Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

thảo luận nhóm THÂM hụt NGÂN SÁCH NHÀ nước ở VIỆT NAM và các GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.37 KB, 42 trang )

Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

THẢO LUẬN NHÓM

THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
***

NHÓM 1
1.
2.
3.
4.
5.

Đặng Thu Hằng
Trần Trung Đan
Nguyễn Phi Huy
Đỗ Thị Ngân
Hoàng Thị Thoan

1


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

CHƯƠNG I
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC & THÂM HỤT
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
***
I.



Ngân sách nhà nước:

Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam
thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước.
Hàm ngân sách có dạng đơn giản sau:
Trong đó: B là cán cân ngân sách
G là chi tiêu ngân sách
Y là thu ngân sách
Xét về hình thức: NSNN là một bản dự toán thu chi do Chính phủ lập ra.
Để trình Quốc hội phê chuẩn và giao cho chính phủ tổ chức thực hiện.
Xét về thực thể: NSNN bao gồm những nguồn thu cụ thể, những khoản
chi cụ thể và được định lượng. Các nguồn thu đều được nộp vào một quỹ tiền tệ
- quỹ NSNN - và các khoản chi đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ ấy.
Xét về các quan hệ kinh tế chứa đựng trong NSNN các khoản thu - luồng
thi nhập quỹ NSNN các khoản chi - xuất quỹ NSNN đều phản ánh những quan
hệ kinh tế nhật định giữa nhà nước vs người nộp, giữa Nhà nước với cơ quan,
đơn vị thụ hưởng quỹ.
2


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

Từ đây có thể rút ra nhận xét: NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát
sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện
chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.


II.

Thâm hụt ngân sách nhà nước:

Thâm hụt ngân sách (hay còn gọi là thiếu hụt ngân sách, bội chi ngân
sách nhà nước) là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá
các khoản thu "không mang tính hoàn trả" (thu trong cân đối) của ngân sách nhà
nước, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi
các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu
tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
VD: Thâm hụt NSNN năm 2009 là 155 900 tỷ đồng, tỉ lệ thâm hụt so với
GDP là 6.9 % (theo cách tính của Việt Nam).
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về NSNN hằng năm như sau:
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm

Thu

Chi

3


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

A. Thu thường xuyên

(thuế, phí, lệ phí).
B. Thu về vốn


(bán tài sản nhà nước).

D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần
(= cho vay mới – thu nợ gốc).

C. Bù đắp thâm hụt.
– Viện trợ.
– Lấy từ nguồn dự trữ.
Vay thuần (= vay mới – trả nợ gốc).

Trong đó: A + B +C = D + E + F. Công thức tính thâm hụt NSNN của một năm
sẽ như sau: Thâm hụt NSNN = (D + E + F) – (A + B) = C
Các lý thuyết tài chính hiện đại cho rằng, NSNN không cần thiết phải cân
bằng theo tháng, theo năm. Vấn đề là phải quản lý các nguồn thu và chi sao cho
ngân sách không bi thâm hụt qua lớn và kéo dài. Tuy vậy, trong nhiều nước, đặc
biệt là các nước đang phát triển, các Chính phủ vẫn theo đuổi một chính sách tài
khóa thận trọng, trong đó chi ngân sách phải nằm trong khuôn khổ các nguồn
thu ngân sách để tránh tình trạng thâm hụt.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói
chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời
gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực.

4


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt


III.

Phân loại Thâm hụt ngân sách Nhà nước:

Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai
loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.


Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những
chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã
hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục,quốc phòng,...



Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ
kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân.
Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách
từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.

5


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
***
A.


Tổng quan về Thâm hụt ngân sách Việt Nam:

*) Giai đoạn trước 1986:
Tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu kém, thu không đủ chi
thường xuyên, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ
vào sự viện trợ của nước ngoài là chính.
i) Giai đoạn 1986-1990:
Trong giai đoạn này thu không đủ cho chi ngân sách mức chi tiêu chính
phủ chủ yếu dựa vào viện trợ nước ngoài
Sau đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đông âu đã cắt dần viện cho
Việt Nam, bội chi ngân sách càng trầm trọng, nguồn thu lúc này chủ yếu dựa
vào vay nợ trong nước, ngoài nước và phát hành tiền. Đây cũng là nguyên nhân
gây ra lạm phát cao thời kì này.
ii) Giai đoạn 1991-1996:
Kinh tế đất nước có nhiều dấu hiệu tốt, như siêu lạm phát được đẩy lùi
nhờ chính phủ thắt chặt chi tiêu cùng với thay đổi cơ cấu chi ngân sách, chi tập
trung vào đúng đối tượng, tạo hiểu quả phát triển kinh tế, nguồn thu đã đủ cho
chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách giai đoạn trước được bù đắp bằng vay nợ.
Do vậy thời kỳ này bội chi ngân sách đã giảm đáng kể, bội chi trung bình ở mức
2,56% GDP trong khi giai đoạn 1986-1990 bội chi khoảng 7% GDP.
iii) Giai đoạn 1997-2001:
Nguồn thu ngân sách nhà nước đáp ứng cho cả chi thường xuyên và chi
đầu tư phát triển. Bội chi ở mức thấp trung bình 3,87% GDP từ năm 1996 đến
2000, nợ công cũng giảm đáng kể do kết quả của cơ cấu lại các khoản nợ công
6


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt


qua CLB Paris. Vào cuối những năm 1990, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
châu Á, nền kinh tế VN tăng trưởng chậm lại, tốc độ tăng đầu tư của nhà nước
giảm, hiện tượng thiểu phát xuất phát xuất hiện vào năm 2000-2001, đây cũng
là 2 năm có tỉ lệ bội chi ngân sách nhà nước chiếm gần 5% GDP, nhưng điều
này được xem như một tín hiệu tốt trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát, sản
lượng chưa đạt đến sản lượng tiềm năng, các chính sách tăng chi tiêu của CP
chẳng những sẽ không gây ra lạm phát mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
những năm tiếp theo.
iv) Giai đoạn 2002 – 2009:
Thu và chi ngân sách đều tăng mạnh. Theo thống kê, trong giai đoạn này
tốc độ tăng thu hàng năm là 20%, tốc độ tăng chi bình quân là 20,2%. Bội chi
ngân sách ở mức trên dưới 5% GDP, tăng cao hơn so với các giai đoạn trước.
Đây là kết quả của chính sách tài khóa nới lỏng theo đuổi mục tiêu tăng trưởng,
đặc biệt là năm 2009 với chính sách kích cầu nhằm hạn chế suy giảm kinh tế từ
ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm 2008, đã làm cho mức bội
chi ở mức cao 6,9% GDP.
v) Giai đoạn 2010 – 2012:
Trong giai đoạn này, CP nỗ lực trong việc tăng thu ngân sách, giảm bội
chi, giảm nợ công. Nghị quyết 11/NQ-CP của CP được ban hành nhằm thực thi
chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa cắt giảm chi tiêu công nhằm
giảm bội chi và kiềm chế lạm phát. Nhờ đó, tình hình bội chi ngân sách nhà
nước đã giảm chỉ còn 5,8% GDP năm 2010, 4,9% GDP năm 2011 và 4,8%
GDP năm 2012.

vi) Năm 2013:
Bội chi NSNN dự kiến: Do khả năng cân đối NSNN năm 2013 rất khó
khăn, vì vậy Chính phủ đã báo cáo Quốc hội quyết định giữ tỷ lệ bội chi NSNN
năm 2013 như năm 2012 là 4,8% GDP (162.000 tỷ đồng) để có thêm nguồn vốn
7



Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

cho đầu tư phát triển. Tuy vậy, nếu tính bội chi loại trừ chi trả nợ gốc, tỷ lệ này
chỉ khoảng 3% GDP, ở mức trung bình cao nếu so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á.

Nguồn: Triển vọng phát triển Châu Á 2013, Bộ Tài chính Việt Nam. Số liệu bội
chi của Việt Nam được tính theo phân loại thống kê tài chính chính phủ, trong đó đã
loại trừ phần chi trả nợ gốc.

8


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt
B.

Tình hình Thâm hụt ngân sách ở nước ta trong những
năm gần đây:
Bảng thông kê tình hình thâm hụt ngân sách qua các năm (2007 – 2013)
Đơn vị: Tỷ đồng

Chỉ tiêu

Tỷ lệ bội chi

Tổng thu cân

Tổng chi cân


Thâm hụt

đối NSNN

đối NSNN

NSNN

2007

311,840

368,340

56,500

5%

2008

408,080

474,280

66,200

4,95%

2009


442,340

584,695

115,900

6,9%

2010

559,170

588,210

113,110

5,8%

2011

674,500

796,000

111,500

4,9%

2012


743,190

905,790

140,200

4,8%

816,000

978,000

162,000

4,8%

Năm

2013
(dự toán)

NSNN so với
GDP

(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT Bộ Tài chính)

Biểu đồ Tỷ lệ Thâm hụt NSNN so với GDP (2007-2013)
Qua thống kê và đồ thị cho thấy, từ con số vượt bậc gần 7% trong năm
2009, tỷ lệ thâm hụt (bội chi) ngân sách ở Việt Nam đã giảm dần và ổn định trở
lại ở ngưỡng 5% so với GDP, xu hướng là tiếp tục ổn định. Tuy nhiên thì đây

vẫn luôn là một tỷ lệ rất cao. Theo kinh nghiệm quốc tế thì trong điều kiện bình
9


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

thường, thâm hụt ngân sách ở mức 3% GDP được coi là đáng lo ngại, còn ở
mức 5% GDP thì bị coi là đáng báo động

I. Nước ta đã thâm hụt ngân sách 10 năm liên tục và mức

thâm hụt này thuộc diện cao nhất so với các nước trong khu vực.
Báo cáo báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 "Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái
cơ cấu" do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vừa công bố chỉ ra rằng, thâm hụt ngân
sách và nợ công của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian qua.
Báo cáo chỉ ra rằng, thâm hụt ngân sách diễn ra liên tục trong khoảng hơn
một thập kỉ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Cụ thể, thâm hụt ngân sách
không bao gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai đoạn 2003 2007 chỉ là 1,3% GDP, nhưng con số này đã tăng hơn gấp đôi lên 2,7% GDP
trong giai đoạn 2008 - 2012.
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam qua các năm (%GDP)

Đặc biệt những năm gần đây, thâm hụt ngân sách liên tục đã kéo theo sự
gia tăng nhanh của nợ công. Tổng nợ công của Việt Nam đã tăng từ khoảng
40% GDP từ cuối năm 2007 lên tới 57% GDP vào cuối năm 2010 và chỉ giảm
đôi chút vào năm 2011. Cùng thời gian đó, nợ nước ngoài của Việt Nam cũng
tăng từ 32% lên tới gần 42% GDP.

10



Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt
Nợ công của Việt Nam qua các năm (%GDP)

Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng cho biết, những con số này có thể chưa
phản ánh đúng bản chất của thâm hụt tài khóa ở Việt Nam hiện nay. Các tổ chức
quốc tế đưa ra những con số khác xa với báo cáo của Bộ Tài chính.
Cụ thể, tính riêng năm 2009, con số thâm hụt ngân sách chỉ tính riêng
năm 2009 không bao gồm chi trả nợ gốc theo báo cáo của Bộ Tài chính là 3,7%
GDP, trong khi đó con số tương ứng của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)
và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cao hơn nhiều, lần lượt là 6,6% và 9,0% GDP.
Trung bình trong hai năm 2009-2010, con số thâm hụt ngân sách của
Việt Nam thuộc diện cao nhất so với các nước trong khu vực, vào khoảng 6%
GDP/năm. Con số này gấp khoảng 6 lần so với con số tương ứng của Indonesia,
gấp 2 lần so với Thái Lan.
Thâm hụt ngân sách ở một số nước châu Á 2009 - 2010 (%GDP)

11


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

Theo báo cáo, sự thiếu nhất quán trong cách hạch toán tài khóa khiến cho
các con số thống kê không phản ánh chính xác về thực trạng nợ công của Việt
Nam, gây nhiễu loạn thông tin cho những người tham gia thị trường. Đồng thời
nó khiến cho việc so sánh quốc tế, đánh giá, và quản lý rủi ro nợ công của Việt
Nam gặp khó khăn.
Sự bỏ sót trong hạch toán thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam
được thể hiện rất rõ thông qua các con số chênh lệch giữa lượng trái phiếu chính
phủ phát hành vay nợ thực tế hàng năm và con số trái phiếu chính phủ phát
hành phản ánh trong Quyết toán ngân sách Nhà nước.

Theo số liệu của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), chỉ tính
riêng hai năm 2010 và 2011, tổng giá trị trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính
phủ bảo lãnh mỗi năm được phát hành vào khoảng 110 ngàn tỉ đồng, cao hơn rất
nhiều so với con số báo cáo trong Quyết toán ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra, còn một lượng nợ lớn của các doanh nghiệp nhà nước, không
được Chính phủ bảo lãnh, cũng không được phản ánh trong bội chi ngân sách
và nợ công hàng năm của Việt Nam như thông lệ và khuyến cáo của nhiều tổ
chức quốc tế.

12


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

2. Tình hình Thâm hụt ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm

2013:
Bội chi 'vỡ' kế hoạch
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết bội chi ngân sách 2013 dự kiến
tương đương 5,3% GDP, vượt xa mức trần 4,8% cho phép.
Tại báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2013 trình bày tại phiên khai
mạc Quốc hội sáng 21/10, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết: "Tổng chi
ngân sách nhà nước năm 2013 ước đạt 986.300 tỷ đồng, tăng 0,8% so với dự
toán. Bội chi ngân sách nhà nước năm 2013 đạt 5,3% GDP. Dư nợ công chiếm
56,2% GDP, trong giới hạn an toàn". Như vậy, đây là lần đầu tiên Chính phủ
thừa nhận bội chi ngân sách đã vượt trần cho phép mà Quốc hội đề ra từ đầu
năm.
Ngay trước thềm kỳ họp này, Chính phủ đã đưa ra đề xuất nới trần bội
chi từ 4,8% GDP lên 5,3% GDP để tạo thêm dư địa tăng đầu tư phát triển trong
bối cảnh ngân sách khó khăn. Tuy nhiên, các thông tin trước đó từ Chính phủ

lẫn Bộ Tài chính đều không hề đề cập tới chuyện ngân sách đã chi vượt khung.
Theo tính toán của Chính phủ, cứ tăng bội chi thêm 1%, sẽ có thêm
40.000 tỷ đồng chi từ ngân sách và Chính phủ muốn dùng toàn bộ phần tăng
này cho đầu tư phát triển. Như vậy với mức bội chi dự kiến tăng thêm 0,5%,
ngân sách sẽ thâm hụt thêm 20.000 tỷ đồng.

13


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

3. Chính phủ dự toán NSNN 2014, trong đó tỷ lệ thâm hụt

ngân sách là 5,3% GDP.
CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2014
Đơn vị: Tỷ đồng

Stt

Nội dung

Dự toán
2014

A

TỔNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

782,700


1

Thu nội địa

539,000

2

Thu từ dầu thô

85,200

3

Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu

154,000

4

4,500

1

Thu viện trợ không hoàn lại
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
Chi đầu tư phát triển

2


Chi trả nợ và viện trợ

120,000

3

Chi phát triển các sự nghiệp KT-XH, quốc
phòng, an ninh, quản lý hành chính

704,400

4

Chi thực hiện cải cách tiền lương

5

Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính

100

6

Dự phòng

19,200

C


BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

-224,000

Tỷ lệ bội chi so GDP

5.3%

B

1,006,700
163,000

14


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt
C.

Nguyên nhân gây ra Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
trong những năm gần đây:
I.

Những nguyên nhân chung:

Thâm hụt ngân sách do rất nhiều nguyên nhân, và có sự ảnh hưởng khác
nhau đến sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Về cơ bản, tình trạng thâm hụt ngân
sách nhà nước gồm các nguyên nhân chính sau:
1. Nhóm nguyên nhân khách quan
a) Tác động của chu kì kinh doanh

Ở giai đoạn khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng
nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội.
Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh,
thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó
làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh
gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
b) Do hậu quả các tác nhân gây ra
Xã hội luôn phải đối mặt với những rủi ro thiên tai, dịch bệnh và đôi khi
cả những rủi ro do chính con người gây ra như chiến tranh, khủng bố tình trạng
dân số gia tăng…mặc dù khi lập dự toán ngan sách các quôc gia đã có những
biên pháp dự phòng nhưng đôi khi rủi ro vượt ra ngoài dự đoán để xử lý các
tình trạng khẩn cấp nhằm ổn định các hoạt dộng kinh tế xã hội, Nhà nước phải
tăng chi và thâm hụt ngân sách sảy ra ngoài mong muốn của Nhà nước.

2. Nhóm nguyên nhân chủ quan
a) Do cơ cấu thu chi ngân sách thay đổi
Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng
sẽ làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và
15


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác
động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
b) Do điều hành ngân sách nhà nước không hợp lý
i) Thất thu thuế nhà nước
Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên
cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận
viện trợ…tuy nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa

chặt chẽ đã tạo kẻ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất
thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà nước…điển hình, trong năm 2008
lượng thuốc lá nhập lậu vào nước ta đã làm thất thu thuế, lấy đi của ngân sách
nhà nước 2.500- 3000 tỉ đồng. Ngoài ra, lượng thuốc lá nhập lậu còn làm chảy
máu ngoại tệ của đất nước khoảng 200 triệu USD/năm, làm gia tăng thất nghiệp,
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các
doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy
nhiên, việc miễn thuế, giảm thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản
chi ngân sách khác gây thâm hụt ngân sách nhà nước.
ii) Đầu tư công kém hiệu quả
Trong 2 năm 2007 và 2008, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ
bên ngoài. Nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình
trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trên
thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn chưa
được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia
còn chậm và thiếu hiệu quả, đã gây lãng phí nguồn ngân sách nhà nước và
kiềm hãm sự phát triển của các vùng miền, là nguyên nhân chính dẫn đến thâm
hụt ngân sách nhà nước.

16


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

Bên cạnh đó, nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém
hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách
càng trở nên trầm trọng.
iii) Nhà nước huy động vốn để kích cầu
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu

Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải
pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
sẽ làm mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8-12%GDP.
iv) Chưa chú trọng giữa chi đầu tư phất triển và chi thường xuyên
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực
bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy,
thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách
và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa
phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác
định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm.
Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn
chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và
đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm
hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách. Để có
nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ
sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
v) Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn
Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm
thời trong ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát
và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ
chế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính. Đa số các
nhà kinh tế thường thống nhất rằng chi tiêu của chính phủ một khi vượt quá một

17


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực
một cách không hiệu quả => thâm hụt ngân sách nhà nước => lạm phát.

vi) Sự thâm hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng như
một công cụ trong chính sách tài khoá để kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng
năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định
được số thặng dư hoặc thâm hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối
ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường tương
đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép
chuyển nguồn sang năm. Đây chính là chính sách ngân sách thận trọng khi áp
dụng llý thuyết bội chi một cáhc chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong
chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội
chi có được sử dụng để chi đầu tư và phát triển cho cá dự án trọng điểm và hiệu
quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng
khả năng thu NSNN trong tương lai hay không.
vii) Bệnh quan liêu, tham nhũng ngân sách nhà nước
Đó là những căn bệnh trầm kha dẫn tới thâm hụt NSNN. Một lượng lớn
ngân sách nhà nước bị thất thoát do tham ô tham nhũng của các quan chức cấp
cao. Vụ vinaline, vinashin là những ví dụ điển hình. Hàng trăng nghìn tỉ đồng
của nhà nước đã đầu tư một cách vô ích.
viii) Tỷ lệ lạm phát cao
Tỷ lệ lạm phát cao là một trong những yếu tố chủ yếu dẫn đến thâm hụt
NSNN tại các nước trên thế giới, nhất là ở các nước đang phát triển ở châu Á…
Những khoản chi tiêu của Chính phủ các nước được tài trợ bởi thu thuế hoặc
các khoản thu khác có thể góp phần dẫn đến dư thừa của tổng cầu và gây lạm
phát. Thêm vào đó, trên thực tế Chính phủ nhiều nước có thể “bơm tiền” ra để
tài trợ cho thâm hụt ngân sách, do giá cả chưa phản ứng ngay. Tuy nhiên, trong

18


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt


trung và dài hạn, khi lạm phát xảy ra thì khả năng thu thuế lạm phát sẽ dần bị
hạn chế.

II. Những nguyên nhân cụ thể:
1.

Nguyên nhân khách quan

Nền kinh tế Việt Nam đang trong tình trạng suy thoái kéo dài, từ năm
2012 tại Việt Nam đã có hơn 54.261 doanh nghiệp giải thể (2012) và 60700
(2013) doanh nghiệp đóng cửa ngừng sản xuất, khi các doanh nghiệp đóng cửa
đã gây thất thu cho ngân sách, không những không có thu mà ngân sách nhà
nước còn phải dùng để cứu trợ nền kinh tế. Cụ thể trong năm 2012, 2013, Chính
phủ đã tung ra hàng loạt các gói kích cầu như gói kích cầu 29.000 tỉ VNĐ
(2012) hay gói kích cầu cứu bất động sản 2013 trị giá 30.000 tỉ VNĐ để đảm
bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
Việt Nam đang bắt đầu bước vào con đường phát triển nên cần phần đầu
tư lớn, có thể nhận thấy chính phủ Việt Nam đang quan tâm và đẩy mạnh đầu tư
trong nước. Những năm gần đây, đầu tư cơ bản trong nước ngày càng được
nâng cao, thường chiếm hơn 40% ngân sách nhà nước.
Thiên tai bão lũ ngày càng có tác động nghiêm trọng, hàng năm có rất
nhiều cuộc thiên tai có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của nhân dân, chính phủ
đã phải dùng tới ngân sách nhà nước để dần khắc phục hậu quả thiên tai như trợ
cấp bão lũ, trợ cấp dịch bệnh, mất mùa,...
Ngân sách nhà nước còn phải chịu áp lực nặng nề từ an sinh xã hội, lương
cho những người có công, hàng năm ngân sách phải chi trả cho hơn 8,8 triệu
người có công với Tổ quốc…
2.


Nguyên nhân chủ quan

Bộ máy Nhà Nước ngày càng phình to, là 1 gánh nặng đối với ngân sách
nhà nước, cụ thể tiêu biểu là 1 UBND 1 phường tại Hạ Long Quảng Ninh mà có
đến nửa vạn người là cán bộ…
19


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

Ngân sách hiện này còn phải chi trả cho các tổ chức kinh tế - xã hội như
các tổ chức Đảng, tổ chức Đoàn, hiệp hội phụ nữ, hội nông dân…

3.

Năm 2013:

8 tháng đầu năm 2013, thâm hụt ngân sách đã đạt tới 119.850 tỷ đồng
khiến Chính phủ liên tục phát hành trái phiếu nhằm huy động nguồn tiền để trả
nợ, đồng thời sử dụng cho các hoạt động chi ngân sách hiện đang có mức bội
chi đạt 74% kế hoạch từ đầu năm
Báo cáo của Bộ Tài chính về tình hình Ngân sách Nhà nước (NSNN) 8
tháng đầu năm cho thấy hiện hoạt động này đang rơi vào tình trạng hụt thu, lạm
chi. Cụ thể, tổng thu NSNN trong tháng 8/2013 đạt 50.100 tỷ đồng, giảm
22.900 tỷ đồng so với tháng 7. Dự kiến, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm
2013 ước đạt 788,5 nghìn tỷ đồng, hụt thu 27,5 nghìn tỷ đồng, đạt 96,6% dự
toán năm.
Trong khi đó, tổng chi NSNN tháng 8 ước đạt 75.000 tỷđồng. Trong khi
lũy kế 8 tháng đầu năm thu NSNN chỉ đạt 484.820 tỷđồng thì chi NSNNđã lên
tới 604.670 tỷđồng, chi NSNN vượt thu tới xấp xỉ 25%, tương đương 119.850

tỷ đồng. Mức bội chi đạt 74% kế hoạch Quốc hội quyết định từ đầu năm, trong
khi đó, từ nay đến hết năm vẫn còn kéo dài hơn 1 quý nữa, với tốc độ bội chi
như hiện nay, nhiều khả năng con số lạm chi sẽ vượt quá kế hoạch đề ra.
Cũng theo Bộ Tài chính, nhằm duy trì nguồn thu và bù đắp bội chi, tính
đến ngày 22/8, Chính phủ đã tiến hành huy động 134.820 tỷđồng trái phiếu (đạt
69,1% kế hoạch). Cơ quan này cho biết, kết quả huy động trái phiếu Chính phủ
hiện đang thấp hơn so với yêu cầu đặt ra cho những tháng còn lại của năm 2013.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hoạt động thu NSNN đạt thấp so với
dự toán năm là do sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, các doanh nghiệp đạt lợi
nhuận thấp, giảm thu từ xuất khẩu, ngoài ra NSNN còn chịu tác động của các
chính sách miễn, giảm thuế với mục đích hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh.
20


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn tìm mọi cách để trốn thuế. Điển
hình có thể kể tới một số doanh nghiệp FDI như Nestlé Việt Nam, Coca Cola…
liên tục báo lỗ hàng chục năm trời trong suốt quá trình hoạt động, mỗi năm báo
lỗ từ vài triệu cho tới vài chục triệu USD. Dưới danh nghĩa đó, các doanh
nghiệp FDI tránh được khoản thuế thu nhập doanh nghiệp không hề nhỏ. Không
chỉ Nestlé, Coca Cola, theo thống kê của Bộ Tài chính, còn hàng ngàn doanh
nghiệp báo lỗ có dấu hiệu chuyển giá.Chưa hết, theo Cục thuế TP.HCM, thông
qua kiểm toán nhà nước đã phát hiện hàng loạt doanh nghiệp lớn trong nước
cũng có dấu hiệu chuyển giá. Riêng trên địa bàn TP.HCM, trong năm 2012 đã
có 1.500 hồ sơ doanh nghiệp thường xuyên khai lỗ, giao dịch liên kết, có dấu
hiệu chuyển giá (tăng 52% so với năm 2011). Việc kê khai không trung thựckết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh để trốn thuế cũng là một trong những
nguyên nhân chính gây thất thu lớn cho NSNN, và càng ngày càng có xu hướng
phổ biến.

Tình trạng hụt thu và lạm chi NSNN diễn ra kéo dài khiến Chính phủ
thường xuyên rơi vào cảnh vay nợ. Theo con số của Bộ Tài chính, chỉ trong 8
tháng đầu năm nay, NSNN đã dành ra 68.980 tỷđồng, tăng 3,1% so với cùng kỳ
năm 2012 để chi trả nợ và viện trợ. Tính riêng tháng 8/2013, con số này là 7.300
tỷđồng.
Trong thời gian tới, khi chưa có giải pháp mang tính vĩ mô, và toàn diện
nào nhằm hạn chế tốc độ thâm hụt ngân sách ngày càng cao như hiện nay,
Chính phủ vẫn sẽ phải tiến hành vay nợ trong và ngoài nước dưới nhiều hình
thức, và dưới bất kỳ hình thức nào, cũng sẽ tạo nên những tác động tiêu cực đến
hoạt động đầu tư và tiêu dùng trong nước. Trong một giả định khác, nếu muốn
hạn chế vay nợ, Chính phủ có tăng thuế hoặc in thêm tiền, song khi sử dụng
biện pháp này, ắt hẳn các doanh nghiệp sẽ càng tìm cách trốn thuế, đồng thời
chỉ số lạm phát sẽ trở nên khó kiểm soát.

21


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt
D.
I.

Tác động của Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam

Tác động tới nền kinh tế:
Đối với lãi suất thị trường và sự ổn định của đồng tiền.
Tình trạng thâm hụt ngân sách với tỷ lệ cao và triền miên sẽ làm tăng lãi
1.

suất trường và giảm sự ổn định của đồng tiền trong nước. Nhìn vào những nước
đã từng trải qua tình trạng có lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước

này thường là hệ quả của việc in tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách nhà
nước. Như vậy thâm hụt ngân sách cao và kéo dài tất yếu dẫn tới việc nhà nước
buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt và điều này đến lượt nó dẫn
tới lạm phát. Lạm phát cao làm mất sự ổn định của đồng tiền và làm tăng lãi
suất. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế
để bù đắp thâm hụt chiếm 1/3 thâm hụt, tức là chiếm 1,5-1,7% GDP . Nếu cộng
thêm cả phần vay về cho vay lại (phát hành trái phiếu quốc tế) thì lường tiền từ
bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bồi đắp thâm hụt ngân sách khoảng 2,33% GDP. Đây chính là nguyên nhân gây ra lạm phát trong năm 2007 và những
tháng đầu năm 2008. Còn phần bù đắp từ vay trong nước vể cơ bản chỉ là thu
tiền từ trong lưu thông vào ngân sách nhà nước sau đó lại chuyển vào lưu thông
nên không làm tăng lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vòng quay
tiền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo hệ số nở cao hơn cần thiết. Điều này cũng góp
phần làm tăng lạm phát nhưng không lớn bằng việc trựu tiếp phát hành tiền ra
và vay vốn từ bên ngoài để tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước.Còn một cách
giải thích khác đó là: Một cách đơn giản nhất, bội chi ngân sách trung ương và
địa phương trực tiếp làm cho cầu của quỹ cho vay tăng làm tăng lãi suất. Sau
nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm
phát và do vậy mà sẽ gây áp lực tăng lãi suất. Trên một giác độ khác, thông
thường khi bội chi ngân sách tăng, chính phủ thường gia tăng việc phát hành
trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu
có xu hướng giảm xuống, lãi suất thị trường vì vậy mà tăng lên. Hơn nữa, tài
sản có của các ngân hang thương mại cũng gia tăng ở khoản mục trái phiếu
chính phủ, dữ trự vượt quá giảm, lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
22


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

Đối với đầu tư sẽ làm suy giảm đầu tư trong tương lai.
Khoản thâm hụt tích lũy hàng năm sẽ cấu thành nợ công quốc gia. Nhiều

2.

nhà kinh tế cho rắng tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài sẽ khiến cho nguồn
vốn cho đầu tư của doang nghiệp trở nên khan hiếm hơn, lấn át đầu tư của khu
vực tư nhân và do vậy sẽ kìm hãm sự tăng trưởng trong dài hạn. Một số cuộc
khủng hoảnh nợ công gần đây là minh chứnh rõ nét cho những tác động bất lợi
của việc duy trì thâm hụt ngân sách thông qua việc cắt giảm chi tiêu hoặc tăng
thuế. Trên thị trường vốn vay, việc cắt giảm thâm hụt ngân sách sẽ làm gia tăng
lượng cung vốn vay tại mọi mức lãi suất. Đường cung vốn vay sẽ dịch chuyển
song song sang bên phải. Lúc này tại mức lái suất ban đầu 5%, thị trường vốn
vay xảy ra tình trạng dư cung vốn vay do lượng tiết kiệm tăng. Hệ quả là lãi
suất giảm. Lãi suất giảm sẽ làm tăng lượng tiết kiệm hộ gia đình giảm bớt một
phần và lượng cầu vốn vay tăng lên. Điểm cân bằn mới của thị trường sẽ là tại
mức lãi suất 4% và lượng vốn vay 1600.
Đối với cán cân thương mại.
Thâm hụt ngân sách có thể gây ra mất cân bằng các cân thương mại.
3.

Thâm hụt tài khoản vãng lai, nghiêng về nhập khẩu. Một trong những nguy cơ
gây ra khủng hoảng kinh tế là vấn đề thâm hụt kép: vừa thâm hụt tài khoản vãng
lai lớn vừa thâm hụt ngân sách nhà nước lớn
Hiệu số giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong khoản giao dịch còn gọi là
cán cân thương mại. Các hoạt động xuất và nhập hàng hóa không chỉ được đánh
giá thông qua số lượng mà còn được đánh giá thông qua tỷ lệ trao đổi. Tỷ lệ trao
đổi ở đây là tỉ số giữa giá hàng xuất khẩu của một nước và giá hàng nhập khẩu
của bản thân nước đó. Như vậy, nếu như giá xuất khẩu tăng lên một cách tương
đối so với hàng nhập khẩu thi cán cân thương mại sẽ được tăng cường theo
hướng tích cực và ngược lại (nếu như khối lượng hàng không thay đổi).
Như ta đã phân tích ở trên, tình trạng thâm hụt ngân sách sẽ làm cho lãi
suất thị trường tăng. Lãi suất tăng làm cho giá trị đồng nội tệ tăng giá, giá hàng

hóa trong nước theo đó cũng tăng theo đó cũng tăng làm giảm lượng hàng xuất
khẩu. Trong khi tương ứng, hàng hóa của đất nước khác sẽ rẻ tương đối so với
23


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

nước đó, dẫn tới việc tăng lượng hàng nhập khẩu. Vì vậy, thâm hụt ngân sách sẽ
gây ra tình trạng nhập siêu: Nhập vào lớn hơn xuất ra, việc sử dụng hàng hóa
sản xuất trong nước bị hạn chế, sản xuất gặp nhiều khó khăn, tác động không ít
tới sự tăng trưởng kinh tế.
Để thấy được mối quan hệ giữ thâm hụt ngân sách với thâm hụt tài khoản
vãng lai ta xét đẳng thức sau:
CA= Sp + Sg – I = (Y-T-C) + (T-G) – I
Trong đó CA (current account) là mức thâm hụt/thặng dư của tài khoản
vãng lai, Sp là tiết kiệm của khu vừc tư nhân, Sg là chênh lệch giữa thu ngân
sách và chi tiêu chính phủ. Con số chênh lệch giữa thu và chi ngân sách chính là
thâm hụt ngân sách. Từ đẳng thức trên ta thấy, tăng thâm hụt ngân sách hay
tăng đầu tư sẽ dẫn tới tăng thâm hụt ngân sách.
Tác động tới việc thực hiện phúc lợi xã hội:
Hàng năm, ngân sách nhà nước giành một khoản rất lớn để thực hiện
4.

phúc lợi xã hội như chi sự nghiệp giáo dục, chi sự nghiệp y tế, chi sự nghiệp
văn hóa, nghệ thuật, xã hội.Các khoản chi sự nghiệp giáp dục nhằm mục đích
nâng cao trình độ dân trí của các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống cho nhân dân. Chi sự nghiệp
y tế, khoản chi phục vụ công tác phòng bệnh và chữa bệnh nhằm nâng cao mức
sống của mọi người dân trong xã hội. Việc nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh và tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho một nền y học hiện đại đòi hỏi

cần thêm nhiều nguồn vốn nữa. Khoản chi cho các vấn đề xã hội nhằm bảo đảm
cuộc sống của nọi người dân khi gặp khó khăn, tai nạn, già yếu, những người
không có khả năng lao động đồng thời giải quyết những vấn đề nhất định, hỗ trợ
cho đồng bào khi xảy ra lũ lụt thiên tai. Khoản chi này đặc biệt cần thiết ở Việt
Nam khi nước ta thường xuyên xảy ra thiên tai bão lũ, mất mùa ảnh hưởng
nghiêm trọng tới đời sống của người dân. Để bù đắp thâm hụt ngân sách trong
thời gian dài, nhà nước phải cắt giảm các khoản chi tiêu của chính phủ làm ảnh
hưởng không nhỏ đến việc thực hiện phúc lợi xã hội nhằm hỗ trợ và cải thiện
đời sống của người dân.
24


Nhóm 1 - Lớp LTTCTT (114)_13: Thầy Phạm Thành Đạt

25


×