôn nhân
gia đình: “...trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa
vụ riêng hoặc có lí do chính đáng khác thì vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài
sản chung, việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản, nếu không thỏa thuận
được thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết.”
 Vợ chồng dầu tư kinh doanh riêng: xuất phát từ quyền tự do kinh doanh cá
nhân, mặt khác còn nhằm đảm bảo cuộc sống gia đình, tránh những ảnh hưởng tiêu
cực của hoạt động đầu tư kinh doanh.
 Vợ chồng thực hiên nghĩa vụ riêng trong trường hợp vợ chồng không có
tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ thì phải chia tài sản chung để giúp người
đó thực hiên nghĩa vụ của mình.
Vợ chồng cũng có quyền chia tài sản khi hôn nhân đã chấm dứt hoặc một
trong hai bên chết.
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng:
Tài sản riêng gồm: những tài sản có trước khi kết hôn, tài sản được tặng cho
riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản được chia riêng cho vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, những vật là đồ trang sức, nữ trang riêng được pháp luật
quy định.
Lí do vợ chồng có quyền có tài sản riêng:

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 10

SVTH: Phan Ngọc Ẩn



Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Phù hợp với hiến pháp quy định công dân có tài sản riêng nếu Luật hôn
nhân gia đình không thừa nhận thì đã tự tước đoạt đi quyền có tài sản riêng của
công dân
Phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Tạo điều kiện để họ thực hiện nghĩa vụ riêng đảm bảo lợi ích quyền lợi cho
người thứ ba.
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ chồng: vợ chồng có nghĩa vụ phải cấp
dưỡng khi hai người sống xa nhau và một trong hai người có lí do nào đó mà mất
sức lao động. Nghĩa vụ cấp dưỡng không chỉ trong thời kỳ hôn nhân mà cả khi hôn
nhân chấm dứt.
Quyền thừa kế tài sản của nhau: Tài sản chung chia trong thời kỳ hôn nhân
vẫn là tài sản thừa kế của vợ chồng, nếu li hôn mà tòa án chưa giải quyết hoặc bản
án chưa có hiệu lực thì vẫn được hưởng thừa kế. (Điều 638 BLDS năm 2005).
1.2. Đặc điểm, phân loại trách nhiệm pháp lý
1.2.1. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là điểm
khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã hội khác như
trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính trị…những loại trách
nhiệm này pháp luật ít khi quy định hoặc không có quy định mà do ý thức của mỗi
người tự vận động.
Trách nhiệm pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải
gánh chịu được thể hiện qua việc chủ thể đó phải chịu những sự thiệt hại nhất định
về tài sản, về nhân thân, về tự do… mà phần chế tài của các quy phạm pháp luật đã
quy định.
Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy
ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định.
Trách nhiệm pháp lý chứa đựng yếu tố là sự lên án của nhà nước và xã hội
đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Đặc điểm này thể hiện nội dung của trách nhiệm

pháp lý. Xuất phát từ đặc điểm này mà trách nhiệm pháp lý được coi là phương tiện
tác động có hiệu quả tới chủ thể vi phạm pháp luật. Vì vậy, về mặt hình thức, trách
nhiệm pháp lý là việc thực hiện chế tài pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật
thông qua hoạt động của cá cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ thể vi phạm
phải thực hiện chế tài đó. Như vậy, trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm
pháp luật cuối cùng là sự thực hiện các chế tài của quy phạm pháp luật.

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 11

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quy định có hiệu lực
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đặc điểm này xuất phát từ quan hệ
không tách rời giữa trách nhiệm pháp lý và nhà nước. Chỉ có nhà nước (thông qua
cơ quan, người có thẩm quyền) mới có thẩm quyền xác định một cách chính xác là
hành vi nào là hành vi vi phạm pháp luật và áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với
chủ thể vi phạm pháp luật đó.
1.2.2. Một số loại trách nhiệm pháp lýcơ bản
Trách nhiệm pháp lý mà nước Việt Nam ta sử dụng thường đuợc chia ra làm
4 loại:
Trách nhiệm hình sự: là trách nhiệm của một người đã thực hiện một tội
phạm, phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước là hình phạt về việc phạm tội
của họ. Hình phạt này do toà án quyết định trên cơ sở của luật hình, nó thể hiện sự
lên án, sự trừng phạt của nhà nước đối với người phạm tội và là một trong những
biện pháp để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Đây là loại trách

nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất.
Trách nhiệm hành chính: là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân đã thực hiện một vi phạm hành chính, phải gánh chịu một biện pháp cưỡng
chế hành chính tuỳ theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp cưỡng chế này do một
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết định trên cơ sở pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính.
Trách nhiệm dân sự: là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh chịu những
biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
thể khác hoặc khi vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Biện pháp cưỡng
chế phổ biến đi kèm trách nhiệm này là bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm kỷ luật: là trách nhiệm của một chủ thể (cá nhân hoặc tập thể)
đã vi phạm kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc phục vụ được đề ra trong nội bộ
cơ quan, tổ chức và phải chịu một hình thức kỷ kuật nhất định theo quy định của
pháp luật.
 Đây là 4 loại trách nhiệm được xem là cơ bản nhất để điểu chỉnh những
mối quan hệ cấp thiết nhất trong xã hội, tùy từng vào trường hợp mà áp dụng các
trách nhiệm trên để giải quyết cho thích hợp, cũng có thể kết hợp linh hoạt 4 loại
trách nhiệm điều chỉnh trên để giải quyết các quan hệ pháp luật.

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 12

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Ngoài 4 loại trách nhiệm trên theo nghiên cứu ta có thể tìm ra một số loại

trách nhiệm khác như sau:
Trách nhiệm vật chất: Trách nhiệm vật chất là trách nhiệm mà người lao
động phải gánh chịu khi gây ra thiệt hại cho tài sản của doanh nghiệp (như làm hư
hỏng hoặc làm mất dụng cụ, thiết bị, các tài sản khác do doanh nghiệp, giao cho
hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép) hoặc công chức phải gánh chịu vì
trong khi thi hành công vụ gây ra thiệt hại cho tài sản của nhà nước hoặc của chủ
thể khác. Người lao động hoặc công chức phải bồi thường một phần hoặc toàn bộ
thiệt hại theo thời giá thị trường và có thể được bồi thường bằng cách trừ dần vào
lương hàng tháng.
Trách nhiệm pháp lý của quốc gia trong quan hệ quốc tế: Quốc gia cũng có
thể phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế trong quan hệ quốc tế. Trách nhiệm này
có thể phát sinh từ hành vi vi phạm luật quốc tế của quốc gia. Ví dụ, quốc gia không
thực hiện các cam kết quốc tế mà mình đã công nhận (CEDAW, WTO) hoặc ban
hành luật trái với luật quốc tế, không ngăn chặn kịp thời các hành vi cực đoan tấn
công cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài của những người biểu tình… Trách
nhiệm này cũng có thể phát sinh khi có hành vi mà luật quốc tế không cấm. Ví dụ,
Quốc gia dùng quân sự dể tập trận diễn tap,sử dụng tên lửa vũ trụ, tàu năng lượng
hạt nhân, … gây ra thiệt hại cho vật chất cho các chủ thể khác của luật quốc tế.
Đây cũng là một số loại trách nhiệm cũng rất là quan trọng có tầm ảnh
hưởng rất nhiều đến lợi ích quốc gia và xã hội chúng ta cần nắm rõ và có sự vận
dụng một cách chính xác, chặt chẽ, nghiêm minh, nghiêm khắc trong xử lý và linh
hoạt trong sự kết hợp mới mang lại hiệu quả như mong muốn.
1.3. Đặc điểm, phân loại giao dịch dân sự
1.3.1. Đặc điểm giao dịch dân sự
Bên cạnh đặc điểm tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên giao kết
trong hợp đồng thì pháp luật cũng đặt ra một số nguyên tắc khác để các chủ thể
trong giao kết có thể tuân thủ theo những nguyên tắc đó cũng chính là những đặc
điểm của sự giao kết thể hiện ý chí của các bên. Các bên muốn được công nhận giao
kết có hiệu lực thì phải tuân thủ theo một số đặc điểm về điều kiện nhất định sau
đây theo điều 122 BLDS 2005. Đó là:

“Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
Mục đích và nội dung của giao dịch không quy phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 13

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.”
Đây là các đặc điểm về điều kiện để giao dịch dân sự trở nên hợp pháp có
hiệu lực pháp lý. Ngoài đặc điểm về điều kiện để giao kết trở nên có hiệu lực thì
còn có đặc điểm về mặt hình thức của giao dịch cũng rất là quan trọng trong việc
xác lập hiệu lực của giao kết.
Theo điều 124 BLDS 2005 thì: Giao dịch dân sự có thể thể hiện bằng hình
thức miệng (bằng lời nói): có thể nói hình thức miệng là hình thức phổ biến nhất
trong xã hội hiện nay mặc dù hình thức nay thường có độ xác thực cũng như tinh
cậy không cao. Hình thức miệng thường được áp dụng với các giao dịch thực hiện
ngay và chấm dứt ngay sau đó rất nhanh chống (hình thức mua bán thường trao đổi
qua tay), hoặc với những chủ thể rất thân với nhau có độ tinh cậy tuyệt đối với
nhau... Nhưng cũng có những trường hợp hình thức miệng nếu muốn có hiệu lực
phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định theo luật định mới có giá trị (di chúc
miệng theo điều 652 BLDS năm 2005).
Giao dịch dân sự thể hiện qua văn bản:
o Văn bản thường: Được áp dụng trong các trường hợp các bên tham gia
giao dịch dân sự thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch phải được thể hiện

bằng văn bản mới có hiệu lực. Với hình thức này thì có mức độ tinh cậy cao, có
chứng cứ xác định do các bên thể hiện ý chí của cá nhân họ bằng chữ ký của chính
bản thân họ vào những nội dung được thỏa thuận trên văn bản, hình thức này thể
hiện sự rõ ràng hơn trong việc chứng minh họ đã tham gia vào sự giao kết hơn hình
thức bằng lời nói cũng là hình thức miệng.
o Văn bản có công chứng cứng nhận, ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền
chứng thực: Hình thức này thì được áp dụng trong trường hợp pháp luật có quy định
giao kết phải bắt buộc phải lập thành văn bản, hoặc các bên có thỏa thuận phải lập
thành văn bản có công chứng, chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép thì
khi xác lập giao dịch các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó (chuyển quyền sử
đất, mua bán xe, nhà ở...).
Cuối cùng là hình thức giao dịch bằng hành vi: Đối với hình thức này thì
giao dịch dân sự thể hiện qua những hành vi nhất định được định ước trước. Ví dụ:
hành vi mua đồ trong siêu thị, mua nước ngọt trong những thiết bị tự động,...Đây là
những hình thức đơn giản nhất của quá trình giao dịch, giao dịch có thể xảy ra
không nhất thiết phải có đầy đủ các bên giao kết ở tại một địa diểm giao kết nào đó.
Và hình thức này cũng càng trở nên phổ biến hơn do tính chất tiện lợi, giản đơn của

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 14

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

công việc, hình thức rất phát triển tại các nước có nền kinh tế về công nghiệp hóa
cao.
1.3.2. Phân loại giao dịch dân sự

Dựa vào bản chất mà các giao dịch dân sự tạo thành: Đó là ý chí của chủ thể
tham gia giao dịch, căn cứ vào các bên tham gia vào giao dịch có thể phân biệt giao
dịch dân sự thành hai loại đó là hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương.
a. Hợp đồng dân sự
Ta có thể định nghĩa được hợp đồng dân sự theo Điều 388 BLDS 2005 được
hiểu là: Hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên trao đổi ý chí
với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự.
“Hợp đồng là một trong những chế định quan trọng, có tần suất áp dụng rất
cao trên thực tế và có khả năng ảnh hưởng đến sự vận hành của phần lớn các giao
dịch dân sự”4. Hợp đồng là một giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống hằng
ngày, hợp đồng thông thường thì có hai bên chủ thể cùng tham gia vào như hợp
đồng mua bán, cho thuê...Cũng có nhiều loại hợp đồng không chỉ có hai bên tham
gia mà còn có nhiều chủ thể khác cùng tham gia vào trở nên rất phức tạp như hợp
đồng hợp tác (Điều 111 BLDS 2005) thể hiện nhiều ý chí của những chủ thể tham
gia vào giao kết.
Sự gặp gỡ của ý chí và hiệu lực tương đối của hợp đồng.Hợp đồng làm phát
sinh nghĩa vụ theo một cơ chế chung: Các bên giao kết thống nhất ý chí về việc ràng
buộc lẫn nhau trong một quan hệ đặc trưng bằng thái độ xử sự của một bên nhằm
đáp ứng nhu cầu của bên kia tạo nên sự thống nhất về ý kiến, từ đó mới tạo điều
kiện hình thành được hợp đồng. Hợp đồng chỉ phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với
các bên giao kết và không tạo ra bất kỳ một nghĩa vụ nào đối với người thứ ba. Do
vậy hợp đồng dân sự là sự thảo thuận ý chí của hai hay nhiều bên về việc xác lập,
thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Có thể nói “thỏa thuận” vừa là
nguyên tắc cũng chính là đặc trưng trong giao kết hợp đồng dân sự, sự thỏa thuận
luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn của quá trình giao kết hợp đồng, cho đến khi
thực hiện hợp đồng hay có sự sửa đổi, thay đổi kể ca chấm dứt sự giao kết.
b. Hành vi pháp lí đơn phương

4


TS. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam, bản án và bình luận bản án, NXB
chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008 tr- 14,15
GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 15

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Hành vi pháp lí đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên
nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều đó có nghĩa là
trong đó một chủ thể đáp ứng yêu cầu của một chủ thể khác, và như vậy nghĩa vụ
phát sinh khi được ghi nhận dưới một hình thức nhất định, chỉ được thực hiện khi
cam kết được chấp nhận. Có thể xem như một cam kết đơn phương. Ví dụ: A đánh
rơi một món đồ A đăng thông báo tìm lại món đồ đó và sẽ hậu tạ cho ai tìm lại được
giúp mình.
Hành vi pháp lí đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy
nhất như: lập di chúc, từ chối nhận thừa kế... Cũng có thể có nhiều chủ thể cùng
tham gia vào một bên của giao dịch như: tổ chức tuyên bố hứa thưởng... Trong
nhiều trường hợp thì hành vi pháp lí đơn phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lí khi
những người khác đáp ứng được những điều kiện nhất định của người xác lập giao
dịch đưa ra và những người này phải đáp ứng được những điều kiện đó thì mới làm
phát sinh nghĩa vụ của người xác lập giao dịch như hứa thưởng... Hành vi pháp lí
đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và lẫn cả hình thức phải tuân thủ,
phù hợp với những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo ( Điều 122
BLDS 2005) và một số điều kiện đặc thù.
Điều kiện đặc thù:

 Tính chắc chắn của cam kết, tức là thể hiện trong lời cam kết đó là ý chí
nghiêm túc, có cân nhắc, chứ không phải là lời nói đùa.
 Tính có thời hạn: Bên đưa ra lời cam kết được quyền ấn định thời hạn, nếu
không đưa ra thời hạn cụ thể thì sẽ dựa vào tập quán của địa phương, nếu vẫn chưa
giải quyết được thì Tòa án sẽ ấn định.
1.4. Tài sản chung của vợ, chồng
Theo điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản chung của vợ
chồng được xác định như sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn,
được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 16

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải
ghi tên của cả vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”.
Tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 cũng quy định: để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong
trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy
định phải đăng ký sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên
của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng.
Nếu có tranh chấp là tài sản riêng, người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu phải chứng minh. Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có
tranh chấp này là của riêng, tài sản đó là của chung vợ chồng.
Như vậy theo điều 27 Luật hôn nhân và gia đình hiện hành chúng ta cũng
hiểu được tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nhưng
ngoài thực tế thì muốn xác định rõ ràng tài sản nào là chung thì cũng là một vấn đề
rất khó vì việc xác định tài sản có trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng hay tài sản
chung của vợ chồng không phải căn cứ người thực hiện giao dịch hay người đứng
tên trên các giấy tờ mà phải căn cứ nguồn gốc tạo dựng tài sản đó.

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 17

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

1.5. Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm pháp lý liên đới của vợ chồng với
tài sản
1.5.1. Ý nghĩa về mặt pháp lý

Vấn đề quy định về việc trách nhiệm pháp lý của vợ chồng về tài sản có ý
nghĩa rất quan trọng về mặt pháp lý cũng như cả về mặt xã hội. Trước hết là về mặt
pháp lý có ý nghĩa lớn trong vấn đề chế tài đối với các quan hệ do pháp luật quy
định, là khuôn khổ giải quyết các vấn đề tranh chấp về trách nhiệm tài sản của vợ
chồng, biện pháp cưỡng chế thi hành của nhà nước mang tính chất pháp luật, việc
quy định trên sẽ bảo vệ những quyền lợi và lợi ích về tài sản giữa vợ chồng cũng
như đảm bảo lợi ích của người thứ ba ( con cái, chủ nợ...). Mặt khác sẽ làm cho hệ
thống pháp luật chung của Việt Nam trở nên đầy đủ hơn và pháp luật riêng về Hôn
nhân gia đình của chung ta trở nên hoàn thiện hơn, chặt chẽ hơn trong vấn đề chế tài
đối với trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định.
1.5.2. Ý nghĩa về mặt xã hội
Về mặt xã hội cũng có tầm quan trong vô cùng to lớn, làm cho ý thức của
các chủ thể trong xã hội tôn trọng những lợi ích và quyền của nhau, điều đó sẽ làm
cho xã hội giảm tải đi một số lượng công việc rất lớn từ việc giải quyết các tranh
chấp về tải sản, hiểu được trách nhiệm pháp lý là như thế nào, luôn là những chế tài
gây ra thiệt hại cho chính chủ thể vi phạm pháp luật chính từ những suy nghĩ đó các
cá nhân trong xã hội sẽ hạn chế đi những vi phạm mà pháp luật quy định, sẽ làm
cho xã hội càng phát triển hơn đó là cái lớn nhất và riêng hơn nữa là nếu gia đình
không có tranh chấp thì không có vấn đề trách nhiệm pháp lý ở đây và sẽ không có
mâu thuẩn thì hạnh phúc gia đình là điều hiển nhiên. Gia đình không tranh chấp
không mâu thuẩn với những người xung quanh thì xã hội sẽ tốt đó cũng là tiêu chí
của việc tạo cho Luật hôn nhân gia đình của nhà nước ta.
Như vậy, qua chương thứ nhất chúng ta đã tìm hiểu được một cách khái quát
chung về những vấn đề khái niệm về trách nhiệm pháp lý là như thế nào, giao dịch
là thế nào và cả khái niệm về tài sản, quyền nghĩa vụ tài sản của vợ chồng cũng như
các vấn đề về đặc điểm, phân loại, ý nghĩa ra sau. Thì trong chương thứ nhất cũng
phần nào làm sáng tỏa được các vấn đề trên của luật học Việt Nam ghi nhận. Thông
qua những vấn đề ở chương thứ nhất đó sẽ là nền tảng để chúng ta tìm hiểu thêm
một số khía cạnh cũng rất là quan trọng sẽ được nghiên cứu, tìm hiểu ở chương thứ
hai trách nhiệm pháp lý về sự liên đới của vợ chồng với tài sản là như thế nào.


GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 18

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

CHƯƠNG 2
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA VỢ CHỒNG ĐỐI VỚI TÀI SẢN
THEO LUẬT HIỆN HÀNH
Ở chương thứ hai chúng ta sẽ tìm hiểu các vấn đề trách nhiệm liên đới của
vợ và chồng trong các giao dịch, các căn cứ xác định, nguyên tắc áp dụng cũng như
những trường hợp như thế nào vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới.Cũng như
chúng ta đã biết gia đình là một tế bào của xã hội, cuộc sống gia đình hạnh phúc thì
xã hội mới ổn định phát triển, thế nhưng trong cuộc sống gia đình có biết bao nhiêu
vấn đề tồn tại ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, ở đây chúng ta chỉ tìm về một số
vấn đề thiết yếu mà thôi đó là vấn đề tài sản của vợ chồng thực hiện trong các giao
dịch và một số trường hợp vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới và ngược lại.
2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm về nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ,
chồng về tài sản
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, tài sản của vợ, chồng được phân
định là tài sản chung hợp nhất hay là tài sản riêng thuộc sở hữu của vợ, chồng.Và
việc phân định hai hình thức sở hữu tài sản trên trong gia đình tất yếu cũng phần
nào làm phát sinh các nghĩa vụ tài sản được đảm bảo thực hiện bằng tài sản chung
hoặc tài sản riêng của một bên là vợ hoặc chồng.
Việc phân định nghĩa vụ tài sản chung hay riêng của vợ, chồng cũng còn
nhiều ý kiến cũng như những quan điểm mà thực tế bên ngoài cho thấy còn nhiều

quan điểm trái chiều với nhau.
Có quan điểm ý kiến rằng: Các nghĩa vụ tài sản phát sinh từ tài sản thuộc
hình thức sở hữu nào thì được thực hiện đảm bảo bằng tài sản đó. Như vậy, nếu
quan niệm như vậy thì sẽ có sự mâu thuẩn với tính chất cộng đồng của hôn nhân,
trong đó đặc điểm nổi bật là trong gia đình thì thường có sự trộn lẫn về tài sản và
nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng.
Việc phân định nghĩa vụ tài sản chung hay riêng cần lấy yếu tố lỗi làm căn
cứ để xác định cơ bản, đây là quan điểm thứ hai.Theo đánh giá thì quan điểm này
chỉ có ý nghĩa trong việc xác định “có hay không có trên thực tế nghĩa vụ tài sản
của vợ, chồng”còn nghĩa vụ tài sản đó là nghĩa vụ chung hay nghĩa vụ riêng của
một bên, ngoài yếu tố lỗi còn được phân định bằng những yếu tố khác, căn cứ khác.
Tổng kết từ những quan điểm trên và xuất phát từ nội dung chế độ tài sản của vợ,
chồng được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, có thể nêu lên hai
căn cứ sau đây:

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 19

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

2.1.1. Căn cứ vào mục đích của người thực hiện hành vi làm phát sinh nghĩa vụ
tài sản
Theo Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ hoặc
chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một
trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.”
Có thể thấy rằng, hành vi làm phát sinh nghĩa vụ tài sản được thực hiện trên

cơ sở vì lợi ích chung của gia đình hay lợi ích cá nhân của chủ thể thực hiện hành vi
sẽ là căn cứ để xác định nghĩa vụ đó là nghĩa vụ tài sản chung hay nghĩa vụ tài sản
riêng của một bên đó là vợ hoặc chồng.
Cũng theo điều luật trên thì những giao dịch hợp pháp do một bên vợ hoặc
chồng thực hiện và những giao dịch đó nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình thì đó là nghĩa vụ được xác định là nghĩa vụ tài sản chung của vợ và chồng
Sự liên đới trong trường hợp này phải thỏa mãn, lệ thuộc vào những điều
kiện sau đó là giao dịch đó phải hợp pháp và giao dịch đó phải đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình
Thêm một điều nữa ở đây là “lợi ích gia đình” phải luôn được đặt trong lợi
ích của cộng đồng và xã hội và hành vi đó phải phù hợp với pháp luật và không trái
với đạo đức xã hội. Và khi nghĩa vụ tài sản phát sinh từ hành vi trái pháp luật hoặc
trái với đạo đức xã hội thì nghĩa vụ phát sinh được thực hiện bằng tài sản chung hay
tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng phải căn cứ vào yếu tố lỗi của người đã
thực hiện hành vi đó
2.1.2. Căn cứ vào sự thỏa thuận của vợ, chồng trong hành vi làm phát sinh
nghĩa vụ tài sản
Thỏa thuận là hình thức chúng ta gặp rất nhiều trong cuộc sống xã hội của
chúng ta, thỏa thuận là cách đạt được những mục đích mà ta mong muốn, không
làm tổn hại nhiều đến nhau về mọi mặt, giúp ta có được nguồn lợi ích có thể nhất.
Vậy thỏa thuận trong cuộc sống gia đình thì sau, trong cuộc sống gia đình hang
ngày, những hành vi được tạo ra mang lợi ích cá nhân hoặc hành vi trái pháp luật có
thể được thực hiện bởi một bên vợ hoặc chồng và trên thực tế thì có những hành vi
cá nhân như chồng hoặc vợ thực hiện hành vi đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện
nghĩa vụ dân sự riêng thì vấn đề thỏa thuận được đặt ra là họ có thể thỏa thuận chia
tài sản chung (Khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) thì khi phát
sinh nghĩa vụ về tài sản, đó là nghĩa vụ riêng do một bên vợ hoặc chồng thực hiện.
Khi một trong hai bên thực hiện những hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến các lợi

GVHD: Trần Khắc Qui


Trang 20

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với tài sản chung

ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ thì thì đương nhiên nghĩa vụ về tài sản đó
là nghĩa vụ riêng của hai bên, cũng có thể có một vấn đề được đặt ra ở đây là hành
vi đó đã được thực hiện với sự thỏa thuận của vợ và chồng của người thực hiện
hành vi do sự xuất phát từ tình cảm vợ, chồng, sự ổn định của gia đình mà đã tự
nguyện chịu trách nhiệm chung đối với nghĩa vụ tài sản đã phát sinh. Cho nên, việc
phân định nghĩa vụ tài sản phát sinh trên cơ sở hành vi không vì lợi ích chung của
gia đình ta cần phải dựa trên nguyên tắc khi người thực hiện hành vi mang lợi ích cá
nhân cho riêng mình hoặc hành vi trái pháp luật, người đó phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình, ngoại trừ trường hợp vợ, chồng của họ thỏa thuận cùng thực hiện
hoặc sử dụng tài sản chung để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
2.2. Trách nhiệm pháp lý của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên vợ hoặc
chồng thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng
Cũng như chúng ta đã biết, cuộc sống hôn nhân của vợ, chồng không phải
tồn tại trong một thời gian ngắn mà có thể là tồn tại suốt cả cuộc đời, lúc đó sẽ tồn
tại biết bao mối quan hệ trong gia đình và ở ngoài xã hội, điều này có nghĩa là cuộc
sống vợ, chồng không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ gia đình mà cần thiết phải có
sự trao đổi, quan hệ với rất nhiều người khác trong xã hội, để đáp ứng nhu cầu cần
thiết chung của gia đình, các hợp đồng do vợ, chồng ký kết với những người khác là
rất nhiều, có thể nói là không một cặp vợ, chồng nào trong quá trình chung sống
trong thời kỳ hôn nhân mà biết rõ hết những gì mà mình đã ký kết bao nhiêu hợp
đồng với người khác vì lợi ích cá nhân và gia đình. Vì vậy, không thể tất cả các giao
dịch dân sự liên quan tới tài sản chung của vợ, chồng thì buộc cả hai bên phải có

mặt để cùng thực hiện được. Nên luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định
rất rõ những giao dịch do vợ hoặc chồng thực hiện liên quan đến tài sản chung của
vợ, chồng và trách nhiệm pháp lý của họ
2.2.1. Những quy định về nghĩa vụ tài sản chung của vợ, chồng
Nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng (còn gọi là nợ chung) có thể được hiểu
là nghĩa vụ phát sinh khi một hoặc cả hai bên vợ, chồng thực hiện hành vi vì lợi ích
gia đình hoặc nghĩa vụ phát sinh theo thỏa thuận của vợ chồng.
Để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của vợ chồng, các thành viên khác
trong gia đình, đảm bảo nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ, chồng, nghĩa vụ nuôi
dưỡng giáo dục con cái… thì vợ chồng cần phải tạo lập khối tài sản chung. Nhiều
khi tài sản chung của vợ chồng không đủ đáp ứng nhu cầu của gia đình, lúc đó vợ
chồng đã phải vay mượn tiền bạc, tài sản của người khác. Đó chính là những khoản

GVHD: Trần Khắc Qui

Trang 21

SVTH: Phan Ngọc Ẩn


×