Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

hạn chế của nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khóa: 36 (2010 – 2014)

Đề tài:
HẠN CHẾ CỦA NGUYÊN TẮC TỰ DO TRONG
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

TS. Cao Nhật Linh
Bộ môn: Luật Thương Mại

Phan Văn Chung
MSSV: 5106033
Lớp: Luật Thương mại 2 - K36

Cần Thơ, tháng 5/2014


MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .......................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài .................................................................................. 3
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ........................................................ 3


6. Cơ cấu của luận văn ................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1 ...................................................................................................................... 5
KHÁT QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC TỰ DO TRONG GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM ........................................................... 5
1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa ........................................................ 5
1.1.1 Khái niệm về hàng hóa. ..................................................................................... 5
1.1.1.1 Khái niệm về hàng hóa. .............................................................................. 5
1.1.1.2 Khái niệm về mua bán hàng hóa ................................................................ 6
1.1.2 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa. ...................................................... 6
1.1.2.1 Định nghĩa của hợp đồng mua bán hàng hóa. ........................................... 6
1.1.2.2 hàng hóa Phân loại về hợp đồng mua bán. ................................................ 7
1.1.2.3 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa. .............................................. 7
1.2. Khái niệm về nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. . 9
1.2.1. khái niệm nguyên tắc giao kết hợp đồng. ......................................................... 9
1.2.1.1. Khái niệm. .................................................................................................. 9
1.2.1.2. Phân loại.................................................................................................. 10
1.2.2. Khái niệm nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng. ............................................ 11
1.2.2.1. Khái niệm. ............................................................................................... 11
1.2.2.2. Đặc điểm. ................................................................................................ 12
1.2.3. Nội dung của nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng. ........................................ 12
1.2.4. Vai trò của nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng. ........................................... 13
1.2.5. Lịch sự hình thành của nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng. ........................ 14
CHƯƠNG 2 .................................................................................................................... 16
HẠN CHẾ NGUYÊN TẮC TỰ DO TRONG GIAO KẾT ........................................ 16
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA ........................................................................ 16
2.1 Giới hạn về lựa chọn chủ thể giao kết hợp đồng. .............................................. 16
2.2 Giới hạn về lựa chọn hình thức hợp đồng. ........................................................ 19
2.3 Giới hạn về lựa chọn đối tác và đối tượng của hợp đồng. ................................ 21
2.4 Giới hạn về nội dung và thay đổi nội dung của hợp đồng. ............................... 25
2.5 Giới hạn về phạn vi thỏa thuận. ......................................................................... 31

2.6 Giới hạn về áp dụng trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng. ................... 33
2.7 Giới hạn về Quyền lùa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. .................. 38
CHƯƠNG 3
NHỮNG BẤT CẶP TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ CÁC
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TỰ DO
HỢP ĐỒNG TRONG NUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM. ............................... 45
3.1. Những bất cập trong hệ thống pháp luật về hợp đồng của Việt Nam ........... 45


3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm nguyên tắc tự do hợp đồng
trong mua bán hàng hóa ở Việt Nam ....................................................................... 47
3.2.1. Xây dựng các nguyên tắc áp dụng pháp luật; quy định cho Thẩm phán quyền
giải thích pháp luật và thừa nhận án lệ là nguồn bổ trợ của pháp luật hợp đồng ..... 47
3.2.2. Xây dựng cơ sở pháp lý điều chỉnh các điều kiện thương mại chung ........... 51
3.2.3. Hoàn thiện một số quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự (2005) ........ 54
3.2.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về giá ...................................................... 57
3.2.5. Nội luật hoá các nguyên tắc, quy phạm, tập quán quốc tế trong quan hệ hợp
đồng. ......................................................................................................................... 61
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 64


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng chủ yếu là do Nhà nước đã đưa ra các
quy định pháp luật bảo vệ quyền tự chủ của doanh nghiệp và tự do hợp đồng. Việc ban
hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Bộ luật Dân sự (1995), Luật Thương mai
(1997) và sau đó là Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương mại (2005) thay thế các văn

bản trên, đã đánh dấu những bước phát triển quan trọng của pháp luật về hợp đồng ở
Việt Nam. Quyền tự do hợp đồng đã từng bước được pháp luật bảo vệ. Sau 20 năm đổi
mới, hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng, về cơ bản, được xây dựng và hoàn
thiện theo hướng ngày càng bảo đảm nguyên tắc tự do hợp đồng, góp phần quan trọng
vào việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng còn bộc
lộ những bất cập, hạn chế trong việc bảo vệ quyền tự do hợp đồng trong hoạt động
thương mại, như: sự thiếu thống nhất, mâu thuẫn, hạn chế của các văn bản pháp luật
chuyên ngành quy định về các hợp đồng trong những hoạt động thương mại đặc thù so
với các quy định về hợp đồng của Bộ luật Dân sự (2005), nhất là các văn bản được ban
hành trước Bộ luật Dân sự (2005). Ngay trong Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương mại
(2005) vẫn còn có những hạn chế trong việc bảo đảm quyền tự do hợp đồng.
Trong quá trình nước ta đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường, dưới sức ép mạnh mẽ của tự do thương mại và quá trình toàn
cầu hoá, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam tuy đã được hoàn thiện nhưng vẫn còn
ảnh hưởng của cơ chế cũ: Nhà nước vẫn còn can thiệp sâu vào quyền tự do khế ước, vừa
không bảo vệ được trật tự công, đôi khi làm cho doanh nghiệp thế yếu và người tiêu
dùng bị thiệt thòi trước các hành vi kinh doanh thiếu bình đẳng, lợi dụng vị thế thị
trường gây thiệt hại cho đối tác. Việc bảo vệ quyền tự do xác lập hợp đồng mua bán
hàng hóa của bên ở vị trí thế yếu trước các hành vi lạm dụng quyền tự do hợp đồng của
bên có thế mạnh trong quan hệ hợp đồng chưa được pháp luật điều chỉnh cụ thể…
Trong thực tiễn giao kết hợp đồng ở Việt Nam đang tồn tại khá phổ biến việc các doanh
nghiệp lạm dụng các “điều kiện thương mại chung”, các “hợp đồng mẫu” (hợp đồng
được soạn trước), nhất là các hợp đồng được ký kết bởi các doanh nghiệp có vị trí độc
quyền. Do vậy, cần phải nghiên cứu xác định bản chất của các loại hợp đồng này. Các
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 1

SVTH: Phan Văn Chung



Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
nhà lập pháp và Toà án, Thẩm phán cần phải tạo ra các công cụ pháp lý bảo vệ quyền tự
do hợp đồng của bên yếu thế trước bên có thế mạnh hơn, bảo vệ sự “công bằng” trong
giao kết hợp đồng. Những hạn chế, bất cập này của pháp luật hợp đồng đặt ra yêu cầu
cấp thiết cần được tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện kịp thời.
Do đó em chọn "Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng” làm đề
tài luận văn cử nhân. Việc này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động
thương mại ở nước ta là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học thuộc
các lĩnh vực khác nhau. Đề tài này cũng thu hút được sự quan tâm chú ý của các tổ chức
nghề nghiệp (như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam), Các tổ chức này cũng
đã có một số nghiên cứu về lĩnh vực này.
Trong những công trình nghiên cứu, các tác giả đã tập trung luận giải một số vấn
đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật hợp đồng
của Việt Nam. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu của các công trình đặt ra khác nhau,
nên các công trình này mới dừng lại ở một số vấn đề nghiên cứu cụ thể khi đề cập đến
thực trạng pháp luật về hợp đồng của Việt Nam nhìn từ góc độ bảo đảm quyền tự do
hợp đồng. Qua đó, các công trình chỉ ra một số hạn chế, bất cập nhằm đưa ra các giải
pháp hoàn thiện cụ thể, như: về tính thống nhất của pháp luật hợp đồng; hiệu lực của
hợp đồng… Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện, mang
tính hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc tự do trong giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại, nhằm đưa ra cơ sở khoa học,
phương hướng, giải pháp việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Tuy vậy,
các công trình nghiên cứu trước là những tài liệu rất qúi giá cho việt tham khảo phục vụ
việc nghiên cứu của.
Luận văn này sẽ nghiên cứu một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn nguyên tắc tự do
trong giao kế hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại theo pháp luật
Việt Nam và đưa ra những phương hướng, giải pháp để hoàn thiện.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: một số quan điểm luật học cơ bản về
nguyên tắc tự do trong giao kế hợp đồng mua bán hàng hóa của Việt Nam trong hoạt
động thương mại; thực tiễn xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật hợp đồng trong hoạt
động thương mại ở Việt Nam.
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 2

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Phạm vi nghiên cứu của luận án: việc giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án
đối với hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại không nhằm đưa ra
cách phân biệt truyền thống giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự. Mục đích
của việc giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ nhằm chỉ ra các giới hạn của nguyên tắc tự do.
Tuy vậy, pháp luật về hợp đồng thương mại là một lĩnh vực pháp luật có nội dung rất
rộng và phức tạp, không chỉ bao gồm các giao dịch thương mại nhằm cung cấp hay trao
đổi hàng hoá, dịch vụ, mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế khác (như: đầu tư,
ngân hàng, sở hữu trí tuệ...). Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những vấn đề lý
luận cơ bản về pháp luật bảo đảm quyền tự do hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng
hóa ở Việt Nam. Khi phân tích về hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam, thông qua
một số văn bản pháp luật cơ bản còn có những điểm hạn chế, bất cập chưa bảo đảm tốt
nguyên tắc tự do trong giao kế hợp đồng mua bán hàng hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phương pháp
tổng hợp, phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp logic và lịch sử, nghiên cứu lý
luận kết hợp với thực tiễn...
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những hạn chế của nguyên tắc
tự do trong giao kế hợp đồng mua bán hàng hóa. Trên cơ sở đó, đề xuất các phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng, góp phần vào việc đáp ứng tốt
hơn yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về quyền tự do hợp đồng trong hoạt động
thương mại; vai trò, ý nghĩa của việc bảo vệ quyền tự do hợp đồng.
- Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chỉ ra những hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành trong việc bảo đảm quyền tự
do hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật bảo đảm nguyên tắc tự do trong giao kế hợp đồng mua bán hàng hóa của
hoạt động thương mại ở Việt Nam.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án
bao gồm 3 chương:
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 3

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Chương 1: Khái quát chung về nguyên tắc tự do trong giao kế hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Chương 2: Hạn chế của nguyên tắc tự do trong giao kế hợp đồng mua bán hàng
hóa.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm nguyên tắc tự do trong
giao kế hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam.


GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 4

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
CHƯƠNG 1
KHÁT QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC TỰ DO TRONG GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong quá trình thành lập và hoạt động của mình, việc các chủ thể giao kết hợp
đồng đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại là yếu tố không thể thiếu. Tuy
nhiên không phải chủ thể nào cũng có thể nhận thức và áp dụng đúng đắn những quy
định pháp luật. Ở chương này sẽ cho một cái nhìn tổng quan hơn về nguyên tắc tự do
trong giao kết hợp đồng cũng như về hợp đồng mua bán hàng hóa – một hợp đồng rất
thông dụng đối với các doanh nghiệp hiện nay.
1.1.1 Khái niệm về hàng hóa.
1.1.1.1 Khái niệm về hàng hóa.
Theo hẹp, hàng hóa là vật chất tồn tại có hình dạng xác định trong không gian và
có thể trao đổi, từ điển thì Hàng hóa là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế
chính trị. Theo nghĩa mua bán được. Theo nghĩa rộng, hàng hóa là tất cả những gì có thể
trao đổi, mua bán được1.
Luật Thương mại năm 2005, khoản 2 Điều 3, thì quy định hàng hóa bao gồm:
- Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
- Những vật gắn liền với đất đai.
Như vậy hàng hoá là những sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm
mục đích trao đổi để thoả mãn nhu cầu của con người. Hàng hoá có thể là vật, là các

quyền tài sản. Khoản 2 điều 3 luật thương mại 2005 đã mở rộng hàng hoá hơn. Theo đó
hàng hoá bao gồm tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và các
vật gắn liền với đất đai.
Tuy nhiên, khái niệm về hàng hoá vẫn còn sự hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy
trong quy định này hàng hoá chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình. Như vậy các loại tài
sản vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ… chưa được thừa nhận là
hàng hoá theo luật thương mại 2005. Như vậy, chúng ta có thể hiểu hàng hoá trong hợp
đồng mua bán hàng hoá bao gồm tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong
tương lai. Các vật gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, khi các chủ thể giam gia vào quan hệ
hợp đồng mua bán hàng hoá cần phải xem hàng hoá mà mình định mua hoặc bán là cái

1

/>
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 5

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
gì, nó có thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc hàng kinh
doanh có điều kiện hay không.
1.1.1.2 Khái niệm về mua bán hàng hóa
Mua bán hàng hóa không còn là loại hành vi mới vì Bộ Luật Dân sự đã quy định
nhiều về hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên do tính chất
của hành vi thương mại khác với hành vi dân sự nên Luật Thương mại 2005 đã quy định
hành vi mua bán hàng hóa với rất nhiều đặc điểm mới.
Theo Điều 46 Luật Thương mại, Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo

đó người bán hàng có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người
mua và nhận tiền, người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa
thuận của hai bên. Chủ thể của quan hệ mua bán hàng hóa là thương nhân hoặc một bên
là thương nhân, còn đối tượng mua bán hàng hóa là hàng hóa theo quy định của Luật
Thương mại.
1.1.2 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Việc mua bán hàng hóa phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Hợp đồng mua
bán hàng hóa được thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể. Đối với
loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì
phải tuân theo các quy định đó. Điện báo, telex, fax, thư điện tín và các hình thức thông
tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản.
1.1.2.1 Định nghĩa của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán. Bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận
nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán.
Luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua bán tài sản trong luật dân sự để xác
định bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Điều 428 Bộ luật dân sự 2005,
hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền
cho bên bán. Hàng hóa được hiểu là động sản, kể cả động sản hình thành trong tương
lai, và các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn
tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại một dạng cụ thể
của hợp đồng mua bán tài sản. Điểm phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 6


SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
thương mại và hợp đồng mua bán tài sản khác là: đối tượng hàng hóa, và mục đích sinh
lời.
1.1.2.2 hàng hóa Phân loại về hợp đồng mua bán.
Căn cứ vào phạm vi của hợp đồng có thể chia ra hai loại đó là:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước.
- Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thì đương nhiên sẽ chịu sự điều
chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ thể là luật Thương mại 2005 và các luật chuyên ngành
khác. Còn đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì các bên có thể thoả thuận áp
dụng, có thể là luật của Việt Nam hay luật của phía đối tác hay cũng có thể là luật của
một nước thứ ba..
Căn cứ vào cách thức thực hiện hợp đồng có thể chia ra hai loại:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá.
- Hợp đồng mua bán hàng hoá không qua sở giao dịch hàng hoá.
Cần lưu ý đối với loại hợp đồng mua bán qua cơ sở giao dịch hàng hoá rằng: thứ
nhất hàng hoá giao dịch tại cơ sở giao dịch phải thuộc danh mục hàng hoá giao dịch tại
sở giao dịch hàng hoá do bộ trưởng bộ thương mại quyết định. Thứ hai, theo điều 69
của luật thương mại năm 2005, thương nhân môi giới qua sở giao dịch về hàng hoá chỉ
được phép hoạt động tại sở giao dịch hàng hoá khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật; thương nhân mua bán qua sở giao dịch hàng hoá chỉ được phép thực
hiện các hoạt động mua giới mua bán qua sở giao dịch hàng hoá và không được phép là
một bên của hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá. Thứ ba, điều 70
của luật thương mại, năm 2005, các hành vi bị cấm đối với thương nhân môi giới hàng
hoá qua sở giao dịch hàng hoá:
- Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi thường toàn bộ hoặc một
phần thiệt hại phát sinh hoặc đảm bảo lợi nhuận cho khách hàng;

- Chào hàng hoặc mua giới mà khôn có hợp đồng với khác hàng;
- Sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho khách
hàng;
- Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý việc môi giới các hợp đồng
theo các nội dung đã thoả thuận với khách hàng.
1.1.2.3 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 7

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Có thể xem xét các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ
với hợp đồng mua bán tài sản theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái riêng và cái
chung.
a) Hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm chung của hợp đồng mua
bán tài sản trong dân sự như:
Là hợp đồng ưng thuận, tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên thỏa
thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ thuộc
vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành động của
bên bán nhằm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
Có tính đền bù, bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì sẽ
nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới
dạng khoản tiền thanh toán.
Là hợp đồng song vụ, mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng buộc
bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia thực
hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ

chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán phải
bàn giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bán
b) Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua
bán hàng hóa có những đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương mại của hành
vi mua bán hàng hóa:
Về chủ thể, hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu
là thương nhân. Luật thương mại 2005 quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mai một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương
nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo khoản 3
Điều 1 Luật thương mại, hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và
không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo Luật
thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật thương mại.
Về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thể hiện dưới hình thức lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong một số trường
hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới hình thức văn
bản, ví dụ như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện dưới hình thức
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như điện báo,
TELEX, FAX hay thông điệp dữ liệu.

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 8

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Về đối tượng: hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Theo nghĩa
thông thường có thể hiểu hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra

nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người. Càng ngày cùng với sự phát triển của
xã hội, hàng hóa càng trở nên phong phú. Khái niệm hàng hóa được quy định trong luật
pháp các nước hiện nay dù có những khác biệt nhất định song đều có xu hướng mở rộng
các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông. Một số cách hiểu về phạm vi hàng hóa
là đối tượng của mua bán thương mại trong pháp luật các nước như sau:
Theo luật thương mại của đa số các nước hàng hóa là đối tượng của mua bán
thương mại gồm những tài sản có hai thuộc tính cơ bản là: có thể đưa vào lưu thông và
có tính chất thương mại.
Theo luật Hoa Kỳ, hàng hóa bao gồm mọi thứ có thể dịch chuyển quyền sở hữu
được vào thời gian xác định theo hợp đồng mua bán hàng hóa, hàng hóa có thể đã có ở
hiện tại hoặc sẽ có trong tương lai.
Theo Luật thương mại Việt Nam 2005, hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua
bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai, hàng hóa
có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
1.2. Khái niệm về nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.1. khái niệm nguyên tắc giao kết hợp đồng.
1.2.1.1. Khái niệm.
Thực tế xã hội luôn tồn tại các thành phần chủ thể đại diện cho các lợi ích khác
nhau, với tiềm lực và vị thế kinh tế - xã hội khác nhau. Nếu pháp luật để cho các chủ thể
tự do thỏa thuận bằng ý chí cá nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ để tự ràng buộc
mình, mà không qui định những nguyên tắc pháp lý cần thiết để điều tiết hài hòa lợi ích
giữa các bên, thì đó sẽ là điều vô cùng mạo hiểm. Điều đó có thể sẽ tạo cơ hội để bên
mạnh thế đối xử bất công đối với bên yếu thế, làm cho những người yếu thế trong xã
hội bị càng bị thiệt thòi. Trong những hoàn cảnh như vậy, pháp luật cần có qui định
thích ứng để bảo vệ các bên yếu thế. Do đó, không thể phó mặc cho mỗi cá nhân tự bảo
vệ quyền tự do ý chí của mình mà cần phải có các nguyên tắc pháp lý an toàn cho các ý
chí đó được phát biểu đúng bản chất tự do, tự nguyện, trung thực, đích thực của mỗi
bên, trong một mối quan hệ bình đẳng và công bằng. Đó cũng là lý do phải xây dựng
nguyên tắc để điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
Như vậy quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng (Điều 395 BLDS 1995 và Điều

389 BLDS 2005) nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết,
hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình giao kết và thiết lập quan hệ hợp đồng
hợp pháp.
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 9

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1.2. Phân loại.
Nhằm hạn chế những ảnh hưởng cực đoan đến hợp đồng, tái lập sự cân bằng về lợi
ích và nhằm bảo đảm sự công bằng cho các bên tham gia hợp đồng, nên cần có những
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc thứ nhất: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội:
Các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể có
thể thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá
nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất
kỳ một giao dịch hợp đồng nào, nếu muốn. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp
luật, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù
hợp với ý chí của nhà nước. Hay nói cách khác, sự tư do ý chí giao kết hợp đồng của
các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định giới hạn lợi ích của các cá
nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để các bên tự do vô hạn,
thì hợp đồng sẽ trở thành phương tiện để kể giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ
đối với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, phải tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào
các quan hệ pháp luật. Chính vì vậy, trong xã hội ta xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích
chung của toàn xã hội (lợi ích cộng đồng) và đạo đức xã hội không cho phép bất cứ cá
nhân, tổ chức nào được lợi dụng ý chí tự do để biến những hợp đồng thành phương tiện

bóc lột. Bên cạnh việc bảo đảm lợi ích của mình, các chủ thể phải chú ý tới quyền, lợi
ích của người khác, của toàn xã hội, tự do của mỗi chủ thể không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng, của toàn xã hội được quy định bởi pháp luật và
đạo đức xã hội trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia giao
kết hợp đồng nói riêng, và trong mọi hành vi của chủ thể nói chung.
- Nguyên tắc thứ hai: tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng:
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng không
ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình. Quy luật giá trị đòi hỏi các
bên chủ thể khi tham gia các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau, không ai được
viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn
giáo… để tạo ra sự bất bình đẳng. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của cac bên chủ thể tham
gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi phương diện.
Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết thiếu sự bình
đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc
đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý chí tự nguyện của các bên hay chưa,
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 10

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
trong một số trường hợp lại là một công việc hoàn toàn không đơn giản và khá phức tạp
bởi nhiều nguyên do chủ quan và khách quan khác nhau.
Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên
trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất ý chí của
chủ thể giao kết hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong nội dung hợp đồng mà chủ thể
này đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để xác định một hợp đồng đã đảm bảo nguyên

tắc tự nguyện hay chưa. Hay nói cách khác, việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự
nguyện khi hình thức của hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong
muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
Do đó, theo quy định của pháp luật thì tất cả những hợp đồng được giao kết do bị
nhầm lẫn, lừa dối hay bị đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao
kết và do đó bị vô hiệu.
Tóm lại, xác định các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng có một ý nghĩa rất quan
trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng chế định hợp đồng, góp phần nâng
cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu tìm hiểu nó một cách chi tiết, khoa học vấn đề này luôn được đặt ra nhằm
ngày càng làm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật về hợp đồng, giúp các chủ thể có
thể tự bảo đảm được lợi ích cá nhân cũng như lợi ích cộng đồng khi tham gia giao kết
hợp đồng.
1.2.2. Khái niệm nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng.
Từ khi hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước được xác định chuyển sang cơ chế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, để đảm bảo thực hiện các cam kết khi Việt
Nam tham gia các tổ chức quốc tế, thực hiện các điều ước quốc tế, thì Nhà nước đã sửa
đổi pháp luật về hợp đồng cho phù hợp với các luật chơi chung, nên pháp luật về hợp
đồng kinh doanh của Việt Nam đã có những thay đổi căn bản cả về đối tượng và
phương pháp điều chỉnh. Trên cơ sở đó, quyền tự do hợp đồng trong lĩnh vực kinh
doanh mua bán hàng hóa, từng bước được ghi nhận và bảo đảm trên thực tế.
1.2.2.1. Khái niệm.
Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể nhằm
xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình
đẳng. Tự do ý chí luôn được xác định là nguyên tắc cốt lõi của hợp đồng mua bán hàng
hóa.. Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có
tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà
không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác.

GVHD: Cao Nhất Linh


Trang 11

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự
nguyện.
Chính vì vậy theo tắc tự do giao kết hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng
được quyết định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức
nào kể cả Nhà nước được can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên,
sự tự do ý chí của các bên chủ thể khi giao kế hợp đồng không được trái pháp luật, đạo
đức xã hội. Tức là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không được trái với điều
cấm của pháp luật và những chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận rộng rãi.
1.2.2.2. Đặc điểm.
Đặc điểm của nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nằm ở ý chí tự nguyện của chủ
thể, là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu không được biểu hiện ra bên ngoài, thì
người khác không thể biết được. Có tác giả cho rằng, “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai
mặt của tự nguyện”2. Tự nguyện nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và
phải có “sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí”. Không có tự do ý chí và sự bày
tỏ ý chí hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ không có sự tự nguyện.
Ngoài ra đặc điểm của nguyên tắc giao kết hợp đồng còn nằm ở năng lực hành vi
của chủ thể, là yếu tố nhằm đảm bảo chủ thể có tư cách độc lập để tự mình xác lập, thực
hiện hợp đồng, nội dung và mục đích là những điều khoản, căn cứ để thực hiện hợp
đồng tự nguyện là yếu tố đảm bảm cho hợp đồng được tạo ra đúng ý chí đích thực của
các bên. Bởi vậy, đây là ba yếu tố pháp lý quan trọng được pháp luật qui định là điều
kiện bắt buộc của mọi hợp đồng.
Khi giao kết hợp đồng ý chí và hành vi của các chủ thể không được đảm bảo thì
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng chính vì vậy hợp đồng

sẽ không có hiệu lực.
1.2.3. Nội dung của nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng.
Tự do giao kết hợp đồng là nguyên tắc cơ bản của giao kết hợp đồng nói chung.
Theo đó, dù thiết lập quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực nào (dân sự, thương mại hay lao
động), các chủ thể đều được tự do về mặt ý chí, không có chủ thể nào có quyền áp đặt ý
chí để bắt buộc hay ngăn cản chủ thể khác giao kết hợp đồng. Quyền tự do giao kết hợp
đồng xuất phát từ bản chất của hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất về
mặt ý chí giữa các chủ thể, nhưng không phải tất cả những thỏa thuận giữa các chủ thể
đều là hợp đồng. Sự thỏa thuận chỉ có thể trở thành hợp đồng khi ý chí của các chủ thể
được thể hiện (trong sự thỏa thuận) phù hợp với “ý chí thực” của họ. Với yêu cầu đó, tự
do trong giao kết hợp đồng phải được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản. Quyền tự do
2

"Hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm nhìn từ quyền tự do hợp đồng" của TS. Nguyễn Am Hiểu 2004

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 12

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
giao kết hợp đồng được thể hiện trong pháp luật hợp đồng khá nhất quán. Điều 389 Bộ
Luật Dân sự 2005 quy định việc giao kết hợp đồng dân sự được thực hiện theo các
nguyên tắc: “1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội; 2.
Tự nguyện bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng”. Điều 11 Luật
Thương Mại 2005 quy định nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động
thương mại: “1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của
pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của

các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó. 2.
Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực
hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào”.
Quyền tự do giao kết hợp đồng còn được thể hiện ở quy định về phạm vi những
chủ thể có quyền giao kết hợp đồng. Tùy thuộc vào tính chất của từng loại hợp đồng,
phạm vi chủ thể có quyền giao kết có những sự khác nhau nhất định: Theo Bộ Luật Dân
sự, chủ thể của hợp đồng dân sự bao gồm: cá nhân có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình3. Theo Luật Thương mại, chủ thể của
hợp đồng thương mại là thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh4. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, mọi quyền tự do trong xã hội có Nhà nước đều
phải đặt trong khuôn khổ pháp luật. Để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, trong đó có
lợi ích của bản thân các chủ thể hợp đồng, pháp luật các nước cũng như pháp luật Việt
Nam đều có những giới hạn nhất định đối với các chủ thể khi thực hiện quyền tự do
giao kết hợp đồng. Các quy định hạn chế đối với quyền tự do giao kết hợp đồng thể hiện
ở chỗ khi thực hiện quyền này, các chủ thể hợp đồng phải đáp ứng các yêu cầu: không
trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, người giao kết có năng lực giao kết hợp đồng.
1.2.4. Vai trò của nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng.
Việc bảo đảm nguyên tắc tự do giao kết hợp còn nhằm bảo đảm sự bình đẳng và
lợi ích của các chủ thể, là cơ sở pháp lý cho sự hợp tác giữa các doanh nghiệp. Nguyên
tắc tự do giao kết hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nhà kinh doanh.
Thông qua việc thiết lập và thực hiện các hợp đồng, các chủ thể kinh doanh có thể tiến
hành các hoạt động kinh doanh một cách chủ động, sáng tạo và đạt hiệu quả cao. Về
mặt lý luận, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng thương mại được coi là một bộ phận
cấu thành quan trọng, là biểu hiện sinh động nhất của quyền tự do kinh doanh. Việc ghi
nhận và bảo đảm nguyên tắc tự do giao kết hợp bằng pháp luật có tác động lớn tới
quyền tự do kinh doanh của các các chủ thể kinh doanh.
3
4


Điều 14,15,16,17, 84, 106, 111 BLDS 2005
khoản 1, Điều 6 Luật TM 2005

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 13

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Việc bảo đảm nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng có vai trò quan trọng cho việc
quản lý và thúc đẩy sự phát triển kinh tế ­ xã hội, bảo đảm các quyền cơ bản của con
người về dân sự, kinh tế, như: quyền sở hữu cá nhân, tự do kinh doanh, quyền tự do cư
trú, quyền tự do đi lại và các quyền cơ bản khác của con người được pháp luật thừa
nhận.
1.2.5. Lịch sự hình thành của nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng.
Trong suốt thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta cũng như
nhiều nước XHCN trước đây, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng trong hoạt động
thương mại không được bảo đảm do bị chi phối bởi cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp của Nhà nước.
Đến cuối năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã đề ra đường
lối đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Sau đó, đường lối phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường đã được thể chế hoá trong Hiến pháp
năm (1992)5 và nhiều văn bản pháp luật quan trọng khác. Văn bản pháp lý đầu tiên ra
đời quy định về quyền tự do hợp đồng trong cơ chế thị trường là Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế (1989)6, Bộ luật Dân sự (1995)7, Bộ luật Dân sự (2005)8, Luật Thương mại
(1997)9, Luật Thương mại (2005)10, Bộ luật Hàng hải (2005)11... Theo các văn bản này,
Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các quan hệ kinh tế nói chung, quan hệ hợp

đồng trong hoạt động thương mại nói riêng. Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô, với tư
cách là chủ thể quyền lực công, ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
trong hoạt động thương mại.
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng không chỉ phụ thuộc vào tính chất của cơ chế
quản lý kinh tế mà còn phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của chính cơ chế
quản lý kinh tế đó. Điều này được chứng minh rõ trong hơn 20 năm chuyển sang cơ chế
quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường của Việt Nam vừa qua. Cùng với việc ngày càng
hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường, nguyên tắc tụ do giao kết hợp
đồng ngày càng được pháp luật bảo đảm tốt hơn trong các văn bản pháp luật.
Kết luận chương 1
1. Với vai trò quan trọng trong giao lưu dân sự, thương mại, pháp luật hợp đồng đã
được ra đời. Bên cạnh quan niệm truyền thống là sự thống nhất ý chí của các bên nhằm
Điều 15, Điều 22. Hiến pháp năm 1992.
Điều 3, Điều 4. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989.
7 Điều 7, Điều 8, Điều 9. Bộ luật Dân sự 1995.
8 Điều 389. Bộ luật Dân sự 2005.
9 Điều 7. Luật thương mại 1997.
10 Điều 11. Luật thương mại 2005.
11 Điều 4. Bộ luật Hàng hải 2005.
5
6

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 14

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa

làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý vào thời điểm giao kết,
hợp đồng ngày càng mang tính chất của một quá trình có điều tiết. Trong xã hội hiện
đại, hợp đồng được pháp luật các nước đề cập đến như một quyền cơ bản của con người
về dân sự, kinh tế ­ quyền tự do hợp đồng.
2. Tuỳ thuộc vào sự phát triển của từng giai đoạn lịch sử cũng như điều kiện kinh
tế, xã hội ở mỗi nước, các nội dung trên của quyền tự do hợp đồng trong hoạt động
thương mại được thể hiện ở những mức độ khác nhau do nó chịu sự chi phối của các
yếu tố: chế độ sở hữu, cơ chế quản lý kinh tế và yếu tố hội nhập quốc tế. Chính vì vậy,
việc bảo đảm sự đa dạng các hình thức sở hữu, tôn trọng tính thị trường trong việc thực
hiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế… là các
cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do hợp đồng trong hoạt động
thương mại. Bởi vì, việc xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm quyền tự do hợp
đồng phù hợp cơ chế thị trường có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế,
phát triển kinh tế ­ xã hội, bảo đảm các quyề cơ bản của con người về dân sự, kinh tế.
3. Để bảo đảm cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, bảo đảm quyền tự do
hợp đồng, Nhà nước cần hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp trực tiếp, thông qua các
biện pháp hành chính vào các quan hệ hợp đồng. Nhà nước chỉ tác động vào quan hệ
hợp đồng thông qua các con đường: ban hành các văn bản pháp luật quy định bảo đảm
quyền tự do hợp đồng và thông qua hoạt động xét xử của Toà án. Trong trường hợp đặc
biệt, trên cơ sở áp dụng văn bản có giá trị như một đạo luật, cơ quan quản lý nhà nước
được quyền tác động vào quyền tự do hợp đồng của các chủ thể, nhưng sự tác động của
Nhà nước phải nhằm bảo vệ sự công bằng trong quan hệ hợp đồng, bảo vệ trật tự công
cộng, lợi ích chung của xã hội.

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 15

SVTH: Phan Văn Chung



Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
CHƯƠNG 2
HẠN CHẾ NGUYÊN TẮC TỰ DO TRONG GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng trong hoạt động thương mại ở nước ta có quá
trình phát triển qua từng giai đoạn, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. Với
việc ban hành Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương mại (2005), hệ thống pháp luật về
hợp đồng hiện nay so với trước đây đã tương đối đầy đủ, thống nhất theo hướng ngày
càng bảo đảm quyền tự do hợp đồng trong hoạt động thương mại. Luật Thương mại
(2005) và các văn bản luật chuyên ngành, với tính chất là luật chuyên ngành, quy định
về các điểm đặc thù về hợp đồng và nguyên tắc tự do hợp đồng trong các lĩnh vực hoạt
động thương mại. Bên cạnh những ưu điểm, hệ thống pháp luật hợp đồng nước ta còn
có những hạn chế gây ảnh hưởng đến nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa.
2.1 Giới hạn về lựa chọn chủ thể giao kết hợp đồng.
Chủ thể, hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân hoặc một trong hai bên là thương nhân. Theo quy định của Luật Thương
mại năm 2005, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục đích hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh sẽ được coi là thương nhân. Thương
nhân là chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương nhân Việt Nam hoặc
thương nhân nước ngoài. Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không
phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Khác với bên thương nhân , bên không phải là thương nhân có thể là chủ thể có đủ năng
lực hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định
của pháp luật. Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm
mục đích sinh lợi trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo Luật thương mại khi
chủ thể này lựa chọn áp dụng luật thương mại.

Như đã phân tích ở trên, một trong những đặc điểm của hợp đồng thương mại là
nó được ký kết chủ yếu giữa các thương nhân mà theo quy định của Điều 6 LTM, “bao
gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Chính vì đặc điểm này mà khi
thương nhân thực hiện giao kết hợp đồng thương mại thì lại đặt ra vấn đề ai là người đại
diện cho thương nhân tiến hành thực hiện giao kết hợp đồng.
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 16

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong một doanh nghiệp thì việc ký hợp đồng sẽ được giao cho người đại diện
thực hiện. Theo quy định của pháp luật thì có hai loại đại diện: đại diện đương nhiên
theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền. Theo quy định của luật doanh nghiêp thì
người đại diện đương nhiên theo pháp luật của các doanh nghiệp được xác định như
sau: Đối với doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại điện theo
pháp luật12.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn (“TNHH”) một thành viên, Công ty TNHH
có từ hai thành viên trở lên, công ty cổ phần thì người đại diên theo pháp luật là Tổng
giám đốc (Giám đốc), trừ trường hợp điều lệ công ty quy định chủ tịch hội đồng thành
viên, chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật13. Đối với công ty hợp
danh thì người đại diện theo pháp luật là các thành viên hợp danh14. Theo luật hợp tác
xã 2012 thì người đại diện theo pháp luật là chủ tịch hội đồng quản trị15. Còn kinh
doanh về hộ gia đình thì chủ hộ là người đại diện.
Như vậy, người đại diện theo pháp luật họ có quyền nhân danh thương nhân để ký
kết hợp đồng. Điều đó cũng có nghĩa là tất cả những người khác, dù giữ bất cứ chức vụ
gì đều không có quyền tự mình ký hợp đồng nhân danh thương nhân mà họ chỉ có

quyền ký hợp đồng theo sự uỷ quyền của người đại diện theo pháp luật và chỉ được ký
hợp đồng trong phạm vi uỷ quyền.
Tuy nhiên trên thực tế không phải tất cả các thương nhân đều thực hiện theo đúng
những quy định của pháp luật, có rất nhiều trường hợp Phó giám đốc, trưởng phòng,
trưởng chi nhánh, trưởng các bộ phận ký hợp đồng không được sự uỷ quyền của người
đại diện theo pháp luật. Cũng có trường hợp có giấy uỷ quyền nhưng người ký hợp
đồng đã ký vượt quá phạm uy quỷ quyền, hay giấy uỷ quyền không còn thời hạn uỷ
quyền. Tất cả những trường hợp trên, nếu căn cứ vào quy định của pháp luật thì hợp
đồng có nhiều khả năng bị tuyên bố vô hiệu, mà hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu sẽ gây ra
thiệt hại cho một bên hoặc cả hai bên. Nguyên nhân xã ra tình trạng này là do trong quá
trình hợp tác các bên thường tin tưởng và không quan tâm nhiều đến khía cạnh pháp lý
khi giao kết hợp đồng. Do vậy, để đảm bảo tránh rủi ro, các bên cần xem xét kỹ thẩm
quyền đại diện của người ký kết hợp đồng thương mại trong từng giao dịch cụ thể.
Luật Thương mại quy định. “Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong
các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo phương thức mà pháp luật
không cấm.” Ngoài ra Điều 2 Luật Thương mại quy định đối tượng áp dụng của Luật
Thương mại là thương nhân hoạt động thương mại, mà không có sự phân biệt thương
Khoản 4 Điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005.
Khoản 8 Điều 22, Điều 46, Khoản 5 Điều 67 và Điều 95 của Luật Doanh nghiệp 2005.
14 Điều 134. Luật Doanh nghiệp 2005.
15 Khoản 1, Điều 37. Luật hợp tác xã 2012.
12
13

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 17

SVTH: Phan Văn Chung



Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
nhân là doanh nghiệp hay là cá nhân có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại. Việc
dùa trên tiêu chí về chủ thể (là doanh nghiệp hay không phải là doanh nghiệp) để quy
định điều kiện kinh doanh hoạt động thương mại là không phù hợp nguyên tắc tự do
hợp đồng và nguyên tắc bình đẳng giữa các thương nhân. Điều này dẫn đến những bất
cập cơ bản là pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng trong hoạt động thương mại
nói riêng không bảo đảm tính hệ thống và thống nhất. Pháp luật về hợp đồng trong hoạt
động thương mại chỉ bảo đảm tính hệ thống khi nó được xây dựng trên cơ sở những
nguyên tắc thống nhất, trong đó nguyên tắc cơ bản nhất là bảo đảm sự tự do, bình đẳng,
công bằng trong giao kết hợp đồng.
Một vấn đề nữa là các văn bản pháp luật chuyên ngành thường đặt ra các điều kiện
về chủ thể tham gia các hoạt động thương mại chặt chẽ nhằm hạn chế sự gia nhập thị
trường. Trong nhiều lĩnh vực hoạt động thương mại, quyền tự do kinh doanh, tự do hợp
đồng của các chủ thể bị giới hạn so với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương
mại. Quy định hoạt động kinh doanh các lĩnh vực là các ngành nghề kinh doanh có điều
kiện theo quy định của pháp luật đối với các chủ thể muốn tham gia vào lĩnh vực này.
Một số lĩnh vực hoạt động thương mại còn tồn tại sự độc quyền nhà nước như: Bưu
chính viễn thông, điện lực… Nhiều lĩnh vực bị hạn chế các loại hình doanh nghiệp tham
gia, ví dụ như: Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Hàng không
dân dụng… không cho phép các nhà đầu tư thuộc loại hình doanh nghiệp tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động.
Ngoài ra chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa còn bị giới hạn bởi năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Đối với các cá nhân, để tham gia vào các
giao dịch mua bán hàng hóa phải đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự. Đây cũng là một trong các điều kiện hiệu lực của hợp đồng theo quy
định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005.
Năng lực pháp luật dân sự là khả năng được hưởng quyền lợi và gánh vác những
nghĩa vụ dân sự nhất định (Điều 14 Bộ luật dân sự năm 2005). Năng lực pháp luật dân
sự có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Năng lực pháp luật dân sự

không bị giới hạn bởi tuổi tác, sức khỏe hay bất kỳ một điều kiện nào khác ngoại trừ
những người phạm tội bị truy tố.
Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập,
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự trong thực tế (Điều 17 Bộ luật dân sự năm 2005).
Năng lực hành vi dân sự bị giới hạn bởi hai điều kiện là điều kiện về tuổi và điều kiện
về sức khỏe. Theo Điều 17, 18 và 19 Bộ luật dân sự năm 2005, người từ đủ 18 tuổi trở
lên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có khả năng tự quyết và chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Cần chú ý có ngoại lệ là đủ 18 tuổi nếu mắc bệnh tâm thần,
GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 18

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
bệnh về trí lực thì không có năng lực hành vi, không được giao kết hợp đồng mà phải
do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
Quy định về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự là điều kiện bắt
buộc phải có để các cá nhân muốn trở thành chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa mang tính dân sự. Muốn giao kết các hợp đồng mua bán hàng hóa mang tính
thương mại, các nhân còn phải thỏa mãn điều kiện nữa là phải có đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
Đối với tổ chức, việc xác định năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân
sự phụ thuộc vào việc tổ chức đó có được công nhận là pháp nhân hay không. Tổ chức
có thể là một công ty, xí nghiệp, hiệp hội, hoặc một cơ quan nhà nước. Năng lực pháp lý
và năng lực hành vi của tổ chức phát sinh khi tổ chức đó được thành lập và chấm dứt
khi tổ chức đó bị giải thể, bị phá sản hoặc bị đình chỉ hoạt động. Năng lực này sẽ được
cụ thể hóa trong điều lệ hoạt động, phù hợp với quy định của pháp luật.
2.2 Giới hạn về lựa chọn hình thức hợp đồng.

Theo nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận, các bên có thể xác lập hợp đồng
dưới bất cứ hình thức nào, theo cách mà họ muốn, chỉ cần đạt được sự thoả thuận, thống
nhất ý chí của các bên, hợp đồng coi như được hình thành16.
Các quy định này của Bộ luật Dân sự 2005 có những điểm tiến bộ sau: một là, đã
bảo đảm quyền tự do lùa chọn hình thức hợp đồng, xoá bỏ quy định về điều kiện hình
thức văn bản hợp đồng đối với các hợp đồng thương mại cũng như hợp đồng mua bán
hàng hóa. Hai là, thể hiện xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công
nhận hiệu lực, cam kết của các bên mà không phụ thuộc vào hình thức hợp đồng (trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác về thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng). Điều này cho thấy sự tôn trọng quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng
và tôn trong ý chí của các bên. Ba là, hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có sự
vi phạm về hình thức hợp đồng. Đây được coi là điểm mới đáng kể so với pháp luật về
hợp đồng của Việt Nam trước đây, qua đó đã khắc phục được những điểm bất cập trong
thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng trong hoạt động thương mại, nhất là trong
trường hợp mà rất nhiều hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm hình thức hợp đồng,
đã tạo ra rủi ro pháp luật cho các chủ thể trong hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra, một trong những điểm tiến bộ của pháp luật hợp đồng Việt Nam so với
trước đây là đã thừa nhận giá trị pháp lý của hình thức hợp đồng điện tử. Giá trị pháp lý
của hợp đồng điện tử đã được pháp luật thừa nhận17. Các giao dịch trong hoạt động
16
17

Điều 401, Khoản 2 Điều 124 của Bộ luật Dân sự 2005
Điều 15 của Luật Thương mại 2005.

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 19

SVTH: Phan Văn Chung



Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
thương mại thông qua các phương tiện điện tử dưới hình thức các thông điệp dữ liệu
đáp ứng các điều kiện quy định của pháp luật có giá trị pháp lý tương đương văn bản.
Việc thừa nhận giá trị pháp lý của hình thức hợp đồng điện tử trong hợp đồng mua bán
hàng hóa đã cho thấy pháp luật hợp đồng của Việt Nam ngày càng bảo đảm tốt hơn
quyền tự do hình thức hợp đồng của các chủ thể nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của
thực tiễn hoạt động thương mại trong thời đại nền kinh tế số, yêu cầu hội nhập và phù
hợp với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh việc thừa nhận rộng rãi quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng, pháp
luật về hợp đồng của Việt Nam cũng quy định những trường hợp hạn chế. Đó là đối với
một số hợp đồng quan trọng nhất định đòi hỏi việc thể hiện ý chí của các bên tham gia
hợp đồng phải thật sự rõ ràng, chắc chắn. Vì vậy, hợp đồng phải tuân thủ một hình thức
do pháp luật quy định, như: phải được lập bằng văn bản, có công chứng hoặc phải được
đăng ký, xin phép bởi cơ quan có thẩm quyền…18 .
Trong hoạt động thương mại, việc quy định điều kiện về hình thức hợp đồng nhằm
các mục đích: tạo bằng chứng về hợp đồng đã được giao kết, nhất là các hợp đồng có
giá trị lớn và hợp đồng dài hạn; tạo thói quen thận trọng khi giao kết hợp đồng và tạo ra
các chuẩn mực trong giao kết hợp đồng; nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên giao
kết hợp đồng và người thứ ba có liên quan khi có tranh chấp. Trong một số trường hợp,
việc quy định hình thức hợp đồng còn phục vụ cho việc quản lý nhà nước đối với các
giao dịch (đăng ký hợp đồng, xin phép, công chứng, chứng thực hợp đồng…). Tuy
nhiên, Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 khi quy định về những loại hợp
đồng cụ thể còn quy định nhiều trường hợp, hợp đồng mua bán hàng hóa phải được giao
kết bằng hình thức bằng văn bản. Theo Luật Thương mại 2005, các hợp đồng mua bán
hàng hóa sau phải lập thành văn bản: hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế19, hợp đồng
đại diện cho thương nhân20, hợp đồng đại lý21 …..
Các quy định trên cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam còn quy định quá nhiều
trường hợp, hợp đồng phải tuân thủ điều kiện về hình thức văn bản hợp đồng. Việc quy

định hợp đồng phải tuân thủ điều kiện về hình thức nhất định chỉ trong trường hợp
nhằm bảo đảm thực hiện việc quản lý nhà nước đối với giao dịch. Ngoài trường hợp
này, các bên được tự do lùa chọn hình thức hợp đồng. Điều này dùa trên những lý do
sau:
Một là, trong thực tiễn hoạt động thương mại, việc giao kết hợp đồng bằng văn
bản bảo đảm cho các bên thận trọng hơn trong làm ăn với nhau. Tuy nhiên, trong nhiều
Khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005.
Điều 27 của Luật Thương mại 2005.
20 Điều 145 của Luật Thương mại 2005.
21 Điều 168 của Luật Thương mại 2005.
18

19

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 20

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
trường hợp, hình thức văn bản hợp đồng không phù hợp với yêu cầu của hoạt động
thương mại phải nhanh chóng, kịp thời. Nếu như các bên chỉ muốn thoả thuận miệng
với nhau và họ muốn thoả thuận đó được thực hiện và thi hành ngay để đáp ứng kịp thời
yêu cầu kinh doanh thì thoả thuận đó cần phải được pháp luật thừa nhận. Trong trường
hợp đó, việc yêu cầu hình thức văn bản đối với các hợp đồng trong hoạt động thương
mại là không phù hợp.
Hai là, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 và các luật
chuyên ngành quy định đối với những trường hợp “hợp đồng phải được lập thành văn

bản”, hoặc “hợp đồng phải được công chứng, chứng thực”, hoặc “hợp đồng phải được
đăng ký”…, nhưng trong thực tế giao kết hợp đồng, các hợp đồng này không tuân thủ
các yêu cầu về hình thức quy định trên thì giải quyết như thế nào? sẽ vô hiệu hoàn toàn
hay chỉ không có hiệu lực đối với người thứ ba? Hợp đồng khi đó sẽ vô hiệu tuyệt đối
hay vô hiệu tương đối? Đây là vấn đề mà Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005
chưa làm rõ. Để làm rõ vấn đền này, cần phải có sự quy định cụ thể những loaị hợp
đồng nào cần phải tuân thủ điều kiện về hình thức thì mới có hiệu lực. Tác giả cho rằng,
điều kiện hình thức hợp đồng bằng văn bản chỉ có có ý nghĩa về mặt chứng cứ, tạo thối
quen thận trọng trong giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu không có chứng
cứ chứng minh cho việc giao kết hợp đồng thì hợp đồng đó có thể không được Toà án
công nhận. Tuy nhiên, trong trường hợp hai bên tự nguyện thi hành (mặc dù vi phạm về
hình thức), thì Toà án cũng không tự ý mình can thiệp vào quan hệ tư. Trường hợp này,
tuy có vi phạm về hình thức, hợp đồng vẫn tồn tại và được thừa nhận trên thực tế. Như
vậy, hợp đồng vi phạm về hình thức thì không dẫn đến vô hiệu.
Ngoài ra, Điều 143 Bộ luật Dân sự 2005 quy định “Trong trường hợp pháp luật
quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự mà
các bên không tuân theo, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của
giao dịch trong một thời hạn; nếu quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô
hiệu”. Trong thực tế, quy định này ít có tính khả thi, vì: khi đã xẩy ra tranh chấp thì các
bên hầu như không còn thiện chí để thực hiện việc hợp tác để sửa chữa sai sót, đặc biệt
là đối với bên có lợi khi chấm dứt hợp đồng. Quy định này còn làm kéo dài và phức tạp
thêm việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại, đi ngược lại yêu cầu giải quyết
tranh chấp nhanh chóng của hoạt động thương mại. Rõ ràng, trong quy định tại Điều
143 Bộ luật Dân sự 2005 chưa bảo đảm nguyên tắc tự nguyện thoả thuận, tự do hợp
đồng của các chủ thể.
2.3 Giới hạn về lựa chọn đối tác và đối tượng của hợp đồng.

GVHD: Cao Nhất Linh


Trang 21

SVTH: Phan Văn Chung


Nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Ngày nay, pháp luật hợp đồng quy định quyền tự do hợp đồng với ý nghĩa như là
nguyên tắc cơ bản được quy định và bảo đảm thực hiện trong các văn bản pháp luật
quan trọng của quốc gia, như: Bộ luật Dân sự hay Luật Thương mại. Theo đó, nguyên
tắc tự do lựa chọn đối tác ký kết hợp đồng là một nguyên tắc vô cùng quan trọng. Theo
nguyên tắc này, các bên có quyền tự do giao kết hợp đồng hoặc tự do không giao kết
hợp đồng với chủ thể nhất định. Theo nguyên tắc này, tất cả các chủ thể có đầy đủ năng
lực pháp luật đều có quyền tự do quyết định việc ký kết hợp đồng mà không một chủ
thể hay một tổ chức, cá nhân nào được ngăn cản hay can thiệp vào quyền này một cách
bất hợp pháp. Nguyên tắc này được thể hiện qua các nội dung sau: Một là, các bên có
quyền tự quyết định việc đưa ra đề nghị hay không đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng
cũng như nội dung của đề nghị giao kết. Khi nhận được đề nghị, các bên có quyền quyết
định chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị. Việc quyết định ký hay không ký hợp
đồng là do ý chí của các bên, không bị ảnh hưởng bởi ý chí hay sự ép buộc của bên kia
hay người thứ ba nào khác. Hai là, các bên có quyền lựa chọn ký kết hợp đồng với chủ
thể này và từ chối ký kết hợp đồng với chủ thể khác. Các thương nhân có quyền tự do
quyết định họ sẽ ký kết hợp đồng với ai. Họ có quyền quyết định ai là người họ sẽ bán
hàng hoặc cung cấp dịch vụ của mình và ai là người họ muốn mua hàng hoặc nhận cung
cấp dịch vụ cho mình, cũng như họ có quyền thoả thuận những điều khoản hợp đồng cụ
thể. Trong hoạt động thương mại, nguyên tắc này được coi là nền tảng của một trật tự
kinh tế mang tính mở trên thị trường cạnh tranh.
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có những trường hợp giới hạn nhất định. Để bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng, trật tự công cộng, quyền tự do lựa chọn đối tác ký kết
hợp đồng phải được thực hiện không trái với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội,
trật tự công cộng. Pháp luật các nước quy định các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc

này bao gồm: Hợp đồng bị cấm giao kết trong một số lĩnh vực kinh tế, thương mại nhất
định có sự điều chỉnh của Nhà nước, hoặc đối với từng loại hợp đồng cụ thể, Nhà nước
quy định các bên phải ký kết hợp đồng, hoặc không được ký kết hợp đồng.
Các lĩnh vực kinh tế, thương mại mà các chủ thể không được giao kết hợp đồng:
Xuất phát từ yêu cầu quản lý của Nhà nước, vì lợi ích chung, Nhà nước có thể tác động
vào quyền tự do thương mại trong một số lĩnh vực, ngành kinh tế. Trong những trường
hợp đó, một số hàng hoá, dịch vụ bị cấm kinh doanh hoặc chỉ có thể mua được từ một
nhà cung cấp thường là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước. Đối với
những lĩnh vực nhất định, những hàng hoá, dịch vụ Nhà nước cấm kinh doanh, các chủ
thể cũng không được phép ký kết hợp đồng trong những lĩnh vực đó hoặc đối với các
hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh.

GVHD: Cao Nhất Linh

Trang 22

SVTH: Phan Văn Chung


×